Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (PHẦN 1)
Giáo viên: PHẠM HỮU CƯỜNG
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG
Đây là tài liệu đi kèm với bài giảng Tuyên ngôn Độc lập (Phần 1) thuộc khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN-C: Môn
Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường) tại website Hocmai.vn.
I. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC VÀ PHẠM VI RA ĐỀ:
1. Quan điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
2. Di sản văn học (Sự nghiệp sáng tác) của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
3. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
4. Sơ đồ tư duy về Tuyên ngôn Độc lập.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN:
A. Quan điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
1. Hồ Chí Minh coi văn học là một vũ khí chiến đấu lợi hại phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Nhà văn
cũng phải có tinh thần xung phong như người chiến sĩ ngoài mặt trận góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh
và phát triển xã hội:
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phái biết xung phong.
Chất “thép” ở đây chính là tính chiến đấu của thơ ca và văn học nghệ thuật, là bản lĩnh cứng cỏi của
người cầm bút. Sau này, trong Thư gửi các hoạ sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, Người lại khẳng định:
“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
2. Khi cầm bút, Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội
dung và hình thức của tác phẩm. Người luôn tự đặt câu hỏi : "Viết cho ai ?" (đối tượng) , "Viết để làm gì ?"
(mục đích), sau đó mới quyết định "Viết cái gì ?" (nội dung) và “Viết thế nào?" (hình thức). và vận dụng
phương châm đó theo những cách khác nhau tuỳ từng trường hợp cụ thể.
3. Hồ Chí Minh luôn chú trọng tính chân thật và tính dân tộc của văn học. Người phê phán những tác phẩm
“chất mơ mộng nhiều quá, mà cái chất thật của sự sinh hoạt rất ít”, đề cao thứ văn học "chân thật", "thật
thà"; chống văn học "giả dối", "bịa đặt". Người yêu cầu văn nghệ sĩ phải “miêu tả cho hay, cho chân thật,
cho hùng hồn” hiện thực phong phú của đời sống, và phải "giữ tình cảm chân thật”. Người căn dặn “Nên
chú ý phát huy cốt cách dân tộc", và phải có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
5. Đề cao sự sáng tạo của người nghệ sĩ; Hồ Chí Minh nhắc nhở "chớ gò bó họ vào khuôn, làm mất vẻ sáng
tạo…”
4. Hồ Chí Minh đề cao chức năng tuyên truyền, cổ động của văn học, ca tụng các anh hùng, chiến sĩ xả thân
vì nước, những người tốt, việc tốt để động viên nhân dân và làm gương cho con cháu mai sau. Để tuyên
truyền cách mạng nhằm vào đối tượng công nông binh, Người chủ trương phải viết cho dễ hiểu, cho "thấm
thía", có "văn chương", thể hiện được tinh thần của nhân dân thì quần chúng mới thích đọc. Đó là quan hệ
giữa phổ cập và nâng cao trong văn nghệ. Phổ cập không có nghĩa là hạ thấp phẩm chất của văn chương,
mà phải tiếp tục nâng cao phẩm chất ấy, qua đó nâng dần trình độ thưởng thức nghệ thuật, trình độ thẩm mĩ
của nhân dân. Các khía cạnh trên liên quan đến nhau trong ý thức và trách nhiệm của người cầm bút.
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 1 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
B. Những nét chính trong sự nghiệp sáng tác (di sản văn học) của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân ta một sự nghiệp văn chương lớn lao về tầm vóc; phong phú, đa dạng về
thể loại và đặc sắc về phong cách sáng tạo. Tác phẩm của Người viết bằng tiếng Pháp, Hán văn và tiếng
Việt, đạt nhiều thành tựu lớn cả trong văn chính luận, truyện kí lẫn thơ ca.
1. Văn chính luận:
a. Các bài văn chính luận của Người trong những thập niên đầu của thế kỉ XX (đăng trên Người cùng
khổ, Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền với bút danh Nguyễn Ái Quốc, tiêu biểu là Bản án chế độ Thực dân
Pháp) có nhiều giá trị to lớn:
- Lên án chế độ Thực dân Pháp và chính sách tàn bạo của chính phủ Pháp đối với các nước thuộc địa,
kêu gọi thức tỉnh những người nô lệ bị áp bức liên hiệp lại trong mặt trận đấu tranh chung.
- Nhiều áng văn chính luận mang đặc điểm của tác phẩm văn chương và có giá trị văn chương.
b. Tác phẩm chính luận xuất sắc nhất của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là Tuyên ngôn độc lập. Văn
kiện chính trị này không chỉ mang ý nghĩa lịch sử trọng đại mà còn là một áng văn chính luận tiêu biểu, mẫu
mực.
c. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chi Minh còn có nhiều tác phẩm chính luận nổi tiếng khác như Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến(1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do(1966):
- Các tác phẩm này thể hiện những vấn đề thời sự cấp bách của dân tộc, tiếng gọi của non sông đất
nước trong những giờ phút thử thách đặc biệt.
- Văn phong hào hùng, tha thiết, có sức lay động hàng triệu trái tim yêu nước.
2. Truyện và kí:
a.Tập Truyện và kí tập hợp những truyện ngắn và kí được sáng tác từ 1922 đến 1925, tiêu biểu là Pari,
Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Con người biết mùi hun khói, (đều viết 1922), Vi hành, Những trò lố hay
Varen và Phan Bội Châu, (đều viết 1923)
- Những truyện này đều nhằm tố cáo tội ác dã man, bản chất tàn bạo, xảo trá của bọn thực dân và
phong kiến tay sai đối với nhân dân lao động các nước thuộc địa, đề cao những tấm gương yêu nước và cách
mạng.
- Bút pháp hiện đại, nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tạo nên được tình huống truyện độc đáo, hình tượng
sinh động, sắc sảo.
- Bộc lộ tài năng, trí tưởng tượng phong phú, vốn văn hoá sâu rộng, trí tuệ sắc sảo, trái tim tràn đầy
nhiệt tình yêu nước và cách mạng của người viết.
b. Truyện ngắn Giấc ngủ mười năm (1949) được Bác viết với danh Trần Lực là một sáng tác giàu tinh
thần lạc quan cách mạng.
c. Ngoài truyện ngắn, còn có những tác phẩm kí như Nhật kí chìm tàu (1931), Vừa đi đường vừa kể
chuyện (1963)…được Người sáng tác với nhiều bút danh khác nhau.
3. Thơ ca:
a. Sáng tác thơ tiêu biểu nhất của Hồ Chí Minh là Nhật kí trong tù:
- Tập thơ gồm 133 bài thơ chữ Hán theo thể Đường luật được sáng tác khi Người bị chính quyền
Tưởng Giới Thạch giam cầm (8.1942 - 9.1943).
- Tập thơ phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa, đen tối của chế độ nhà tù cũng như của xã hội Trung
Quốc thời Tưởng Giới Thạch.
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 2 -
www.facebook.com/groups/TaiLieuOnThiDaiHoc01
Hocmai.vn – Website
học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Tuyên ngôn Độc lập
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
- Tập thơ thể hiện tâm hồn nhân cách cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh trong hoàn
cảnh thử thách khắc nghiệt của chốn lao tù. Đó là bức chân dung tinh thần tự họa độc đáo, là "tâm hồn vĩ
đại của bậc đại trí, đại nhân, đại dũng" (Viên Ưng).
01
b. Ngoài Nhật kí trong tù, còn một số chùm thơ Người làm tại Việt Bắc từ năm 1941 đến năm 1945 và
trong thời kì kháng chiến chống Pháp:
oc
- Bên cạnh những bài được viết nhằm mục đích tuyên truyền như Dân cày, Ca binh lính, Bài ca sợi
ai
H
chỉ… là những bài thơ nghệ thuật vừa có màu sắc cổ điển vừa mang tinh thần hiện đại như Pác Bó hùng vĩ ;
Thướng sơn, Nguyên tiêu, Báo tiệp…
- Nổi bật trong thơ Người là hình ảnh nhân vật trữ tình mang nặng "nỗi nước nhà" mà phong thái vẫn
D
ung dung tâm hồn luôn hoà hợp với thiên nhiên, thể hiện bản lĩnh của một nhà cách mạng vĩ đại luôn luôn
hi
1àm chủ tình thế, tin vào tương lai tất thắng của cách mạng, tuy trước mắt còn biết bao gian nan, thử thách.
nT
4. Kết luận:
Văn thơ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh thể hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc, tâm hồn trí tuệ cao cả,
ai
Li
eu
O
là tiếng nói nhân danh người cùng khổ đấu tranh đòi quyền sống, nhân danh một dân tộc bảo vệ quyền độc
lập tự do, luôn tin vào sức mạnh của chân lí, luôn khát khao vươn tới chân – thiện – mĩ, nên luôn có giá trị
và sức hấp dẫn lâu bền.
s/
T
C. Những nét chính trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
1. Sự đa dạng trong phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh: Ở mỗi thể loại văn học, từ văn chính luận,
truyện, kí đến thơ ca Hồ Chí Minh đều tạo được những nét phong cách riêng, độc đáo và hấp dẫn.
ce
bo
ok
.c
om
/g
ro
up
b. Phong cách chính luận:
- Văn chính luận cửa Người thường ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng
đầy thuyết phục, giàu tính luận chiến, đa dạng về bút pháp và giọng điệu, thấm đượm tình cảm, giàu hình
ảnh.
