Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG SƠN LA THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.35 KB, 10 trang )

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG SƠN LA THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HÓA
ThS. Tòng Thị Quỳnh
Hương
Trường Đại Học Tây Bắc
1. TÓM TẮT
Sơn La là tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn trong tiểu vùng kinh tế Tây Bắc, với nông
nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo, chiếm tỉ trọng cao và thu hút nhiều lao động. Xét về
nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, Sơn La có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
một nền nông nghiệp với cơ cấu cây trồng vật nuôi đa dạng và có giá trị kinh tế. Trong
thời kì công nghiệp hóa, nền sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc, phụ thuộc vào tự nhiên,
phương thức canh tác lạc hậu đã dần được khắc phục, chuyển dần sang nền nông nghiệp
hàng hóa, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất; vì vậy đã đạt được một số kết
quả trong việc đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ và tạo đà cho sự chuyển dịch cơ cấu
trong nội bộ ngành nông nghiệp, đặc biệt là chuyển dịch trong cơ cấu cây trồng của tỉnh.
Now, in Son La’s internal cultivation is happening 2 trends at the same time. First of all,
this is the transferable trend internal food plants, that transfers from rice to maize. The
second, this is the transfer a part of cultivated area from industrial-short day crops to
industrial-long day crops and fruit-trees, especially special plants that have high economic
value; góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, sử dụng hợp lí tài
nguyên và nâng cao hiệu quả sản xuất ngành trồng trọt nói riêng, ngành nông nghiệp của
tỉnh nói chung. These are the exact trend in fact.
2. NỘI DUNG
2.1. Vài nét khái quát về tình hình phát triển ngành trồng trọt tỉnh Sơn La
Trồng trọt là ngành sản xuất chính, luôn chiếm trên 70% giá trị sản xuất nông nghiệp
tỉnh Sơn La và có xu hướng giảm nhẹ về tỉ trọng trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp
toàn giai đoạn, từ 80,7% năm 2000 xuống còn 72,1 % năm 2009, song chưa ổn định. Điều
kiện đất đai và khí hậu thích hợp đã tạo cho tỉnh phát triển nhiều loại cây trồng, trong đó
có các loại cây đặc sản.
Cơ cấu cây trồng của tỉnh gồm có cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu,
thực phẩm… trong đó cây hàng năm là chủ yếu, chiếm 86,69% diện tích các loại cây trồng
của tỉnh năm 2009.


Hình 1: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt theo giá thực tế
phân theo nhóm cây trồng tỉnh Sơn La năm 2000 và 2009 (Đơn vị %)
Năm
Năm
2009
2000


(Nguồn: [1])
Giá trị sản xuất (GTSX) ngành trồng trọt của tỉnh tăng lên nhanh chóng, từ 866,6 tỉ
đồng (năm 2000) lên trên 4536,7 (năm 2009), đến 2010 ước đạt 5095,6 tỉ đồng, gấp 5,2
lần so với năm 2000. Trong cơ cấu GTSX ngành trồng trọt thì lương thực là nhóm cây
trồng chủ đạo, đóng góp từ 50 - 60% và có xu hướng giảm nhẹ trong cơ cấu. Các nhóm
cây trồng khác như cây công nghiệp, cây ăn quả tuy có sự giảm nhẹ về tỉ trọng song giá trị
tuyệt đối tăng khá nhanh, từ 2-3 lần trong giai đoạn 2000-2009.
GTSX trên một hecta đất canh tác của ngành trồng trọt tăng khá nhanh, từ 5,4 triệu
đồng/ha/năm (năm 2000) lên 17,5 triệu đồng/ha/năm (năm 2009), song có sự khác nhau
giữa các nhóm cây trồng. Năm 2009, GTSX trên một hecta đất canh tác của cây ăn quả đạt
giá trị cao nhất với 23,1 triệu đồng; tiếp theo là rau đậu và các loại cây trồng khác (22,8
triệu đồng), cây công nghiệp lâu năm (19,5 triệu đồng); thấp nhất là nhóm cây công
nghiệp hàng năm (15,9 triệu đồng) và cây lương thực (15,7 triệu đồng).
Tốc độ tăng trưởng GTSX ngày càng cao: giai đoạn 1995 - 2000 chỉ đạt 5,3%/năm thì
đến giai đoạn 2001 - 2009 đã đạt 6,8%/năm.
Diện tích các loại cây trồng có sự tăng nhẹ, từ 159,6 nghìn ha (năm 2000) lên 259,69
nghìn ha (năm 2009), trong đó chủ yếu là cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả đặc sản.
Tính từ 2000 đến 2009, diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm đã tăng 2,3 lần; còn các
nhóm cây lương thực, cây công nghiệp hàng năm, cây ăn quả có sự giảm sút, một phần do
chuyển mục đích sử dụng đất, mặt khác là do chuyển sang trồng các loại có giá trị kinh tế
cao hơn. Trong cơ cấu thì lương thực vẫn là nhóm cây chủ đạo, với 178,1 nghìn ha, chiếm
68,6% trong tổng diện tích các loại cây trồng của tỉnh năm 2009.

