Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

TÍNH TẤT YẾU VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO NGÀNH THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.63 KB, 35 trang )

TÍNH TẤT YẾU VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO NGÀNH THEO HƯỚNG CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA
I. Khái niệm và nội dung của chuyển dịch cơ cấu lao động
1. Khái niệm chung
1.1. Nguồn lao động và lực lượng lao động
Nguồn lao động và lực lượng lao động là những khái niệm có ý
nghĩa quan trọng làm cơ sở cho việc tính toán cân đối cung cầu lao
động – việc làm trong xã hội
Theo giáo trình kinh tế phát triển: Nguồn lao động là một bộ phận
dân số trong tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng lao
động, có nguyện vọng tham gia lao động và những người ngoài tuổi lao
động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Như vậy nguồn lao động bao gồm toàn bộ những người trong và
ngoài độ tuổi lao động có khả năng lao động. Cần phân biệt nguồn lao
động với dân số trong độ tuổi lao động:
• Nguồn lao động chỉ bao gồm những người có khả năng lao động.
• Dân số trong độ tuổi lao động bao gồm toàn bộ dân số trong tuổi lao
động, kể cả bộ phận dân số trong độ tuổi lao động nhưng không có
khả năng lao động như: tàn tật, mất sức lao động bẩm sinh hoặc do
các nguyên nhân khác.
Vì vậy, quy mô dân số trong độ tuổi lao động lớn hơn quy mô nguồn
lao động.Theo khái niệm trên nguồn lao động về mặt số lượng bao gồm:
- Dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm.
- Dân số trong tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất
nghiệp, đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình, không có
nhu cầu việc làm và những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả
những người nghỉ hưu trước tuổi quy định).
Nguồn lao động xét về mặt chất lượng :
- Trình độ chuyên môn
- Tay nghề (Trí lực)


- Sức khỏe (Thể lực)
Theo quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) “Lực lượng lao
động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Theo quy định thực tế
đang có việc làm và những người thất nghiệp.
Ở nước ta hiện thường sử dụng khái niệm sau: Lực lượng lao động
hay số người hoạt động kinh tế hiện tại là những người từ đủ 15 tuổi trở
lên có khả năng lao động, đang làm việc hoặc thất nghiệp nhưng có nhu
cầu tìm việc làm.
Vì vậy có thể hiểu: Lực lượng lao động là dân số hoạt động kinh tế
và nó phản ánh khả năng thực tế về cung ứng lao động của xã hội.
1.2. Cơ cấu lao động
Theo từ điển tiếng Việt, cơ cấu được hiểu là sự sắp xếp và tổ chức
các phần tử tạo thành một toàn thể, một hệ thống. Xét về mặt biểu thị,
cơ cấu biểu thị những đặc tính lâu dài như: cơ cấu kinh tế; cơ cấu nhà
nước….
Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu hoạt động trên lĩnh vực xã
hội thì cơ cấu là sự phân chia tổng thể ra những bộ phận nhỏ theo
những tiêu thức chất lượng khác nhau, những bộ phận đó thực hiện
từng chức năng riêng biệt nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm
phục vụ mục tiêu chung.
Theo giáo trình “ Nguồn nhân lực” của PGS.TS Nguyễn Tiệp, cơ
cấu lao động là một phạm trù kinh tế xã hội, bản chất của nó là các quan
hệ giữa các phần tử, các bộ phận cấu thành tổng thể lao động, đặc
trưng nhất là mối quan hệ tỉ lệ về mặt số lượng lao động giữa các
ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.
Giống như các phạm trù khác, cơ cấu lao động cũng có những
thuộc tính cơ bản của mình như: tính khách quan, tính lịch sử và tính xã
hội.
• Tính khách quan của cơ cấu lao động được thể hiện ở chỗ cơ cấu lao
động bắt nguồn từ dân số và cơ cấu kinh tế của một quốc gia. Tính