- Hồ Chí Minh là người đầu tiên sử dụng có hiệu quả cao thể văn chính luận hiện đại. Văn chương Việt
nam vốn có truyền thống về tính chính luận, từ Nguyễn Trãi đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Văn
chính luận của Hồ Chí Minh mang cốt cách, đặc điểm của văn chính luận hiện đại của giai cấp vô sản.
c. Phong cách truyện kí:
- Truyện và kí của Nguyễn Ái Quốc là những tác phẩm mở đầu và góp phần đặt nền móng đầu tiên cho
w
w
w
.fa
văn xuôi cách mạng. So với các truyện ngắn cùng thời ở trong nước, các truyện ngắn của Người, xét về mặt
nghệ thuật thể loại, là cả một cuộc cách mạng.
- Truyện và kí của Người rất rất chủ động, sáng tạo, hiện đại, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ
thuật trào phúng sắc bén với tiếng cười nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thuý, sâu cay. "Văn tiếng Pháp
của Nguyễn Ái Quốc có đặc điểm nổi bật là dí dỏm, là hài hước. Điều đó không ngăn Người đã viết nên
những lời thắm thiết trữ tình khi xúc động" (Phạm Huy Thông).
d. Phong cách thơ:
- Thơ tuyên truyền cách mạng của Hồ Chí Minh thường được viết bằng hình thức bài ca, lời lẽ giản dị,
mộc mạc, dễ nhớ, mang màu sắc dân gian hiện đại, phục vụ có hiệu quả cao cho sự nghiệp cách mạng, và
luôn chứa chan nhiệt tình cách mạng.
- Những bài thơ nghệ thuật viết theo cảm hứng thẩm mĩ hầu hết là thơ tứ tuyệt bằng chữ Hán, mang
đặc điểm của thơ cổ phương Đông với sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển với bút pháp hiện đại: “ Thơ Người
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
www.facebook.com/groups/TaiLieuOnThiDaiHoc01
- Trang | 3 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Tuyên ngôn Độc lập
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
nói ít mà gợi nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đạm, có âm thanh trầm lắng, không phô diễn mà như cố
khép lại đường nét để cho người đọc tự thưởng thức lấy cái phần ý ở ngoài lời.” (Rôgiê Đơnuy, Pháp).
2. Sự thống nhất trong phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh: Dù trong văn chính luận, truyện, kí hay thơ
ca, phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh đều hết sức phong phú, đa dạng mà thống nhất:
- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển và hiện đại.
- Đó là cách viết ngắn gọn, trong sáng, giản dị, sử dụng linh hoạt các thủ pháp và bút pháp nghệ thuật
khác nhau nhằm thể hiện một cách nhuần nhị và sâu sắc tư tưởng và tình cảm của người cầm bút.
- Từ tư tưởng tới hình tượng nghệ thuật đều luôn luôn vận động một cách tự nhiên, nhất quán, hướng
về sự sống, ánh sáng và tương lai...
Giáo viên: Phạm Hữu Cường
Nguồn
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
:
Hocmai.vn
- Trang | 4 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (PHẦN 2)
Giáo viên: PHẠM HỮU CƯỜNG
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG
Đây là tài liệu đi kèm với bài giảng Tuyên ngôn Độc lập (Phần 2) thuộc khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN-C: Môn
Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường) tại website Hocmai.vn.
I. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC VÀ PHẠM VI RA ĐỀ:
1. Hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác, đối tượng tác động, đặc điểm thể loại của tác phẩm.
2. Giá trị tư tưởng nghệ thuật (giá trị lịch sử, giá trị văn học) của Tuyên ngôn Độc lập.
3. Quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật tự do, độc lập của nước Việt nam trong Tuyên ngôn Độc lập.
4. Nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập.
5. Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh - áng văn chính luận mẫu mực, áng “thiên cổ hùng văn”.
II. KIẾN THỨC THIẾT YẾU ĐỂ HIỂU VĂN BẢN:
Văn nghị luận và Tính biểu cảm trong văn nghị luận
1. Văn nghị luận:
- Đặc trưng cơ bản của văn nghị luận – và cũng là sức hấp dẫn chủ yếu của loại văn này – là: lập luận thống
nhất, chặt chẽ; lí lẽ sắc sảo, thông minh; dẫn chứng chính xác, chân thực, giàu sức thuyết phục.
- Có thể chia văn nghị luận thành 3 loại chính:
+ Nghị luận chính trị (Văn chính luận): Tiêu biểu là văn bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh.
+ Nghị luận văn học: Tiêu biểu là các văn bản Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân
tộc của Phạm Văn Đồng, Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh…
+ Nghị luận xã hội: Loại này thường có 3 kiểu bài nghị luận xã hội mà học sinh THPT phải học và thi trong
chương trình: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí, nghị luận về một hiện tượng đời sống, nghị luận về một vấn
đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
2. Tính biểu cảm trong văn nghị luận:
Văn nghị luận nói chung là sản phẩm của tư duy lô gích, suy lí,.. vì thế ý tứ phải rõ ràng, lập luận phải chặt
chẽ, văn phong phải sáng sủa, bảo đảm độ chính xác, giàu sức thuyết phục,... Tuy nhiên, nói như thế không
có nghĩa là văn nghị luận chỉ trình bày vấn đề một cách khô khan, trừu tượng, từ chối mọi cảm xúc và hình
ảnh. Trái lại muốn tăng thêm sức thuyết phục, bên cạnh việc "gõ" vào lí trí, bài văn nghị luận cần tác động
mạnh mẽ vào tình cảm của người đọc. Muốn thế người viết văn nghị luận cần phải có tình cảm, cảm xúc cao
độ. Ngôn ngữ văn nghị luận cũng cần phải hấp dẫn, lôi cuốn bằng các từ ngữ giàu hình ảnh và có sức biểu
cảm cao.
III. NỘI DUNG BÀI GIẢNG:
A. Tìm hiểu chung
1. Hoàn cảnh lịch sử
- Ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau quân đội Anh (thay mặt quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật)
đang tiến vào Đông Dương còn ở phía Bắc, bọn Tàu Tưởng và tay sai, đã trực sẵn ở biên giới. Bọn phản
động tìm cách ngóc đầu dậy hòng lật đổ chính quyền cách mạng.
- "Mâu thuẫn giữa Anh- Mỹ- Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh và Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho
Pháp trở lại Đông Dương" (nhận định của Đảng trong Hội nghị toàn quốc ngày 15 tháng 8 năm 1945).
- Thời gian này, hội nghị Tê-hê-răng và Xanh Frăng-xcô đưa ra giao ước : các nước thắng trận được trở lại
cai trị các nước đã từng là thuộc địa, còn các nước là thuộc địa của phe Phát xít thì quân Đồng minh sẽ đến
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 1 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
giải giáp và giao quyền tự trị cho nước đó. Để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai của mình, Pháp đã
tung ra trước dư luận quốc tế: Pháp có quyền quay trở lại Đông Dương.
2. Đối tượng tác động, mục đích sáng tác:
a) Đối tượng
+ Toàn thể quốc dân đồng bào.
+ Toàn thế giới. Trước hết là bọn đế quốc (Anh- Pháp- Mỹ), đặc biệt là Pháp, kẻ đang lăm le trở lại xâm
lược. Sự khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc cũng đồng thời là một cuộc đấu tranh chính trị nhằm
bác bỏ luận điệu của bọn xâm lược.
b) Mục đích
+ Công bố nền độc lập tự do của dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam mới.
+ Cương quyết bác bỏ luận điệu và âm mưu xâm lược trở lại của các thế lực thực dân đế quốc.
3. Bố cục
Có thể chia làm 3 phần:
a) Phần 1: từ đầu đến “chứ không phải từ tay Pháp” - Cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn của tuyên ngôn.
b) Phần 2: còn lại - Tuyên bố độc lập và quyết tâm bảo vệ nền độc lập.
B. Đọc hiểu văn bản
1- Về cơ sở pháp lí mà Tuyên ngôn đưa ra
a) Mở đầu bản tuyên ngôn của nước Việt Nam, Bác lại dẫn lời trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ và của
Pháp. Nội dung những lời trích dẫn là khẳng định quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống và quyền mưu
cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân. Đó là những quyền hiển nhiên, tất yếu và bất khả xâm phạm. Như vậy, cơ
sở pháp lí của bản tuyên ngôn là quyền tự do, bình đẳng của con người. Hồ Chí Minh đã đứng trên quan
điểm ấy mà đối thoại với bọn đế quốc về quyền dân tộc.
b) Trước hết, cách nói, cách viết của Bác vô cùng khéo léo: khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc ta
bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mỹ, người Pháp, hai bản tuyên ngôn đã từng làm vẻ vang cho
truyền thống tư tưởng, văn hóa của những dân tộc ấy.
c) Khéo léo mà vẫn rất kiên quyết vì qua đó để nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn
lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm
lược Việt Nam.
c) Ý nghĩa: Bác đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản tuyên
ngôn ngang hàng nhau. Cách làm này của Bác đã đưa dân tộc ta đường hoàng bước lên vũ đài chính trị thế
giới.