2.2. Sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng Sơn La trong thời kì công nghiệp hóa
a) Xu hướng 1: Chuyển dịch trong nội bộ nhóm cây lương thực
Cây lương thực là nhóm cây chủ lực trong cơ cấu cây trồng của tỉnh Sơn La, chiếm
80% diện tích cây hàng năm; gồm lúa, ngô và các cây màu lương thực khác (khoai, sắn).
Những năm qua, nhờ làm tốt công tác khai hoang nên diện tích cây lương thực tăng
lên nhanh chóng, năm 2009 đạt 178,1 nghìn ha. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh thâm canh,
đầu tư cho thủy lợi và tiến bộ khoa học kĩ thuật làm cho năng suất và sản lượng lương
thực của tỉnh đã có bước tiến đáng kể. Năm 2009, sản lượng lương thực có hạt của tỉnh đạt
hơn 667,0 nghìn tấn (chiếm 48,8% sản lượng lương thực vùng Tây Bắc và 13,9% toàn
vùng Trung du miền núi Bắc Bộ), năng suất tăng lên 37,5 tạ/ha. Lương thực có hạt bình
quân đầu người đạt 618 kg/người, đứng đầu toàn vùng Tây Bắc và vùng Trung du miền
núi Bắc Bộ, ở miền Bắc chỉ đứng sau tỉnh Thái Bình. Bước đầu, đảm bảo an ninh lương
thực của tỉnh theo quan điểm sản xuất hàng hóa và chủ động được trong việc đáp ứng nhu
cầu lương thực tại chỗ, đồng thời tạo đà cho sự chuyển dịch trong nội bộ cây lương thực.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu sản xuất lương thực Sơn La, giai đoạn 2000 - 2009
Chỉ tiêu
2000
2005
2009
1. Diện tích cây lương thực có hạt (nghìn ha)
93,1
119,9 178,0
Tỉ lệ % so với vùng Trung du miền núi Bắc Bộ
9,5
11,0
15,3
Tỉ lệ % so với vùng Tây Bắc
38,6
38,8
47,2



Trong đó diện tích trồng lúa cả năm (nghìn ha)
Tỉ lệ % so với diện tích cây lương thực có hạt
Trong đó diện tích trồng ngô (nghìn ha)
Tỉ lệ % so với diện tích cây lương thực có hạt
2. Sản lượng lương thực có hạt (nghìn tấn)
Tỉ lệ % so với vùng Trung du miền núi Bắc Bộ
Tỉ lệ % so với vùng Tây Bắc
Trong đó sản lượng lúa cả năm (nghìn tấn)
Tỉ lệ % so với sản lượng lương thực có hạt
Trong đó sản lượng ngô (nghìn tấn)
Tỉ lệ % so với sản lượng lương thực có hạt
3. Lương thực có hạt bình quân đầu người (kg/người)
4. Năng suất lúa (tạ/ha)
Năng suất ngô (tạ/ha)