khách quan của quá trình dân số và của cơ cấu kinh tế đã xác định
tính khách quan của cơ cấu lao động xã hội.
• Tính lịch sử: Cơ cấu lao động xã hội là một chỉnh thể tồn tại và vận
động gắn liền với phương thức sản xuất xã hội. Khi phương thức đó
có sự vận động, biến đổi thì cơ cấu lao động một quốc gia cũng có
sự vận động, biến đổi theo.
• Tính xã hội của cơ cấu lao động: Cơ cấu lao động mang tính xã hội
sâu sắc và đậm nét. Quá trình phân công lao động phản ánh sự tiến
hóa của lịch sử xã hội loài người. Khi lực lượng sản xuất có sự phát
triển và nhảy vọt, lại đánh dấu sự phân công lao động xã hội mới.
Quá trình phát triển phân công lao động mới với cơ cấu lao động
mới phản ánh trình độ văn minh của xã hội. Xét về phương diện sản
xuất cơ cấu lao động phản ánh cơ cấu các giai tầng của xã hội trong
nền sản xuất xã hội. Thông qua cơ cấu lao động có thể nhận biết
được hoạt động kinh tế của các giai tầng xã hội trong mỗi giai đoạn
phát triển.
Thông thường, cơ cấu lao động được phân ra làm hai loại: Cơ cấu
cung về lao động (cung thực tế, và cung tiềm năng) và cơ cấu lao động
đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu cung về lao động phản ánh cơ cấu số lượng cũng như chất
lượng của nguồn nhân lực. Cơ cấu lao động đang làm việc phản ánh tỷ
lệ lao động làm việc trong các ngành, các khu vực và toàn quốc.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quyền lực tập trung chủ yếu
trong tay nhà nước. Vì vậy mà cơ cấu lao động làm việc được hình
thành chủ yếu do sự sắp xếp của nhà nước thông qua phân công, phân
bố lao động xã hội (theo kế hoạch năm năm và kế hoạch hàng năm) vào
các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế.Trong cơ chế thị trường tự do,
cơ cấu lao động được hình thành do quan hệ cung cầu trên thị trường
lao động.
Các chỉ tiêu chủ phân tổ cơ cấu lao động như sau:

- Cơ cấu lao động theo không gian: Bao gồm cơ cấu lao động theo
vùng lãnh thổ (tỉnh, thành phố, huyện), cơ cấu lao động theo khu vực
thành thị nông thôn. Loại cơ cấu này thường được dùng để đánh giá
thực trạng phân bố của lao động xã hội về mặt không gian. Từ đó, xây
dựng các kế hoạch, định hướng vĩ mô phân bố lại lực lượng lao động xã
hội, từng bước cân đối hợp lý hơn giữa tiềm năng về đất đai, tài nguyên
thiên nhiên trong nội bộ từng địa phương cũng như giữa các vùng, giữa
các khu vực trong phạm vi cả nước.
Cơ cấu lao động theo tính chất các yếu tố tạo nguồn: Bao gồm cơ
cấu lao động trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia lao động, trên
và dưới tuổi lao động có khả năng tham gia lao động, lao động làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân, lao động trong độ tuổi lao động đang
đi học….Loại cơ cấu này là cơ sở để đánh giá thực trạng về quy mô và
tình hình sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý trên địa bàn tỉnh,
thành phố vùng cũng như cả nước.
- Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế quốc dân: Đây là cơ cấu lao
động đang làm việc trên lãnh thổ (tỉnh, thành phố, huyện) được chia
theo ngành hoặc nhóm ngành kinh tế quốc dân. Cơ cấu này dùng để
đánh giá thực trạng phân bố, chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các
ngành hoặc nội bộ ngành trên địa bàn tỉnh, thành phố, vùng, cả nước.
Đồng thời là căn cứ thực tiễn để nghiên cứu, xây dựng các kế hoạch
định hướng và chương trình phát triển cho phù hợp với chiến lược phát
triển riêng của mỗi ngành.
- Cơ cấu lao động theo các đặc trưng khác: Bao gồm như cơ cấu
lao động theo nhóm tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, trình độ chuyên
môn kỹ thuật, giới tính…. Cơ cấu này dùng để nghiên cứu, xác định,
đánh giá đặc trưng cơ bản về văn hoá, chuyên môn kỹ thuật, tình trạng
hoạt động của nguồn nhân lực để đề ra hệ thống các giải pháp khả thi
trong chiến lược phát triển bồi dưỡng, đào tạo sử dụng hiệu quả nguồn
nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.