Mặt khác, Tuyên ngôn độc lập tuy không trực tiếp dẫn ra, nhưng lại gợi nhớ về một sự tiếp nối niềm tự hào,
tư tưởng độc lập dân tộc của cha ông đã được khẳng định từ xa xưa, trong áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô
đại cáo.
d) Phần suy rộng ra: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng.
Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
+ Bác đã nâng quyền con người, quyền cá nhân thành quyền dân tộc.
+ Đây là một đóng góp đầy ý nghĩa đối với tư tưởng giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hóa nước
ngoài đã viết: "Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con
người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền quyết định lấy vận mệnh của
mình" (Hồ Chủ tịch trong lòng dân thế giới- NXB Sự thật Hà Nội, 1979).
+ Như vậy, có thể xem luận điểm được "suy rộng ra" của Hồ Chí Minh là phát súng lệnh khởi đầu cho bão
táp cách mạng ở các nước thuộc địa, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa
sau thế kỉ XX.
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 2 -
www.facebook.com/groups/TaiLieuOnThiDaiHoc01
Hocmai.vn – Website
học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Tuyên ngôn Độc lập
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
w
w
w
.fa
ce
bo
ok
.c
om
/g
ro
up
s/
T
ai
Li
eu
O
nT
hi
D
ai
H
oc
01
2- Về cơ sở thực tế
a) Hồ Chí Minh đã đưa ra những dẫn chứng thực tế không thể chối cãi để vạch tội theo lối bác bẻ ngụy luận
của thực dân Pháp.
+ Thứ nhất, thực dân Pháp kể công "khai hóa", Bác đã lên án chúng trên mọi phương diện (chính trị, kinh tế,
văn hóa). Thủ tiêu mọi quyền chính đáng, tắm máu các phong trào yêu nước, thi hành chính sách ngu dân,
đầu độc, bần cùng hóa, gây ra nạn đói khủng khiếp hơn hai triệu người chết đói,… Tất cả những việc mang
danh “khai hóa” của thực dân Pháp trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
+ Thứ hai, thực dân Pháp kể công "bảo hộ", Bác nêu rõ: chúng không những không bảo hộ được mà "trong
vòng 5 năm đã bán nước ta hai lần cho Nhật". Không những thế, khi bị phát xít Nhật đảo chính, chính đoàn
thể yêu nước, cách mạng của nhân dân Việt Nam ( Việt minh) đã cứu giúp nhiều người Pháp, bảo vệ cả tính
mạng và tài sản của họ.
+ Thứ ba, thực dân Pháp luôn tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của Pháp, Pháp có quyền trở lại Đông
Dương. Bác vạch rõ: "Sự thật là từ mùa thu 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải là
thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh, nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" là từ tay phát xít Nhật.
Tất cả cách đưa dẫn chứng theo phép liệt kê trên đều lập luận kiểu “gậy ông đập lưng ông”. Từng “gậy” rắn
chắc, mạnh mẽ, dứt khoát, không thể chối cãi, không chống đỡ được.
b) Chủ đích là, bác bỏ mọi sự dính líu của Pháp ở Việt Nam. Khẳng định Việt minh, tổ chức yêu nước –
cách mạng của Việt Nam là một lực lượng của phe Đồng minh đánh đuổi phát xít Nhật để giải phóng dân
tộc, giải phóng đất nước.
3. Lời tuyên bố độc lập:
a) Là 3 câu văn ngắn gọn vừa chuyển tiếp/liên kết (xét về mặt hình thức) phần 1 với phần 2 vừa tổng kết,
khẳng định với một ý nghĩa vô cùng sâu sắc.
b) Câu 1 (Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị) xác nhận sự hết thời của thực dân, phát xít và phong
kiến trên đất nước ta. Một câu 3 mệnh đề, mỗi mệnh đề là một kết cấu chủ vị gồm 1, 2 từ, chỉ có 9 chữ mà
gói gọn một giai đoạn lịch sử đấu tranh vô cùng quan trọng của dân tộc ta từ cuối trung đại đến hiện đại.
Đồng thời làm rõ tình thế hiện tại (Pháp đã bỏ chạy, dân Việt Nam đánh cho Nhật phải hàng, lấy lại đất
nước từ tay phát xít Nhật và chính quyền phong kiến đã từ bỏ vương quyền của nó). Vì vậy, một nước Việt
Nam độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân, theo chnh thể cộng hòa phải ra đời là bước đi tất yếu của lịch sử,
không thể ngăn cản.
c) Câu 2 (Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc
lập) khẳng định nền độc lập dân tộc.
d) Câu 3 (Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa) khẳng
định chính thể mới.
e) Ba câu văn ngắn gọn, cô đọng, hàm súc mang nhiều lớp nghĩa đã mở đầu cho lời tuyên bố về một nước
Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới.
Từ sự thật lịch sử này, bản Tuyên ngôn đưa ra Tuyên bố về sự ra đời của nước Việt Nam độc lập, tự do
(Chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu của toàn dân Việt Nam, giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy).
g) Phần này gồm 2 tuyên bố (thoát li hẳn, xoá bỏ hết,... và Nước Việt Nam có quyền,...). Mỗi tuyên bố lại có
2 lời (lời tuyên bố và lời biểu thị quyết tâm thực hiện lời tuyên bố; khẳng định sự đúng đắn của lời tuyên
bố). Kết cấu như thế, kết hợp với giọng văn (thể hiện qua đùng từ, viết câu, tạo nhịp) mạnh mẽ, dứt khoát
vừa làm nổi bật các nội dung tuyên bố vừa thể hiện tinh thần kiên định, khí phách hào hùng của một dân tộc
đã, đang đứng lên tự quyết định vận mệnh mình.
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
www.facebook.com/groups/TaiLieuOnThiDaiHoc01
- Trang | 3 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
h) Tuyên bố đầu tiên là "thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước mà Pháp đã kí về
nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam".
- Trước hết, lời tuyên bố đề cập đến một vấn đề hết sức thiết yếu. Nếu không, không thể tuyên bố về sự độc
lập. Đó là tuyên bố không chịu sự lệ thuộc và xoá bỏ mọi đặc quyền của Pháp.
- Thứ hai, lời tuyên bố vô cùng tinh tế, sâu sắc và chặt chẽ. Xóa bỏ là xóa bỏ các quan hệ thực dân với Pháp,
không xóa bỏ quan hệ tốt đẹp, không từ chối quan hệ hữu nghị. Lại viết, “xoá bỏ hết những hiệp ước mà
Pháp đã kí về nước Việt Nam”, không phải kí với nước Việt Nam. Kí "về" là kí có tính chất áp đặt, ép buộc,
gồm cả những hiệp ước kí với nước ngoài về Việt Nam. Khác hẳn kí "với" là kí trên tinh thần bình đẳng,
hợp tác.
Thứ ba, lời tuyên bố sử dụng phép lặp và một trường từ vựng có tính chất mạnh: "thoát li hẳn", "xóa bỏ hết",
"xóa bỏ tất cả" thể hiện lập trường kiên định, thái độ dứt khoát, vấn đề đặt ra không thêt khoan nhượng. Có
những hàm ý tinh tế nhưng rõ ràng: “Pháp” là chính phủ Pháp ở chính quốc, thực dân Pháp ở Việt Nam,
không phải nhân dân Pháp. Hay luôn luôn viết “nước” Việt Nam, nghĩa là nhấn mạnh tính thống nhất đất
nước. Mặc nhiên phủ nhận sự chia cắt nước ta thành 3 kì của thực dân Pháp.
i) Tuyên bố cuối cùng là tuyên bố về quyền tự do, độc lập và sự ra đời của nước Việt Nam tự do độc lập.
Để dến tuyên bố này, tác giả đã dẫn giải ba sự thật không thể chối cãi và một nguyên tắc. Đó là sự thật, dân
tộc Việt Nam đã đấu tranh trường kì với thực dân Pháp để có tự do, độc lập; dân tộc Việt Nam đã đứng về
phe Đồng Minh chống phát xít; Việt Nam đã là nước tự do độc lập. Nguyên tắc đưa ra là nguyên tắc về
quyền bình đẳng của các dân tộc. Một nguyên tắc được thế giới trong đó có các nước Đồng minh thừa cơ
“đục nước béo cò” (Tàu Tưởng), đang âm mưu giúp thực dân Pháp trở lại xâm lược và cai trị nước ta (Anh,
Mĩ) thông qua. Đây chính là cơ sở vững chắc để tuyên bố độc lập. Vì đảm bảo tính pháp lí, đạo lí, thực tế và
phù hợp với công ước quốc tế.
k) Về phương diện diễn đạt, đều là câu khẳng định, thiên về các từ “nóng” (quyết, phải, không thể không,
toàn thể, tất cả,...), khi điệp từ ngữ (gan góc, dân tộc,...), khi song hành cú pháp (Một dân tộc đã,... dân tộc
đó phải được,...), khi mạnh mẽ, khi mềm mại, uyển chuyển (Chúng tôi tin rằng,...) đã tạo nên âm hưởng hào
hùng, đanh thép , trang trọng của một đoản khúc anh hùng ca nhưng vẫn nồng nàn, tha thiết.