41,5
44,6
51,6
55,4
243,9
7,8
38,6
108,1
44,3
135,8
55,7
269,2
26

26,3

39,0
32,5
80,9
67,5
356,3
8,6
37,7
128,3
36,0
228,0
64,0
351,2
32,9
28,2

45,9
25,8
132,1
74,2
667,0
13,9
48,8
152,8
22,9
514,2
77,1
618,1
33,3

38,9

(Nguồn: [1,2])
Do sự phân hóa tương đối về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên mà các địa
phương trong tỉnh có sự khác biệt trong phân bố về diện tích và sản lượng lương thực có
hạt. Mộc Châu là huyện có diện tích, sản lượng lương thực và bình quân lương thực theo
đầu người cao nhất tỉnh, với 29,53 nghìn ha (chiếm 16,6% diện tích); 123,17 nghìn tấn
(chiếm 18,5% sản lượng) và 706 kg/người năm 2009 (gấp 1,4 lần bình quân toàn tỉnh).
- Lúa
Lúa là cây lương thực chính, chiếm 25,8% diện tích và 22,9% sản lượng lương thực
có hạt của tỉnh năm 2009. Trong giai đoạn 2000 – 2009, tỉ trọng về diện tích và sản lượng
lúa giảm nhanh, diện tích giảm từ 44,6% xuống 25,8% (giảm 18,8%), sản lượng giảm từ
44,3% xuống còn 22,9% trong cơ cấu cây lương thực có hạt. Điều này chứng tỏ sự chuyển
đổi cơ cấu cây trồng dang diễn ra khá mạnh mẽ, đặc biệt là chuyển từ lúa sang ngô, góp
phần sử dụng hợp lí tài nguyên và nâng cao hiệu quả sản xuất.
Lúa nước được trồng tập trung ở các cánh đồng lớn như Mường Tấc (huyện Phù
Yên). Còn lại, lúa được trồng ở các khu ruộng nhỏ, phân tán ở các thung lũng hẹp, ruộng
bậc thang ven các sông suối.
Trong các địa phương của tỉnh, Sông Mã có diện tích gieo trồng lúa lớn nhất, với 8,11
nghìn ha năm 2009 (chiếm 17,6 % diện tích trồng lúa cả tỉnh), tiếp sau là Phù Yên, Mộc
Châu, Sốp Cộp. Về sản lượng, Phù Yên đạt cao nhất với 29,08 nghìn tấn (chiếm 19 % sản
lượng cả tỉnh), ngoài ra còn có Sông Mã, Mộc Châu. Thêm vào đó, đồng bào trong tỉnh đã
quan tâm đến việc sử dụng các giống lúa mới cho năng suất chất lượng cao, bên cạnh việc
nhân rộng các giống địa phương có giá trị như nếp nương… nên năng suất và chất lượng
lúa không ngừng tăng lên, từ 26 tạ/ha năm 2000 lên 33,25 tạ/ha năm 2009, năng suất đạt
cao nhất trên địa bàn thành phố Sơn La với 60,44 tạ/ha, gấp 1,8 lần trung bình của tỉnh,
tiếp theo là Phù Yên, Yên Châu. Tuy vậy, năng suất lúa của tỉnh vẫn thấp hơn mức trung
bình của các tỉnh trong vùng Tây Bắc và cả nước do mức độ thâm canh chưa cao.



Về cơ cấu mùa vụ, ở các vùng thấp gieo trồng 2 vụ là đông xuân và lúa mùa. Ở các
vùng địa hình cao hơn thì chỉ có khả năng gieo trồng một vụ lúa nương với năng suất và
sản lượng không lớn.
+ Vụ lúa mùa: là vụ lúa chính, diện tích và sản lượng không ngừng tăng lên. Năm
2000, diện tích lúa mùa của Sơn La là 13,9 nghìn ha, đến 2009 tăng lên 36,44 nghìn ha,
chiếm 79,3% diện tích lúa cả năm. Sản lượng lúa mùa năm 2000 đạt 52,2 nghìn tấn, đến
2009 tăng lên 97,97 nghìn tấn, chiếm 62,1% sản lượng lúa cả năm. Tuy vậy, năng suất lúa
mùa không ngừng giảm, từ 37,4 tạ/ha năm 2000 xuống còn 26,89 tạ/ha năm 2009.
+ Vụ đông xuân: Tuy chỉ chiếm diện tích nhỏ song sản lượng và năng suất tăng khá
nhanh. Diện tích lúa đông xuân của Sơn La tăng từ 6,7 (2000) lên 9,5 nghìn ha (2009), sản
lượng tăng từ 34,8 lên 54,8 nghìn tấn trong cùng thời kì. Đây là vụ lúa có năng suất cao
nhất trong cơ cấu 3 vụ của tỉnh, năng suất luôn dao động từ 50-60 tạ/ha.
+ Lúa nương: được trồng trên các vùng địa hình cao hơn, có năng suất và sản lượng
không lớn. Năm 2009, diện tích lúa nương là 19,84 nghìn ha (chiếm 43,2% về diện tích),
đạt sản lượng 24,38 nghìn tấn (chiếm 14% về sản lượng) với năng suất 12,29 tạ/ha, chỉ
bằng gần ⅓ năng suất lúa trung bình của tỉnh.
- Ngô
Ngô là cây trồng quan trọng nhất, đang trở thành nông sản hàng hóa, mang lại hiệu
quả kinh tế cao cho tỉnh, nhất là sau khi triển khai chương trình đưa giống ngô lai vào địa
phương, góp phần xóa đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc. Các loại giống ngô lai
năng suất cao, khả năng chịu hạn tốt như: LVN 10, Biosseet… đã được đưa vào và nhân
giống trồng ở địa bàn trong tỉnh. Vì vậy, diện tích và sản lượng ngô tăng lên nhanh chóng.
Diện tích tăng từ 56,1 nghìn ha năm 2000 (chiếm 55,4%) lên 132,1 nghìn ha năm
2009 (chiếm 74,2% diện tích trồng cây lương thực có hạt), đứng đầu về diện tích trồng
ngô của cả nước. Sản lượng tăng từ 135,8 nghìn tấn năm 2000 (chiếm 55,7%) lên 514,2
nghìn tấn năm 2009 (chiếm 77,1% sản lượng cây lương thực có hạt), đứng thứ 2 cả nước
về sản lượng ngô thu hoạch (sau Đắc Lắc).
Ngô được trồng ở tất các các địa phương trong tỉnh, song tập trung nhiều nhất ở các
huyện Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã.
Bảng 2: Diện tích, sản lượng ngô phân theo địa phương giai đoạn 2000 – 2009