Chuyên đề này nghiên cứu cơ cấu lao động theo tiêu chí phân
ngành kinh tế quốc dân trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Đây là tiêu chí quan
trọng nhất trong các tiêu chí phân loại trên vì cơ cấu lao động theo
ngành không chỉ phán ánh mức độ chuyển biến sang công nghiệp của
một địa phương mà còn đánh giá là một mức độ thành công về mặt kinh
tế xã hội của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.3. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao
động
Theo giáo trình Kinh tế phát triển: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
một phạm trù động, nó luôn luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi
các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định. Quá trình thay đổi cơ cấu
ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn,
phù hợp hơn với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế phản ánh trình độ phát triển của
phương thức sản xuất xã hội biểu hiện chủ yếu trên hai mặt:
Một là: Lực lượng sản xuất càng phát triển càng tạo điều kiện cho
quá trình phân công lao động diễn ra sâu sắc
Hai là: Sự phát triển của phân công lao động xã hội đến lượt nó lại
càng làm cho mối quan hệ kinh tế thị trường (Cơ chế kinh tế thị trường)
càng củng cố và phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những nội dung trụ cột
phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Giữa chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Trong những điều kiện nhất định sự cải biến cơ cấu kinh tế kéo
theo sự cải biến cơ cấu lao động.
Theo như nhận định của Ts. Nguyễn Ngọc Sơn trên tạp chí kinh tế
và dự báo: Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình phân phối, bố trí
lao động theo những quy luật, những xu hướng tiến bộ, nhằm mục đích
sử dụng đầy đủ và có hiệu quả cao các nguồn nhân lực để tăng trưởng

và phát triển.
Còn theo như giáo trình Nguồn nhân lực của Nguyễn Tiệp: Chuyển
dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi trong quan hệ tỉ lệ, cũng như xu
hướng vận động của các bộ phận cấu thành nguồn nhân lực, được diễn
ra trong một không gian thời gian theo một chiều hướng nhất định.
Vì vậy có thể hiểu: Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi
trong mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nguồn lực nhằm tạo ra
một cơ cấu lao động mới phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong từng
thời kỳ
Giữa chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Về nguyên tắc cơ cấu lao
động phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế quyết
định chuyển dịch cơ cấu lao động. Cơ cấu kinh tế thường dịch chuyển
trước và nhanh hơn, định hướng cho thay đổi cơ cấu lao động. Nhưng
không phải vì thế mà cơ cấu lao động là yếu tố thụ động, phụ thuộc vào
cơ cấu kinh tế mà nó còn có tính chủ động tác động ngược trở lại cơ
cấu kinh tế làm cho cơ cấu kinh tế phát triển theo chiều hướng tiến bộ.
1.4. Cơ cấu lao động theo ngành và chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
1.4.1 Cơ cấu lao động theo ngành
Theo như PGS.TS Nguyễn Tiệp cơ cấu lao động theo ngành là cơ
cấu lao động đang làm việc trên các vùng, lãnh thổ được chia theo
ngành hay nhóm ngành kinh tế.
Theo như giáo trình Kinh tế Nguồn Nhân lực thì cơ cấu lao động
theo ngành là kết quả của sự phân bố nguồn lực giữa các ngành và nội
bộ ngành kinh tế: công nghiệp – xây dựng với nông lâm nghiệp và
thương mại dịch vụ .
Vì vậy loại chuyển dịch cơ cấu lao động này dùng để đánh giá thực
trạng phân bố, chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành hoặc nhóm
ngành trên địa bàn tỉnh, thành phố, vùng cả nước. Đồng thời là căn cứ
thực tiễn để nghiên cứu, xây dựng các kế hoạch định hướng và các