4. Nghệ thuật chính luận trong Tuyên ngôn độc lập
a) Vấn đề trọng đại, nhiều nội dung lớn cần đề cập, làm sáng tỏ. Phạm vi tác động rộng, đối tượng tiếp nhận,
tác động khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về địa vị. trình độ, quan điểm, lập trường, thái độ, tình cảm
(nhân dân Việt Nam - một bộ phận trí thức, còn lại 90% lao động nghèo, thất học, mù chữ ; Chính phủ và
nhân dân các nước) phải viết như thế nào để có sức thuyết phục tất cả ? Với cương vị thay mặt Chính phủ
Lâm thời của nước Việt Nam mới trong một bối cảnh xã hội phức tạp, thái độ, tình cảm cần bộc lộ ra sao ?
Lại phải trình bày ngắn gọn để mõi một ý tứ, câu chữ găm vào lòng người.
Đó quả là một bài toán hắc búa. Nhưng Tuyên ngôn Độc lập đã đáp ứng được một cách xuất sắc bằng một
nghệ thuật chính luận bậc thầy.
b) Điểm nổi bật đầu tiên là, văn phong của bản Tuyên ngôn đanh thép, sắc sảo mà vô cùng trong sáng, giản
dị, súc tích, giàu nghệ thuật.
Từ ngữ sử dụng chính xác, giản dị, dễ hiểu, gần gũi. Lời văn trong sáng nhưng không làm mất di tính hiện
đại, sự sang trọng, vẻ uyển chuyển. Đó là trường hợp không ngại sử dụng những câu dài có cấu trúc phức
tạp, các loại câu khẳng định liên tiếp (khẳng định, phủ định đối tượng bằng câu khẳng định, phủ định của
phủ định), các câu liệt kê, câu song hành,... phối hợp với sự liên kết câu, đoạn chặt chẽ, mang giai điệu phù
hợp, đầy hình ảnh, không ngại các phép tu từ. Tất cả lại thật gãy gọn, khúc chiết.
c) Hệ thống lập luận của Tuyên ngôn có sự kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và bằng chứng; giữa trí tuệ và cảm
xúc; giữa cứng rắn và khôn khéo, mềm mỏng; giữa cương quyết và thiết tha; giữa các phép lập luận: chứng
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 4 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
minh, giải thích, phân tích, bình luận, bác bẻ ; giữa tính chính trị, tuyên truyền và tính văn chương nghệ
thuật.
Tuyên ngôn độc lập thể hiện một trí tuệ mẫn tiệp, một tầm văn hóa sâu rộng và trên hết là một tình yêu dân,
yêu nước nồng nàn.
III- Tổng kết
1- Nếu xem Nam quốc sơn hà và Đại cáo bình Ngô là 2 lần tuyên bố độc lập, quyết tâm bảo vệ chủ quyền
đất nước thì đây là lần thứ 3. Tuyên ngôn độc lập thời hiện đại: chính thức, của chính thể dân chủ cộng hòa,
không chỉ về độc lập dân tộc mà còn về quyền con người, truớc toàn thế giới, không phải chỉ với phong kiến
Trung Hoa.
2- Một áng văn chính luận xuất sắc. Tác phẩm là tiếng nói của một trí tuệ lớn lao, cũng là của một trái tim
nồng nàn yêu nước, thương nòi.
3- Tác phẩm sẽ trường tồn không chỉ vị giá trị lịch sử mà còn vì sự lay động mãi mãi trái tim con người.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
A. Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hai cuộc cách mạng cùng một lúc
Theo hồi ký của ông Vũ Kỳ - thư ký của Bác, từ ngày thứ ba, 28/8/1945, tức ngày 21/7 Ất Dậu, trên gác hai
nhà 48 Hàng Ngang (Hà Nội) của gia đình ông Trịnh Văn Bô, Bác Hồ đã phác thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Trước khi viết, Người dành thời gian để nhớ và ngẫm những ý tứ sâu sắc, thâm thuý trong “Nam quốc sơn
hà” của Lý Thường Kiệt và “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi - những bản thiên cổ hùng văn ngàn xưa
để lại…
Theo yêu cầu của Bác, ông Fenn, trung uý tình báo Mỹ - bạn của Bác - đã chép nguyên văn bản Tuyên ngôn
độc lập của Mỹ năm xưa qua điện đài, gửi cho Người trong khi viết dự thảo bản Tuyên ngôn độc lập để đọc
vào một ngày đầu tháng 9/1945. Bác đã vô cùng sáng suốt, tinh anh khi thay chữ MEN (đàn ông) trong
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ bằng chữ PEOPLE, nghĩa là “mọi người” vào bản Tuyên ngôn độc lập của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Theo bà Lady Borton – “nhà Hồ Chí Minh học” người Mỹ – thì gọi đây
là “cuộc cách mạng một chữ”. Chỉ thay một chữ, Hồ Chí Minh cùng một lúc làm hai cuộc cách mạng: Cách
mạng giải phóng dân tộc (đã thành công) và cách mạng “giải phóng phụ nữ”. Ở Việt Nam, ngày 6/1/1946 4 tháng sau ngày Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập, phụ nữ Việt Nam đủ tuổi 18 trở lên đã được thực
hiện một trong các quyền chính trị cao nhất đó là quyền bầu cử, để bầu ra Quốc hội Nước Việt Nam Dân
chủ cộng hoà. Còn ở Mỹ, đến năm 1930, 154 năm sau khi bản tuyên ngôn bất hủ 1776 ra đời, phụ nữ mới
được thực hiện quyền chính trị đó.
B. Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập (Trích - Giáo sư NGUYỄN ĐĂNG MẠNH (Khoa Ngữ văn
ĐHSPHN)
Tuyên ngôn Độc lập là một bài văn chính luận. Văn chính luận thuyết phục người khác bằng những lí lẽ, nếu
đánh địch thì cũng đánh địch bằng những lí lẽ. Lợi khí của nó là những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt
chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến hình ảnh, có gợi đến tình
cảm thì chẳng qua cũng chỉ để phụ giúp thêm cho sự thuyết phục bằng lí lẽ mà thôi. Chúng ta sẽ nói đến cái
hay, cái tài của Tuyên ngôn Độc lập theo quan niệm đó…
Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng
chính lí lẽ của đối thủ ấy. Người ta gọi cách làm đó là “lấy gậy ông đập lưng ông”.
Bác Hồ đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ,
người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyên ngôn độc lập, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từng làm vẻ
vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo
léo vừa kiên quyết [2]. Khéo léo, vì tỏ ra rất tôn trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ.
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 5 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những
cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra, mở đầu Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch
sử nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền
độc lập ngang hàng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại
niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để
đặt ngang hàng Triệu, Đinh, Lí, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc quốc.
Mà đăng đối, cân xứng cũng là phải, vì cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thực ra đã giải quyết đúng những
nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1789). Bản Tuyên ngôn đã nêu rõ: “Dân ta đã
đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng là
yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng nước Mĩ: đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mĩ ra khỏi ách
thực dân Anh. Bản Tuyên ngôn cũng biết: “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên
chế độ Dân chủ Cộng hòa”. Đấy cũng là tinh thần cơ bản của cuộc Cách mạng Nhân quyền, Dân quyền của
Pháp thế kỉ XVIII.
Nhưng để đối thoại với bọn đế quốc xâm lược lúc bấy giờ, vấn đề hàng đầu đặt ra là độc lập dân tộc. Điều
đó giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở đầu như thế…
Ý kiến “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác Hồ đối với phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới. Một nhà văn hoá nước ngoài đã viết: “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người
đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền
tự quyết định lấy vận mệnh của mình” [3]. Vậy có thể xem cái luận điểm “suy rộng ra” kia là phát súng lệnh
khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào
nửa sau thế kỉ XX?
Nhưng kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe doạ nền độc lập của dân tộc khi bản Tuyên ngôn ra đời là bọn
xâm lược Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy sẽ phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc
chiến đấu ấy rất cần đến sự đồng tình và ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Muốn vậy, phải xác lập cơ sở pháp lí
của cuộc kháng chiến, phải nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan những luận điệu xảo trá của bọn thực dân
muốn “hợp pháp hóa” cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quốc tế.
Bản Tuyên ngôn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.