2000
2009
Diện tích
Sản lượng Diện tích Sản lượng
(nghìn
(nghìn tấn) (nghìn ha) (nghìn tấn)
ha)
Tổng số
51,6
135,8
132,1
514,2
TP. Sơn La
1,1
3,0
2,0
11,0
H. Quỳnh Nhai
2,0
3,3
8,6
25,6
H. Thuận Châu
5,6
14,8
10,1
36,7
H. Mường La
3,4
8,6

8,9
31,1
H. Bắc Yên
4,1
9,1
9,7
29,4
H. Phù Yên
5,4
8,7
14,1
44,4
H. Mộc Châu
10,8
31,1
24,6
106,7


H. Yên Châu
H. Mai Sơn
H. Sông Mã
H. Sốp Cộp

7,8
7,5
3,9

22,9
25,1

9,1

13,2
19,9
19,0
1,95

54,0
89,3
80,3
5,8
(Nguồn: [1, 2])
Riêng 3 huyện Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã đã chiếm 48,1% diện tích trồng ngô của
tỉnh. Năm 2009, Mộc Châu có diện tích trồng ngô lớn nhất, đạt 24,6 nghìn ha, chiếm
18,6%; tiếp đến là Mai Sơn (19,9 nghìn ha, chiếm 15,1%), Sông Mã (19,02 nghìn ha,
chiếm 14,4% ). Về sản lượng, 3 huyện này cũng đạt giá trị lớn nhất, với 276,31 nghìn tấn,
chiếm 53,7% trong tổng sản lượng ngô toàn tỉnh. Năng suất ngô cũng tăng khá nhanh, từ
28 tạ/ha năm 2005 lên gần 39 tạ/ha năm 2009, năng suất đạt cao nhất tại thành phố Sơn La
(54,8 tạ/ha), Mai Sơn (44,9 tạ/ha).
Trong tổng sản lượng lương thực có hạt sản xuất ra của tỉnh thì sản lượng lương thực
hàng hoá chiếm trên 45%, chủ yếu là ngô thương phẩm chiếm đến 70% sản lượng ngô thu
hoạch; tốc độ tăng trưởng bình quân sản lượng lương thực đạt 5,25%/ năm. Sản lượng
lương thực có hạt tăng nhanh chủ yếu là do ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản
xuất, ứng dụng các giống mới có năng suất cao và thâm canh. Vì vậy, đem lại hiệu quả
kinh tế cao và đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh.
- Cây màu lương thực
Ngoài lúa, ngô, nhóm hoa màu của tỉnh còn có sắn, khoai lang với diện tích gần 23
nghìn ha, sản lượng trên 270 nghìn tấn. Các loại cây này có khả năng thích nghi sinh thái
rộng nên có thể trồng luân canh với cây công nghiệp hay trên đất lúa. Tuy nhiên, do có giá
trị kinh tế thấp, sản phẩm khó bảo quản trong thời gian dài nên chủ yếu được sử dụng làm