chương trình phát triển phù hợp với chiến lược phát triển riêng của mỗi
ngành.
1.4.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
Theo PGS.TS Nguyễn Tiệp thì chuyển dịch cơ cấu lao động: Là sự
thay đổi trong quan hệ tỉ lệ cũng như xu hướng vận động về lao động
của các ngành diễn ra trong một khoảng không gian, thời gian và theo
một xu hướng nhất định.
Qúa trình chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình phân bố lại lao
động trong nền kinh tế theo hướng tiến bộ nhằm mục đích sử dụng lao
động có hiệu quả. Quá trình đó diễn ra trên quy mô toàn bộ nền kinh tế
và trong phạm vi của từng nhóm ngành. Lao động của ngành thay đổi
khi có sự thay đổi về số lượng lao động trong nội bộ ngành đó. Ví dụ
như: Lao động của nhóm ngành nông nghiệp giảm đi thì sự sụt giảm
này do nguyên nhân thay đổi lao động trong ba nhóm ngành nhỏ: nông
nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Trong mỗi ngành nhỏ đó số
lao động có thể tăng hay giảm nhưng xét trong ngành nông nghiệp thì
số lao động giảm đi. Sự thay đổi về lao động giữa các nhóm ngành nhỏ
so với tổng số lao động của ngành nông nghiệp tạo ra sự thay đổi về cơ
cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp.
Giữa chuyển dịch cơ cấu lao động nội bộ ngành và chuyển dịch cơ
cấu lao động ngành có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi cơ cấu lao
động ngành thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi cơ cấu lao động trong nội
bộ ngành. Cụ thể khi tỷ trọng lao động ngành sụt giảm thì tỷ trọng lao
động trong nội bộ ngành cũng sụt giảm theo. Quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động theo ngành gắn liền với sự thay đổi cấu trúc trong nội bộ
mỗi ngành, cũng như chất lượng lao động trong từng ngành.
2. Nội dung và các tiêu chí đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo
ngành
2.1. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
Bất kỳ một quốc gia nào cũng bao gồm ba nhóm ngành lớn:

- Nhóm I: Bao gồm các ngành khai thác các sản phẩm từ tự nhiên
(gọi là nhóm ngành khai thác)
- Nhóm II: Bao gồm các ngành ché biến sản phẩm khai thác được
từ nhóm I (gọi là nhóm ngành chế biến)
- Nhóm III: Bao gồm các ngành sản xuất ra sản phẩm dịch vụ
(Nhóm ngành dịch vụ).
Nội dung của chuyển dịch cơ cấu lao động ngành là xác định tỷ
trọng lao động trong các ngành kinh tế. Đảm bảo cơ cấu lao động phù
hợp với cơ cấu kinh tế trong từng thời kỳ phát triển, xóa bỏ khoảng
cách khá xa giữa cơ cấu lao động còn lạc hậu với cơ cấu kinh tế đang
phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tức là, phải xây
dựng định hướng cũng như từng bước thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ:
- Với phạm vi quốc gia nội dung chuyển dịch là: Tăng tỷ trọng
các ngành trong nhóm II và nhóm III, giảm tỷ trọng của nhóm
ngành I. Đồng nghĩa với chuyển dịch cơ kinh tế theo hướng
tăng tỷ trọng kinh tế của ngành công nghiệp,dịch vụ, giảm tỷ
trọng kinh tế nông nghiệp.
- Với phạm vi của từng địa phương định hướng chuyển dịch
theo xu hướng chung của cả nước song phải gắn liền với
tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu lao động
nhằm tận dụng tối đa các lợi thế của mình so với các địa
phương khác, từng bước đi theo xu hướng chuyển dịch
chung.Ví dụ một địa phương miền núi chuyển dịch cơ cấu lao
động theo xu hướng tăng tỷ trọng lao động hoặc tỷ trọng cao
trong khu vực nông nghiệp không phải là không hợp lý. Lợi
thế về tiềm năng đất, nước, khí hậu...tạo điều kiện cho lao
động tham gia vào khu vực này nhiều hơn trong khu vực công
nghiệp (đặc biệt là công nghiệp khai khoáng). Xuất phát điểm
thấp cơ sở hạ tầng không đáp ứng được yêu cầu của công