Thực dân Pháp muốn khoe khoang công lao khai hóa của chúng đối với Đông Dương ư? Thì bản Tuyên
ngôn đã vạch trần những hành động “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của chúng trong 80 năm thống
trị nước ta: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng,
thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng thuốc phiện, rượu cần, bóc lột, vơ vét đến tận xương tủy, cuối
cùng, gây ra nạn đói khiến “từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”.
Thực dân Pháp muốn kể công “bảo hộ” Đông Dương ư? Thì bản Tuyên ngôn chỉ rõ đó không phải là công
mà là tội, vì “trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật” [4].
Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng và chúng có quyền trở lại Đông Dương ư?
Nhưng Đông Dương có còn là thuộc địa của Pháp nữa đâu! Bản Tuyên ngôn vạch rõ: “Sự thật là từ mùa thu
năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng
Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà.
Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Luận điểm này, đứng
về ý nghĩa pháp lí, cực kì quan trọng. Nó sẽ dẫn tới lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên ngôn:
“Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu của toàn dân Việt Nam,
tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 6 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Sức mạnh của chính nghĩa bao giờ
cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Và không có lí lẽ nào có sức thuyết phục cao hơn là lí lẽ của sự thật.
Vì thế, Người viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy lại hai chữ “sự thật”: “sự thật là…”, “sự thật là…”. Và
cuối cùng thì “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập…”. Đấy là những điệp khúc nối tiếp nhau tăng thêm âm hưởng hùng biện của Tuyên ngôn. Đấy là hệ
thống lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân.
Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập, tự do hay không, có đủ tư
cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ để khẳng định.
Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam
đại diện là Việt Minh, đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành được chủ quyền từ tay phát xít
Nhật. Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng ở hành động “thẳng tay
khủng bố Việt Minh”, “Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên
Bái và Cao Bằng”, thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo ngay đối với kẻ thủ đã thất thế:
“Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu
cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”.
Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập, tự do,
đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế, “dân tộc đó
phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.
Tinh thần khẳng định, trong lời kết luận, còn được tăng cấp lên một bậc nữa: hưởng độc lập tự do không
phải chỉ là một cái quyền phải có, không phải chỉ là một tư cách cần có, mà đó đã là một hiện thực: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Và vì thế “Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy”.
Người ta gọi bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là “thiên cổ hùng văn”. Cũng có thể nói như thế về bản
Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh…
Giáo sư NGUYỄN ĐĂNG MẠNH (Khoa Ngữ văn ĐHSPHN)
Giáo viên: Phạm Hữu Cường
Nguồn :
Hocmai.vn
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 7 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
5 LỢI ÍCH CỦA HỌC TRỰC TUYẾN
Ngồi học tại nhà với giáo viên nổi tiếng.
Chủ động lựa chọn chương trình học phù hợp với mục tiêu và năng lực.
Học mọi lúc, mọi nơi.
Tiết kiệm thời gian đi lại.
Chi phí chỉ bằng 20% so với học trực tiếp tại các trung tâm.
4 LÍ DO NÊN HỌC TẠI HOCMAI.VN
Chương trình học được xây dựng bởi các chuyên gia giáo dục uy tín nhất.
Đội ngũ giáo viên hàng đầu Việt Nam.
Thành tích ấn tượng nhất: đã có hơn 300 thủ khoa, á khoa và hơn 10.000 tân sinh viên.
Cam kết tư vấn học tập trong suốt quá trình học.
CÁC CHƯƠNG TRÌNH HỌC CÓ THỂ HỮU ÍCH CHO BẠN
Là các khoá học trang bị toàn
bộ kiến thức cơ bản theo
chương trình sách giáo khoa
(lớp 10, 11, 12). Tập trung
vào một số kiến thức trọng
tâm của kì thi THPT quốc gia.
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
Là các khóa học trang bị toàn
diện kiến thức theo cấu trúc của
kì thi THPT quốc gia. Phù hợp
với học sinh cần ôn luyện bài
bản.
Là các khóa học tập trung vào
rèn phương pháp, luyện kỹ
năng trước kì thi THPT quốc
gia cho các học sinh đã trải
qua quá trình ôn luyện tổng
thể.
Là nhóm các khóa học tổng
ôn nhằm tối ưu điểm số dựa
trên học lực tại thời điểm
trước kì thi THPT quốc gia
1, 2 tháng.
-
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (PHẦN 3)
Giáo viên: PHẠM HỮU CƯỜNG
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG
Đây là tài liệu đi kèm với bài giảng Tuyên ngôn Độc lập (Phần 3) thuộc khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN-C: Môn
Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường) tại website Hocmai.vn.
I. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC VÀ PHẠM VI RA ĐỀ:
1. Hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác, đối tượng tác động, đặc điểm thể loại của tác phẩm.
2. Giá trị tư tưởng nghệ thuật (giá trị lịch sử, giá trị văn học) của Tuyên ngôn Độc lập.
3. Quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật tự do, độc lập của nước Việt nam trong Tuyên ngôn Độc lập.
4. Nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập.
5. Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh - áng văn chính luận mẫu mực, áng “thiên cổ hùng văn”.
II. KIẾN THỨC THIẾT YẾU ĐỂ HIỂU VĂN BẢN:
III. NỘI DUNG BÀI GIẢNG:
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
A. Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hai cuộc cách mạng cùng một lúc
B. Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập (Trích - Giáo sư NGUYỄN ĐĂNG MẠNH (Khoa Ngữ văn
ĐHSPHN)
C. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - HỒ CHÍ MINH (G.S TRẦN ĐÌNH SỬ)
Trong lịch sử dân tộc có những văn kiện vừa có tầm vóc lịch sử vĩ đại, vừa có giá trị văn học. Đó là Bình
Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và Tuyên ngôn Độc lậpcủa Hồ Chí Minh. Tuyên ngôn cũng như Đại cáo là thể
văn chính luận được viết vào thời điểm có sự kiện chính trị trọng đại, nhằm tuyên bố thắng lợi, khẳng định
chủ quyền, đề ra những nguyên tắc đảm bảo quyền lợi cho con người, nhân dân, dân tộc. Trên thế giới đã có
những bản Tuyên ngôn nổi tiếng như Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam ngày 2-9-1945
không chỉ mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam sau 80 năm bị giặc Pháp đô hộ và sau một
nghìn năm chế độ phong kiến, mà còn khởi đầu cho sự tan rã của hệ thống thuộc địa trên thế giới.
Để hiểu ý nghĩa lịch sử của bản Tuyên ngôn ta hãy ôn lại đôi nét tình hình chính trị lúc ấy. Năm 1945, khi
quân phát xít sắp thua, quân Đồng minh sắp thắng, nhiều đế quốc nhòm ngó Đông Dương, thuộc địa cũ của
Pháp đã mất về tay Nhật. Không đếm xỉa đến chủ quyền của Việt Nam, hội nghị Pốtxđam tháng 7-1945
quyết định quân Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, còn quân Tưởng Giới Thạch vào từ vĩ
tuyến 16 trở ra. Tướng Đờ Gôn thì tuyên bố sẽ tổ chức Đông Dương thành liên bang gồm năm "nước tự trị":
ngoài Lào, Campuchia còn có ba "nước" Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, tất cả đặt dưới sự lãnh đạo của quan
toàn quyền Pháp! Để chống lại âm mưu đế quốc, bảo vệ chủ quyền độc lập của mình, dưới sự lãnh đạo của
Việt Minh (do Đảng cộng sản Việt Nam chỉ đạo) nhân dân ta tranh thủ thời cơ Hồng quân Liên Xô đánh bại
phát xít Nhật ngày 15/8/1945, đã đứng lên khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19/8, ở Huế ngày 23/8 và ở Nam Bộ
ngày 25/8. Chỉ trong vòng một tuần lễ, nhân dân cả nước đã giành được chính quyền, một tuần lễ sau, Chính
phủ lâm thời ra mắt quốc dân và Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2/9/1945, trước khi quân
Anh và quân Tưởng tràn vào Việt Nam. Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ khẳng định chủ quyền của Việt
Nam mà còn có vai trò đánh đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Việt Nam của Thực dân Pháp và âm mưu
can thiệp vào Việt Nam của các đế quốc khác, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế. Tình thế
và nhiệm vụ đó đã quy định nội dung và lời lẽ của Bản Tuyên ngôn. Bản Tuyên ngôn do Chủ tịch Hồ Chí
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 1 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
Minh khởi thảo và được tập thể thường vụ Trung ương Đảng thông qua. Là người đã viết Bản án chế độ
thực dân Pháp năm 1925, Hồ Chí Minh cảm thấy "sảng khoái nhất" khi cầm bút viết những lời kết thúc cho
chế độ thực dân Pháp và khai sinh chế độ dân chủ cộng hòa tại Việt Nam.
Bản Tuyên ngôn Độc lập có hai phần lớn. Phần một: Triệt để phủ nhận quyền dính líu tới Việt Nam của
thực dân Pháp. Phần hai: Tuyên ngôn thành lập chính phủ, khẳng định quyền độc lập và bày tỏ quyết tâm sắt
đá bảo vệ quyền độc lập đó. Chúng ta hãy phân tích theo bố cục này.