thức ăn cho chăn nuôi gia súc, gia cầm. Những năm gần đây, do nhu cầu thức ăn cho chăn
nuôi tăng lên nên diện tích trồng hoa màu cũng tăng lên song không ổn định. Khoai lang
được trồng chủ yếu ở Yên Châu và Phù Yên (chiếm 43,6% trong tổng diện tích trồng
khoai lang của tỉnh). Sắn được trồng tập trung ở Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn (chiếm
54,7% trong tổng diện tích trồng sắn của tỉnh).
 Như vậy, trong nội bộ nhóm cây lương thực có sự chuyển dịch rõ nét từ trồng lúa
sang trồng ngô, góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nhất là
đồng bào các dân tộc; đồng thời sử dụng hợp lí tài nguyên và đưa ngô trở thành nông sản
hàng hóa chính đem lại hiệu quả kinh tế cao cho tỉnh.
b)Xu hướng 2: Chuyển một phần diện tích từ trồng cây công nghiệp hàng năm
sang cây rau đậu, thực phẩm, cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả, nhất là các loại
cây đặc sản có giá trị kinh tế cao
*) Sự suy giảm diện tích trồng cây công nghiệp hàng năm
- GTSX của cây công nghiệp hàng năm đạt 208,5 tỉ đồng năm 2009. Giá trị sản xuất
trên 1 ha đất trồng cây công nghiệp hàng năm đạt 15,9 triệu đồng. Cây công nghiệp hàng
năm với tổng diện tích gieo trồng khoảng 13,12 nghìn ha, chiếm 5,8% diện tích cây hàng
năm của tỉnh (2009). Những năm gần đây, diện tích trồng cây công nghiệp hàng năm có sự
suy giảm, từ gần 10% (2005) xuống còn gần 6% trong tổng diện tích trồng cây hàng năm


(2009). Nguyên nhân chính là do thị trường thu hẹp, hiệu quả sản xuất thấp và việc mở
rộng diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm. Các loại cây công nghiệp chủ yếu của tỉnh
như đậu tương, mía, bông, lạc… phục vụ chủ yếu cho nhu cầu của địa phương (dệt thủ
công, nguyên liệu cho nhà máy đường…).
Bảng 3: Diện tích, sản lượng một số cây công nghiệp hàng năm
của Sơn La giai đoạn 2000 – 2009 Diện tích (ha); Sản lượng (tấn)
Loại cây
Chỉ tiêu
2000
2005

2009
Diện tích
1132
1767
530
Bông
Sản lượng
539
1580
336
Mía

Diện tích
Sản lượng

3742
136574

3468
152845

3283
175037

Lạc

Diện tích
Sản lượng

1562

1109

1453
1201

1350
1371

Diện tích
Sản lượng

9484
9480

12093
13549

7522
10057
(Nguồn: [1])
● Đậu tương: là một trong những nông sản hàng hóa có giá trị của tỉnh, do khá thích
hợp với điều kiện sinh thái tại địa phương. Tuy vậy, diện tích và sản lượng đậu tương
không ổn định, những năm gần đây giảm khá nhanh, diện tích từ 9,5 nghìn ha (2000) lên
13,2 nghìn (2004) và giảm gần một nửa xuống còn 7,5 nghìn ha (2009); sản lượng từ 9,5
nghìn tấn (2000) lên 14,8 nghìn tấn (2004) và giảm xuống còn 10,1 nghìn tấn (2009). Đậu
tương được trồng nhiều nhất ở Phù Yên, gần 3,3 nghìn ha (chiếm 44,4%), Mai Sơn 2,2
nghìn ha (chiếm 31% diện tích đậu tương của tỉnh).
● Mía: là cây trồng có diện tích phát triển không ổn định. Cây mía trước đây chỉ được
trồng trong vườn nhà, từ sau khi khôi phục lại nhà máy đường Chiềng Pấc và mở thêm
một số cơ sở ép mía, bên cạnh đó do nhân dân vùng trồng mía đã tập trung đầu tư thâm

canh, đồng thời đưa vào sản xuất những giống mía mới có trữ đường cao, trên thị trường
giá đường tăng và ổn định dẫn đến nhà máy thu mua mía cây giá cao có lợi cho người
nông dân trồng mía nên giai đoạn 1995 – 1999, diện tích mía tăng nhanh; nhưng từ năm
2000 trở đi thì diện tích trồng mía không ổn định, dao động trong khoảng 3-4 nghìn ha,
năm 2009 đạt gần 3,3 nghìn ha. Nguyên nhân là do thị trường bị thu hẹp, sản phẩm bị ứ
đọng nhiều do công nghiệp chế biến chưa phát triển; bên cạnh đó, mía được trồng chủ yếu
trên đất đồi không được tưới tiêu nên năng suất không cao, hiệu quả thấp hơn các cây
trồng khác nên người dân bỏ dần trồng mía. Hiện nay, mía được trồng tập trung ở Mai Sơn
với trên 2,85 nghìn ha, chiếm trên 86,8% về diện tích; đạt sản lượng 158,8 nghìn tấn,
chiếm 90,7% trong tổng sản lượng mía toàn tỉnh Sơn La.
● Các cây công nghiệp ngắn ngày khác có bông, lạc (được trồng nhiều nhất ở huyện
Quỳnh Nhai), cải lấy hạt (được trồng tập trung ở Yên Châu) song diện tích cũng giảm nhẹ.
*) Sự mở rộng diện tích trồng cây rau đậu, thực phẩm, công nghiệp lâu năm, cây ăn
quả, nhất là các loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao
Đậu tương