nghiệp, nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp bị hạn
chế nếu cố tình khai thác sẽ tạo ra tác động tiêu cực cho môi
trường, phá vỡ tính bền vững trong phát triển kinh tế. Tăng tỷ
trọng lao động trong nông nghiệp, dịch vụ tạo tiền đề cho lao
động tham gia vào khu vực công nghiệp, đặc biệt là công
nghiệp chế biến nông sản.
2.2. Các tiêu chí đánh giá sự chuyển dịch
2.2.1. Tỷ trọng lao động của các ngành trong nền kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu lao động được biểu hiện thông qua sự thay đổi
về tỷ trọng lao động giữa các ngành của nền kinh tế theo thời gian. Đây
là chỉ tiêu quan trọng nhất nhằm xác định lao động được phân bố vào
các lĩnh vực sản xuất khác nhau như thế nào. Thông qua tỷ trọng lao
động giữa các ngành xác định được:
- Số lao động tham gia vào hoạt động của ngành, nhóm ngành
trong nền kinh tế.
- Đánh giá mức độ thu hút lao động của các ngành, từ đó thấy
được xu hướng chuyển dịch lao động giữa các ngành hoặc nội bộ
ngành.
Xu hướng và tốc độ biến đổi tỷ trọng lao động giữa các ngành là
căn cứ để đánh giá quá trình dịch chuyển có phù hợp không. Nếu như
tỷ trọng lao động của ngành nông nghiệp giảm dần và tỷ trọng lao động
ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng thì có thể nói quá trình
dịch chuyển lao động theo ngành hợp lý và tiến bộ. Tuy nhiên, việc đánh
giá này chỉ mang tính tương đối vì ở mỗi giai đoạn khác nhau xu hướng
cũng như tốc độ dịch chuyển khác nhau do tốc độ và xu hướng dịch
chuyển phụ thuộc vào đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế.
2.2.2. Hệ số chuyển dịch cơ cấu lao động
Để đánh giá trình độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
phương pháp được sử dụng phổ biến là phương pháp Vector. Phương
pháp này lượng hóa mức độ chuyển dịch giữa 2 thời điểm to và t1 bằng

công thức sau:


S
i
( t
0
) S
i
(t
1)
Cos φ =
√ ∑ S
2
i
( t
0
) ∑ S
2
1
( t
1
)
Trong đó S
i
(t) là tỷ trọng lao động trong ngành i tại thời điểm t
φ được coi là góc hợp bởi hai vector cơ cấu S(t
o
) và S(t
1

), cos φ
càng lớn bao nhiêu thì các cơ cấu càng gần nhau bấy nhiêu và ngược
lại.
- Khi cos φ = 1: góc giữa 2 vector này bằng 0 điều đó có nghĩa là
hai cơ cấu lao động đó đồng nhất.
- Khi cos φ = 0: góc giữa 2 vector này bằng 90
0
và các vector cơ
cấu là trực giao với nhau.
Do đó: 0 ≤ φ ≤ 90
0
Để đánh giá một cách trực giác sự chuyển dịch có thể so sánh góc
φ với giới hạn tối đa của sự sai lệch giữa hai vector. Như vậy tỷ số φ/90
0
phản ánh tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành, từ đó dự
kiến xu hướng vận động của lao động giữa các ngành trong tương lai.
2.2.3. Hệ số co giãn của lao động theo GDP

×