I. a) Một bản Tuyên ngôn Độc lập của thời đại dân chủ cộng hòa thì không thể xuất phát từ các nguyên tắc
"thay trời hành đạo", "quy định của sách trời" của thời đại phong kiến, mà phải xuất phát từ nguyên tắc mới
do chính các nước tư bản về đế quốc công nhận, đặc biệt là từ các nước đang thuộc phe Đồng Minh. Chính
vì lẽ đó bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh được mở đầu bằng hai câu trích dẫn từ Tuyên ngôn Độc
lập nước Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc". Và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1971 của Pháp: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do." Và khẳng định "Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được".
Ở đây chú ý mấy điểm:
- Hồ Chí Minh trích dẫn lời của hai bản Tuyên ngôn nhưng không dừng lại với nội dung của hai bản đó, mà
suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc, những quyền mà hai bản ấy chưa nói đến. Các bản ấy tập trung vào
quyền con người, quyền của người dân mà chưa nói đến quyền độc lập của dân tộc. Nhưng đây mới là điểm
then chốt đối với vận mệnh của nước ta. Các nước tư bản và đế quốc cho đến đầu thế kỷ XX vẫn chưa hề có
tuyên bố về việc tôn trọng chủ quyền độc lập dân tộc. Năm 1917, tại Đại hội Xô Viết toàn Nga, Lênin cho
thông qua Pháp lệnh về hoà bình, tuyên bố tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc nhược tiểu như một chính
sách đối ngoại. Hiến chương Liên hiệp quốc thừa nhận quyền bình đẳng của các nước ký ở Cựu Kim Sơn
trong cuộc họp từ ngày 25/4 đến 26/6/1945, đến ngày 24/10/1945 mới có hiệu lực. Như vậy Tuyên ngôn
Độc lập đã nêu quyền độc lập, tự do của dân tộc như một lẽ phải trong quan hệ quốc tế để khẳng định quyền
độc lập của một dân tộc thuộc địa, chưa được các nước lớn thừa nhận.
- Câu "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được" đã cho thấy đó chưa phải là lẽ phải được các nước công
nhận. Phải trải qua chiến đấu hy sinh, quyền ấy mới được công nhận.
- Việc viện dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp có tác
dụng thể hiện sự tôn trọng thành quả văn hoá nhân loại, vừa có tác dụng chiến đấu, khiến các cường quốc
không dễ nuốt lời, chối bỏ quyền độc lập chính đáng của Việt Nam.
b) Sau khi nêu lẽ phải không thể chối cãi, Hồ Chí Minh lập tức chuyển sang tố cáo tội ác của thực dân Pháp,
bất chấp lẽ phải, lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để nô dịch nhân dân ta trong hơn 80 năm. Tác giả
vạch ra năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế của chúng.
Quan trọng hơn là Bản Tuyên Ngôn Độc lập đã vạch rõ bộ mặt phản bội của thực dân Pháp. Từ năm 1940
Pháp đã dâng Đông Dương cho Nhật, làm cho dân ta chịu hai tầng xiềng xích. Đến ngày 9/3/1945 Nhật tước
khí giới Pháp, quân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Chúng chẳng những không "bảo hộ" được ta, trái lại
trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật. Tồi tệ hơn, chúng đã không hưởng ứng lời kêu gọi của
Việt Minh để hợp tác chống Nhật, mà lại còn đê hèn sát hại tù chính trị của chúng ta!
Vậy là trên thực tế Pháp đã từ bỏ quyền lợi của họ ở Việt Nam, từ chối chiến đấu cùng Việt Nam để bảo vệ
quyền lợi của họ. Thực tế là Pháp đã không còn chủ quyền nào ở Việt Nam từ sau ngày 9/3/1945! Trong
điều kiện đó, Việt Minh là chủ nhân duy nhất là đoàn thể đã đánh và giúp đỡ Nhật và giúp đỡ nhiều người
Pháp gặp nạn.
Bằng cách đó bản Tuyên Ngôn khẳng định mạnh mẽ một sự thật lịch sử:
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 2 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
Sự thật là từ mùa thu năm 1940 nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp nữa ...
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải tay Pháp. Đó là sự thực không thể chối
cãi. Sự thực này được khẳng định mạnh mẽ trong Tuyên ngôn có ý nghĩa quan trọng. Nó đập tan cái ảo
tưởng về mối quan hệ thuộc địa với Pháp còn đè nặng trong đầu óc thực dân Pháp, nó công bố cho thế giới
thấy thực chất quan hệ Pháp - Việt trong năm năm Chiến tranh thế giới thứ hai. Mà nguyên tắc giải quyết
quan hệ quốc tế là phải dựa vào sự thực lịch sử.
Cuối cùng tác giả khẳng định thực tế của nền độc lập của Việt Nam hiện tại bằng ba câu văn:
"Pháp chạy, Nhật hàng, Vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay
để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên
chế độ Dân chủ Cộng hòa".
Câu một xác định sự hết thời của các lực lượng thực dân, phát xít, phong kiến. Câu hai khẳng định nền độc
lập, câu ba khẳng định chính thể mới.
II. Phần còn lại là tuyên bố lập trường của nước Việt Nam mới
a. Điều quan trọng nhất, dễ bị hiểu lầm nhất là quan hệ với Pháp. Có thể có người nghĩ Việt Nam là thuộc
địa của Pháp, bị phát xít Nhật chiếm, nay Nhật hàng, thì Pháp trở lại Việt Nam. Chính lúc đó tướng Đờ Gôn,
người đã giải phóng nước Pháp, đã tuyên bố "Chúng ta sẽ trở lại Đông Dương, vì chúng ta mạnh hơn, Hà
Nội, chặng đường giải phóng cuối cùng...". Do đó điều tuyên bố quan trọng nhất là tuyên bố về quan hệ với
Pháp. Tuyên ngôn độc lập là tuyên bố độc lập với thực dân Pháp:
- Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt
Nam, xóa bỏ tất cả những đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam
- Toàn dân Việt Nam kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
b. Tiếp theo là ràng buộc các nước Đồng Minh vào việc công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam. Lý do
thứ nhất là: Họ đã công nhận nguyên tắc dân tộc bình đẳng thì không thể không công nhận quyền độc lập
của Việt Nam. Lý do thứ hai là một dân tộc đã chống ách thực dân và đã đứng về phe Đồng Minh chống
phát xít thì nhất định: "Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc phải được độc lập!".
Cho đến đây, Tuyên ngôn Độc lập đã dùng lẽ phải và sự thật thực tế để khẳng định nền độc lập của Việt
Nam. Lời tuyên bố trịnh trọng cuối cùng đối với thế giới là lời khẳng định ý chí và quyết tâm bảo vệ nền
độc lập của mình. Nó có ý vị của một lời thề:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc
lập ấy".
Như vậy là, bằng lý lẽ, bằng sự thật, bằng chính nghĩa, bằng ý chí và quyết tâm, Tuyên ngôn Độc lập đã
khẳng định quyền hưởng độc lập và thực tế độc lập của nước ta.
Hiểu bài văn không đơn giản là hiểu bài có mấy nội dung 1, 2, 3, 4 ... mà phải hiểu, như nhà thơ Chế Lan
Viên nói: "Vì sao văn viết thế này chứ không phải viết thế kia, văn nói cái này mà không nói cái khác". Đó
chính là nghệ thuật bài văn. Xét về mặt này ta thấy:
- Bài văn rất ngắn gọn. Nó không bắt đầu từ "Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây độc lập" mà bắt đầu từ việc
thực dân Pháp chà đạp quyền độc lập của dân tộc ta. Bởi vì độc lập đây là độc lập với ách thực dân của
Pháp.
- Lập luận nhất quán và sắc bén. Trước sau bài Tuyên ngôn chỉ xoáy vào một vấn đề là quyền độc lập, tự do
của nước Việt Nam.
- Bài Tuyên ngôn sử dụng các trích dẫn trong các Tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và Pháp, cũng như nguyên
tắc dân tộc bình đẳng của các nước Đồng Minh làm cho họ không thể chối từ quyền độc lập của Việt Nam.
- Bài Tuyên ngôn viện dẫn thực tế, bác bỏ quyền trở lại Việt Nam của Pháp.
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 3 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
- Bài văn dùng ngôn ngữ súc tích, chính xác, giàu sức biểu cảm. Nói về Pháp, tác giả dùng những từ đầy sức
mạnh tố cáo và mai mỉa. Ví dụ câu "Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào" thì
hai chữ tuyệt đối có tác dụng nhấn mạnh, chính xác hơn ý văn. Câu "Bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng,
mở cửa nước ta rước Nhật", hai chữ quỳ gối và rước đã vẽ lên tư thế nô lệ đê hèn của Pháp, hoặc: "Thế là
chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật".