- GTSX cây công nghiệp lâu năm tăng lên khá nhanh, năm 2009 đạt 229,4 tỉ đồng,
GTSX trên 1 ha đất trồng cây công nghiệp lâu năm đạt 19,5 triệu đồng. Diện tích trồng
cây công nghiệp lâu năm của tỉnh tăng 1,93 lần trong giai đoạn 2000-2009, từ 6,1 nghìn ha
lên 11,78 nghìn ha với diện tích cho thu hoạch 6,7 nghìn ha, gồm các cây chủ yếu là chè,
cà phê, cao su…
● Chè: là cây công nghiệp lâu năm chính của vùng với diện tích tăng từ 2,2 nghìn ha
(2000) lên 4,2 nghìn ha (2009) và đạt sản lượng chè búp tươi 23,2 nghìn tấn năm 2009.
Chè được trồng tập trung đặc biệt tại cao nguyên Mộc Châu (gần 3 nghìn ha, chiếm 71%
diện tích trồng chè của tỉnh), được dùng làm nguyên liệu cho nhà máy chế biến chè hiện
có tại tỉnh. Từ xưa, chè Tô Múa là loại chè núi đã có tiếng là thơm ngon. Hiện nay, n hiều
giống chè mới cho năng suất cao và chất lượng tốt đã được trồng như Ô long, Kim tuyên,
San tuyết…
Việc mở rộng diện tích trồng chè ở những vùng có quy hoạch đã trở thành phong trào

tự giác của nhiều hộ gia đình. Trong những năm qua cây chè Kim tuyên đã thể hiện được
ưu thế phát triển nhanh, chất lượng tốt, hiệu quả kinh tế cao hơn so với một số cây trồng
khác trong tỉnh.
● Cà phê: do Sơn La nằm ở vĩ độ cao, có mùa đông lạnh, bên cạnh đó đất terarosa
phân hủy từ đá vôi khá thích hợp nên có điều kiện để phát triển cà phê. Ở diện tích vườn
nhà, cà phê chè giống Arabica và Catura đều sai quả, chất lượng tốt. Từ cuối thập kỉ 80
đến nay, cà phê được trồng tập trung tại cao nguyên Sơn La - Nà Sản. Tổng diện tích cà
phê của tỉnh dao động từ 3 - 4 nghìn ha, dự tính đến 2010 tăng lên 4,7 nghìn ha với sản
lượng cà phê nhân tăng mạnh từ 0,4 nghìn tấn (2000) lên 4,4 nghìn tấn (2009). Cà phê
được trồng nhiều nhất tại thành phố Sơn La (1,6 nghìn ha), Mai Sơn (1,5 nghìn ha), dự
tính đến 2010 Mai Sơn trồng nhiều nhất với 2,1 nghìn ha. Cũng như các tỉnh khác trong
vùng, trước đây cà phê chè được trồng với diện tích khá lớn, nhưng trong những năm gần
đây, diện tích cà phê ít được mở rộng do bị ảnh hưởng bởi sương muối. Tuy diện tích
giảm nhưng nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thâm canh và cải tạo các giống
cà phê mới thay dần các giống cà phê cũ, nên năng suất quả tươi năm 2009 tăng 87,84%,
sản lượng cà phê nhân tăng gấp 13,7 lần so với năm 2000.
Sản phẩm cà phê chủ yếu là phục vụ cho xuất khẩu, trong 6 năm (2000-2006) Công ty
cà phê và cây ăn quả đã xuất khẩu trực tiếp 1.565 tấn, tổng doanh thu xuất khẩu 2,1 triệu
USD. Cà phê Sơn La giữ vững thương hiệu SOLACO và đã có mặt trên các thị trường thế
giới như: Đức, Ba lan, Hà Lan, Mỹ.
● Ngoài ra, cây công nghiệp lâu năm của tỉnh còn có dâu tằm nhưng diện tích đang bị
thu hẹp mạnh. Đặc biệt, dự án trồng cây cao su đã được triển khai, đến 2009 diện tích
trồng cao su của tỉnh đạt gần 4 nghìn tấn, đến 2010 ước đạt 5,4 nghìn ha, được trồng tập
trung tại Thuận Châu, Mường La, Mộc Châu, Quỳnh Nhai, mở ra một hướng đi mới cho
nông nghiệp của tỉnh trong việc kết hợp hiệu quả kinh tế với bảo vệ môi trường.
- Trong cơ cấu về diện tích các loại cây trồng của tỉnh, nhóm cây ăn quả đứng thứ 2
sau cây lương thực, năm 2009 đạt trên 22 nghìn ha (chiếm 8,6% tổng diện tích các loại cây


trồng và 64,8% trong diện tích các cây lâu năm). GTSX cây ăn quả tăng lên nhanh chóng,

từ 123,3 tỉ đồng (2000) lên 516,7 tỉ đồng (năm 2009), gấp 4,2 lần so với năm 2000. GTSX
trên 1 ha đất trồng cây ăn quả tăng từ 6,6 triệu đồng (2000) lên 23,1 triệu đồng (2009).
Tuy nhiên, diện tích trồng cây ăn quả không ổn định và có sự giảm nhẹ trong những
năm gần đây (tăng từ 18,6 nghìn ha năm 2000 lên 25,2 nghìn ha năm 2005 và giảm xuống
22,4 nghìn ha năm 2009) song việc ưu tiên diện tích cho trồng các loại cây đặc sản đã
được chú trọng. Nhiều giống cây ăn quả có chất lượng, năng suất và hiệu quả kinh tế cao
đã được khảo nghiệm tại Sơn La, từng bước triển khai, tổng kết nhân rộng các mô hình
phục vụ cho cải tạo các vườn tạp của nhân dân.
Bảng 4: Diện tích, sản lượng một số cây ăn quả
của Sơn La giai đoạn 2000 – 2009 Diện tích (ha); Sản lượng (tấn)
Loại cây
Chỉ tiêu
2000
2005
2009
Diện tích
2010
2686
2619
Mận
Sản lượng
13002
17365
21555
Nhãn

Diện tích
Sản lượng

9651

7561

13493
41011

11598
32514

Xoài

Diện tích
Sản lượng

2495
2849

4323
10942

3600
8629

Diện tích
Sản lượng

2228
3373

900
459

3342
2257
(Nguồn: [1, 2])
Nhóm cây ăn quả của tỉnh vô cùng phong phú về chủng loại, có nhiều loại cây đặc
sản, nhiều nhất là:
● Nhóm cây ăn quả có nguồn gốc ôn đới: mơ, mận, lê, đào… phân bố ở các vùng núi
cao và núi trung bình. Mơ được trồng phổ biến là giống mơ vàng với diện tích 459 ha, đặc
biệt là trên cao nguyên Nà Sản (Mai Sơn), cho sản lượng trên 2,2 nghìn tấn (năm 2009).
Mận có diện tích 2,6 nghìn ha, chủ yếu là mận hậu, đạt sản lượng gần 21,6 nghìn tấn,
trong đó nổi tiếng nhất là mận tam hoa ở Mộc Châu.
● Nhóm cây ăn quả có nguồn gốc cận nhiệt: cam, quýt, bưởi, nhãn, hồng… Diện tích
cam, quýt của tỉnh năm 2009 là 195 ha, nổi tiếng nhất là giống quýt Bản Hìn. Nhãn được
trồng khá phổ biến với diện tích 11,6 nghìn ha, cho sản lượng 32,5 nghìn tấn, tập trung
nhiều ở huyện Sông Mã, Mai Sơn, thành phố Sơn La.
● Nhóm cây ăn quả có nguồn gốc nhiệt đới là nhóm phong phú nhất về chủng loại và
phân bố rộng rãi. Trong đó có những loại đặc sản như: chuối tây (Yên Châu), xoài (Yên
Châu và cao nguyên Nà Sản). Năm 2009, diện tích trồng xoài toàn tỉnh trên 3,6 nghìn ha,
cho sản lượng 8,6 nghìn tấn.
Sự phát triển cây ăn quả có tác động tích cực trong việc thúc đẩy cơ cấu cây trồng
theo hướng hàng hoá, góp phần vào việc nâng cao thu nhập cho người dân.