Thì chữ bảo hộ đầy châm biếm chữ bán nước ta hai lần đã vạch rõ bộ mặt xấu xa của chúng.
Chính vì vậy, ngày nay đọc lại, bài văn vẫn xúc động lòng người.
D. PHÂN TÍCH TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP CỦA HỒ CHÍ MINH (Nguyễn Trác - Giảng văn văn học
Việt Nam)
Người đọc bản tuyên ngôn độc lập (cũng là tác giả) cất lời là vào ngay vấn đề, nhằm thẳng mục tiêu; xác
định một chân lý, nghĩa là khẳng định một chủ quyền.
Nước Việt Nam là của người Việt Nam. Chân lý bao giờ cũng giản dị đối với người sáng suốt, có thiện chí
muốn tiếp thu nó. Còn đối với những kẻ có tà tâm bị lợi lộc ích kỷ làm cho mù, cho điếc, không còn muốn
thấy sự thật, muốn nghe lẽ phải thì rất khó tiếp thu. Phải giải thích. Tốt nhất là dựa vào những lý lẽ có uy thế
từ lâu.
Đối tượng được nghe trước hết là một triệu đồng bào trong cuộc biểu tình, là hai mươi lăm triệu nhân dân cả
nước đang hướng về Thủ đô Cách mạng…Tất nhiên chúng ta hiểu được nước ta là của ta. Ta hiểu từ lâu rồi,
từ bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Ta đã khẳng định như thế nhiều lần, “Nam quốc sơn hà Nam đế
cư” hoặc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.”
(Bình Ngô đại cáo)
Nhưng trong hai mươi lăm triệu tất cũng có người còn ngơ ngác bàng hoàng vì cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi
quá nhanh, chưa kịp tĩnh tâm để xóa được ngay những luận điệu xảo trá tung ra liên tục tám chục năm qua.
Và, có hiểu rồi, nhắc lại cũng không sao. Có những sự thật nghe hàng nghìn lần vẫn thấy sảng khoái.
Mặt khác, đối tượng nghe đâu phải chỉ có Việt Nam.
Còn có “Đồng Minh”, có Mỹ, tên trùm tư bản quốc tế, đã trở thành tên đế quốc đầu sỏ sau đại chiến. Có
Pháp đang hí hửng giơ vuốt, nhe nanh. Hồ Chí Minh hôm nay, Nguyễn Ái Quốc hôm qua còn lạ gì bụng dạ
chúng. Lấy ngay lời nói của chính các bậc tiền bối của chúng, những lời tuyên bố trịnh trọng trong những
hoàn cảnh lịch sử vĩ đại mà chúng không thể biết. Chúng cố tình quên thì nhắc lại. Nhắc lại những lời chí lý
của những người Mỹ cách đấy chỉ gần hai trăm năm cũng có hoàn cảnh bị áp bức, bị làm nhục như Việt
Nam. Câu nói của tên thủ tướng Anh Uy – Liêm như còn văng vẳng bên tai: “Hễ Mỹ làm ra dù chỉ một sợi
len, một miếng sắt móng ngựa là bản chức sẽ cho lính sang đóng đầy xứ ngay lập tức.”
Mười lăm năm sau bản Tuyên ngôn của Mỹ là bản Tuyên ngôn của Pháp, của những người Pháp không chịu
được cái phải cõng trên lưng, đội trên đầu mấy chú quý tộc, mấy anh tăng lữ, không chịu được câu nói hống
hách vô nghĩa của mấy tên vua: “Trẫm muốn, ấy là pháp luật”.
Hồ Chủ Tịch khổng chỉ lấy lại lời nói hay của người xưa mà còn giải thích, bình luận, khái quát, nâng lên
một tầm vóc cao hơn, rộng hơn, mới hơn. Từ hạnh phúc cá nhân, người nâng lên vấn đề “quyền sống quyền
sung sướng và quyền tự do” của các dân tộc. Không chỉ một cá nhân có quyền bình đẳng về quyền lợi với
một cá nhân khác mà các dân tộc đều sinh ra bình đẳng với nhau về mọi mặt, nghĩa là một dân tộc dù nhỏ
bé, dù thuộc chủng tộc da đen, da vàng cũng có quyền bình đẳng với một dân tộc lớn thuộc chủng tộc da
trắng của nước tiên tiến nhất Âu, Mĩ. Cuộc tranh đấu ấy cũng là mục tiêu lớn, nội dung lớn của thời đại
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 4 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
chúng ta, thời đại mở cửa đầu của Cách mạng tháng Mười, thời đại mà tính chất sẽ được khẳng định trong
hội nghị 81 họp năm 1960 tại Ma-xcơ-va. Thực tế cách mạng đã xác định tính thiên tài trong cách nhìn,
cách nghĩ của vị lãnh tụ đã từng là đại biểu của các dân tộc thuộc địa và bênh vực họ không biết mệt mỏi
trong các hội nghị quốc tế.
Đoạn văn mở đầu hết sức gọn, súc tích. Hai câu trích bổ sung cho nhau. Một lời bình luận, một câu kết thúc,
gói lại thật chặt, thật vững.
“Thế mà…”
Chỉ một lớp chuyển tiếp là đủ mở ra hết nội dung của đoạn sau. Nó như một tiếng thở dài uất hận, một lời
phê phán nghiêm khắc những kẻ muối mặt, cố tình làm bậy. Và thế là Bản án chế độ thực dân Pháp đã từng
được đưa ra trước tòa án lịch sử cách đấy hai mươi năm lại được tóm tắt đưa ra lần nữa trước công luận Việt
Nam và thế giới.
Vẫn là lập trường dân tộc rộng rãi của người viết, vẫn là lòng căm giận quân cướp nước thể hiện bằng
những lời lẽ súc tích, đanh thép. Những động từ, tính từ, trạng từ đều hết sức nặng để miêu tả bản chất bọn
chúng (thẳng tay chém giết, ràng buộc dư luận, cướp không ruộng đất, hàng trăm thứ thuế vô lý…) Vẫn
lòng xót xa đối với đất nước lầm than ở tính trữ tình và câu văn giàu hình ảnh (khiến dân ta nghèo nàn thiếu
thốn, nước ta xơ xác tiêu điều, chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu). Vẫn cái giọng châm
biếm, đả kích sắc sảo, trí tuệ (thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại trong năm năm,
chúng bán nước ta hai lần cho Nhật).
Bản tuyên ngôn này chỉ khái quát hai loại tội ác về chính trị và kinh tế, đủ nhắc nhở đồng bào tăng cường
cảnh giác và để dùng làm một luận cứ cho lí lẽ của bản Tuyên ngôn: Pháp không có quyền nói đến chuyện
“bảo hộ” Việt Nam.
Hết tội xa đến tội gần.
Bọn thực dân Pháp cũng như mọi kẻ áp bức, lúc còn quyền hành thì hống hách, hung bạo, lúc thất thế thì đê
hèn, mất hết, mất hết liêm sỉ, giẫm lên nhân phẩm để bám lấy chút sống thừa. Quỳ gối đầu hàng Nhật, chúng
gây bao nhiêu tội ác. Đối với nhân dân Việt Nam mà chúng vẫn rêu rao được chúng “bảo hộ”, “khai hóa”,
chúng quàng thêm một ách lên đầu. Kết quả thảm hại, cụ thể mà lịch sử Việt Nam và nhân loại ghi bằng chữ
máu không thể phai mờ với thời gian là hai triệu người đã chết đói “chỉ riêng từ Quảng Trị đến Bắc Kì”.
Đối với Đồng minh là phe của chúng, chúng phản bội, chúng biến Việt Minh là những người đứng về phe
Đồng Minh thành kẻ thù chính, và “thẳng tay khủng bố”.
Nhiều động từ miêu tả được dùng để vẽ lên hình ảnh thảm bại của chúng: quỳ gối đầu hàng, mở cửa rước
Nhật, bỏ chạy…Trong sự việc nêu ở câu cuối của đoạn văn mỗi chữ dùng, mỗi nét phác họa đều có ý nghĩa
(thậm chí, nhẫn tâm, giết nốt số đông tù chính trị…).
Đối lập với cái ti tiện, cái dã man của chúng là lượng hải hà, là những hành động văn minh của nhân dân ta.
Cũng chỉ là những hiện tượng lịch sử. Nhưng đặt vào đây nó có tác dụng như một thủ pháp nghệ thuật làm
nổi bật lên cái khác nhau về bản chất giữa ta và địch, khẳng định thêm về chất nhân đạo của dân ta. Đối với
kẻ tay còn đẫm máu Việt Nam, nhân dân và cách mạng Việt Nam vẫn giúp họ, cứu họ, bảo vệ họ. Ba động
từ biểu hiện ba hình thái tương quan với kẻ thù, ba trạng thái cụ thể của lòng nhân đạo Việt Nam. Giúp là
đối với kẻ còn chủ động, muốn vượt biên giới tránh cái họa của chủ nghĩa phát xít Nhật. Ta thêm cho họ
một cái đẩy tay giúp họ vượt được ranh giới giữa mong muốn và hiện thực. Cứu là đối với những kẻ bất lực,
trong một tình thế nguy nan tuyệt vọng, những kẻ bị giam trong nhà tù Nhật, chỉ chờ ngày tận số…Ta phá
cũi sổ lồng, cứu những con mồi của thần chết. Bảo vệ là đối với những con người đang còn bị đe dọa. Ta
cứu họ rồi lại còn tiếp tục bảo vệ, không chỉ tính mạng mà còn cả tài sản nữa. Cái chu đáo của lòng nhân
đạo Việt Nam là như thế.