Tuy vậy, hoa quả do phải tiêu thụ tươi trong thời gian ngắn và phụ thuộc vào thị
trường, mặt khác do công nghiệp chế biến hoa quả chưa phát triển nên giá cả giảm sút,
nhất là các loại quả có sản lượng lớn như nhãn, mận, xoài... gây thiệt hại cho người trồng.
- Cây thực phẩm gồm rau và đậu các loại, trong đó rau là chủ yếu. GTSX tăng từ 69,5
tỉ đồng (2000) lên 354 tỉ đồng (năm 2009), đến năm 2010 ước đạt 463,8 tỉ đồng, gấp 5,1
lần so với năm 2000. Rau, hoa và cây cảnh tiếp tục phát triển, từng bước nâng cao chất
lượng, an toàn thực phẩm và phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường. Rau có sự mở rộng

diện tích nhanh chóng, từ 4,5 nghìn ha (năm 2000) lên 6,3 nghìn ha (năm 2008), nguyên
nhân là do việc chuyển một phần diện tích cây công nghiệp hàng năm sang, mặt khác do
nhu cầu người dân lớn, thị trường được mở rộng; sản lượng năm 2008 ước đạt 46.700 tấn.
Hiện nay, rau được trồng ở tất cả các địa phương trong tỉnh, đặc biệt các mô hình trồng
rau xanh, sạch xung quanh khu vực thành phố đang được đẩy mạnh phát triển. Nhiều mô
hình trồng rau, đậu đã cho thu nhập cao như ở thành phố Sơn La, Mộc Châu, Mường La.
Đây là những địa bàn có điều kiện tự nhiên về khí hậu, đất đai phù hợp để sản xuất các
loại rau, hoa với thị trường ổn định.
 Như vậy, cùng với cây công nghiệp lâu năm, việc mở rộng diện tích cây rau đậu,
thực phẩm, cây ăn quả, nhất là các loại cây đặc sản đang là một hướng đi mới trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng của tỉnh, góp phần đa dạng hóa các loại nông sản hàng
hóa và nâng cao giá trị kinh tế của sản xuất nông nghiệp.
3. KẾT LUẬN
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng
là hướng đi thích hợp của tỉnh trong thời kì công nghiệp hóa. Hiện tại, trong cơ cấu cây
trồng đang diễn ra đồng thời hai xu hướng chuyển dịch: thứ nhất là chuyển dịch trong nội
bộ cây lương thực với việc chuyển từ lúa sang ngô, thứ hai là việc chuyển một phần diện
tích từ trồng cây công nghiệp hàng năm sang cây rau đậu, thực phẩm, cây công nghiệp lâu
năm, cây ăn quả, nhất là các loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao. Các kết quả đạt được
đã chứng minh hướng đi này hoàn toàn chính xác, về cơ bản tỉnh đã đảm bảo được vấn đề
an ninh lương thực và chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ; nhiều loại
cây trồng đang dần trở thành nông sản hàng hóa, đem lại giá trị kinh tế cao cho tỉnh.
Tuy vậy, trong quá trình phát triển, ngành trồng trọt của tỉnh cũng có một số hạn chế
như: năng suất cây trồng còn thấp và bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, sản xuất
chưa gắn với chế biến; việc lựa chọn cơ cấu cây trồng tại một số địa phương còn tự phát
dưới sự tác động của thị trường; quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, phân tán, khó hình thành các
vùng chuyên canh lớn, vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và khó áp dụng đồng
loạt những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất…
Hi vọng trong thời gian tới, Sơn La sẽ phát huy hơn nữa các thế mạnh cho phát triển
trồng trọt, cùng với đường lối và bước đi thích hợp trong việc lựa chọn cơ cấu cây trồng,

ngành trồng trọt nói riêng và nông nghiệp của tỉnh nói chung sẽ phát triển tương xứng với
tiềm năm của mình.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Cục thống kê Sơn La, Niên giám thống kê Sơn La các năm, Sơn La.
[2]. Tòng Thị Quỳnh Hương, 2011, Phát triển nông, lâm, thủy sản Sơn La giai đoạn
2000 - 2009, Luận văn Thạc sĩ Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội.
[3]. Đặng Thị Nhuần, 2003, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tỉnh Sơn La trong
quá trình CNH-HĐH, Luận văn Thạc sĩ Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội.
[4]. Tổng cục thống kê (2007), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy
sản 2006, NXB Thống kê, Hà Nội.
[5]. Tổng cục thống kê (2010), Niên giám thống kê 2009, NXB Thống kê, Hà Nội.
[6]. PGS.TS Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), 2009, Địa lí các vùng kinh tế Việt Nam,
NXB Giáo dục.



×