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 5 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
Vậy thì giữa những người Việt Nam như thế và những người Pháp như trên, ai bảo hộ ai? Và người Pháp có
quyền gì đối với Việt Nam nữa không?
Việc tính sổ trên đã có thể giải đáp rõ ràng.
Thêm vào đó là một sự thực rành rành: từ tháng 9 - 1940 khi Nhật tràn qua Lạng Sơn vào Việt Nam, Pháp
đã đầu hàng Nhật, đã bán chủ quyền nước ta cho Nhật. Về mặt pháp lý, một vật đã bán cho người khác tất
thuộc quyền sở hữu của người đó. Và ta đã lấy lại vật ta đã mất từ tay Nhật. Như thế là về mọi mặt, dứt
khoát Pháp không còn quan hệ gì với Việt Nam nữa. Bản tuyên ngôn có thể dõng dạc tuyên bố "thoát li hẳn
quan hệ với Pháp".
Những từ, những ý lập lại (Sự thật là mùa thu...Sự thật là dân ta...) những ý phủ định thèm vào song song tạ
các vế để nhấn mạnh (của Nhật, chứ không phải của Pháp) như chồng chất thêm những tầng lớp cản, ngăn
cách dứt khoát mọi thứ bắt mối ảo tưởng về chủ quyền của người Pháp trên đất Việt Nam. Những trạng từ
dùng trong quan hệ với Pháp: thoát li hẳn, xóa bỏ hết, xóa bỏ tất cả, như những nhát gươm sắc chém ngọt
vào sợi dây dợ còn dính díu.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời không phải là một sự thật ngẫu nhiên. Đó là bước phát triển của
chủ nghĩa anh hùng Việt Nam vĩ đại. Chủ nghĩa anh hùng đó đã "đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế
kỷ" bằng vô vàn những cuộc khởi nghĩa quật đổ những ngai vàng mà cuối cùng là của vương triều nhà
Nguyễn mục nát. Bảo Đại buộc phải thoái vị để làm một người nông dân.
Chủ nghĩa anh hùng đó đã "đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay "bằng gươm súng, bằng
máu xương của những Trương Định, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám và của những chiến sỹ vô sản bất
khuất kiên cường.
"Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Một câu trong những câu hiếm của văn chương, cô đúc bao
sự kiện lịch sử.
Cảnh về chiều của các tầng lớp thống trị thật buồn, mà những động tác gợi ra ở những điên viên lịch sử trên
sân khấu Việt Nam thì thật ngoạn mục. Một kẻ chạy thục mạng đâm đầu xuống hố diệt vong. Một kẻ giơ tay
nhận lấy phận đầu hàng. Một kẻ tụt từ trên ngai xuống, hai tay run rẩy nộp ấn, kiếm.
Động từ từ nhanh đến chậm. Nhịp câu văn từ nhanh, chậm lại, rồi ngừng như một chuyến tàu vét lịch sử lao
từ xa tới, chậm lại để ngừng vĩnh viễn.
Ách thực dân, họa phát xít, tệ quân quyền, những rác rưởi ấy bị quét sạch, dọn chỗ đón một quốc gia mới,
một chế độ mới. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam Á ra đời.
Những lẽ phải không ai chống cãi được, những lẽ phải mà Đồng minh đã công nhận trong các văn kiện còn
chưa ráo mực ở hội nghị quốc tế Tê-hê-ran và Cự Kim Sơn, những hành động gan góc mấy năm qua cũng
nhằm mục tiêu như Đồng minh: tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, củng cố cái quyền tồn tại của nước Việt Nam
mới.
Nhưng trên hết và cơ bản nhất là quyết tâm vững như bàn thạch của cả một dân tộc có bốn nghìn năm bất
khuất nói lên qua tiếng nói của vị Chủ tịch đâu tiên của mình: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc
lập".
Ba đoạn cuối của bản tuyên ngôn độc lập là những đoạn văn thép: chất thép của ý chí Hồ Chí Minh, của ý
chí Việt Nam.
Chất thép trong lập luận buộc Đồng minh phải công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam, lấy lời của họ để
ràng buộc họ. "Chúng tôi tin rằng...". Tin có ý nghĩa tu từ. Mềm đấy, mà rắn đấy. Tin là tỏ vẻ tôn trọng họ,
giá định phẩm chất tốt đẹp của họ. Đó là cách buộc họ phải tự trọng, nghĩa là buộc họ không được có sự bất
nhất giữa lời nói và việc làm, "Không thể khong công nhận" quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. "Không
thể không" hai phủ định nghe vẫn chắc chắn hơn một khẳng định.
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 6 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
Chất thép trong câu tiếp ở cái kết luận tất yếu của một thứ tam đoạn luận độc đáo vì có một vế ẩn mà lại rất
rõ. Một dân tộc không chịu khuất phục, đã liên tục chiến đấu chống mọi ách nô lệ Pháp cũng như Nhật, dân
tộc đó phải được độc lập. Phe Đồng minh gồm toàn những nước tự do. Một nước đứng về phe Đồng minh,
cùng lí tưởng, cùng chiến đấu. Nước đó phải được tự do. Dân tộc đó là dân tộc Việt Nam. Vậy dân tộc Việt
Nam phải được độc lập, nước Việt Nam phải được tự do.
Dân tộc, tự do, độc lập. Những từ thiêng liêng đó trở lại cùng với những tính từ gan góc, những trạng ngữ:
80 năm nay, mấy năm nay, những khẳng định: phải được nhưng hùng dũng gõ nhịp trong một điệp khúc của
một bài hùng ca đòi quyền sống.
Chất thép trong đoạn cuối cùng là ở tính chất trịnh trọng của bản tuyên bố về một sự thực, về quyết tâm bảo
vệ bằng bất cứ giá nào sự thực đó. "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập...Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy". Mỗi từ, mỗi từ đều có sức nặng và sau đó những lời thề thiêng liêng thét lên từ cửa miệng của một triệu
người, trên cái âm vang của làn sóng bốn nghìn năm bất khuất càng thêm vững chắc. Bản tuyên ngôn kết
thúc dứt khoát ngoan cường như một lời thách thức. Những kẻ thù của Việt nam mù quáng vì lòng tham,
không đủ khôn ngoan sáng suốt lần lượt lao đầu vào chất thép Việt Nam và sẽ nghiệm thấy thấm thía cái
ghê gớm trong lời cảnh báo của một Hồ Chí Minh, cảu một Việt Nam dân chủ cộng hòa.
E. Cơ sở lập luận trong Tuyên ngôn Độc lập (TRẦN VĂN SÁNG - Tạp chí Sông Hương)
Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập
luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu
mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.
Dù viết trong hoàn cảnh nào, và bằng thứ tiếng nào, văn chính luận Việt nói chung, văn chính luận Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói riêng, luôn luôn dựa hẳn trên hai nguyên lí: nguyên lí nhân đạo chủ nghĩa và triết lí ái
quốc chủ nghĩa. Trong cách trình bày, người viết thiên về sự khẳng định chân lý theo sát với hai nguyên lí
trên. Sự khẳng định thường được trình bày hết sức rạch ròi giữa cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu, cái cao
thượng và cái thấp hèn, điều chính nghĩa và điều phi nghĩa. Những sự khẳng định có tính chất đối lập này
được thể hiện một cách nhuần nhuyễn, sắc sảo trong văn bản “Tuyên ngôn Độc lập”.
Tìm hiểu cách lập luận trong văn bản “Tuyên ngôn Độc lập”, chúng ta có thể nhận ra: Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vận dụng tất cả những luận cứ sắc sảo nhất, đắt nhất cho cách lập luận của mình, được thể hiện
trong từng từ, từng câu, từng đoạn và toàn bộ văn bản.
Lập luận thể hiện ở cấp độ toàn văn bản
Chúng ta đều biết, bản “Tuyên ngôn Độc lập” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “bằng văn xuôi hiện đại
tiếng Việt, thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận, một loại văn mang tính chính thức xã hội ở cấp Nhà
nước - quốc gia, hoặc liên Nhà nước - liên quốc gia,.... để nói rõ trước công chúng (trong và ngoài nước) về
chính kiến của mình trước những sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại”. [Nguyễn Nguyên Trứ - Học tập cách
viết của Hồ Chủ Tịch, Nxb Giáo dục 1999, tr159].
Đọc toàn văn bản “Tuyên ngôn Độc lập”, chúng ta nhận thấy phương pháp lập luận được Bác sử dụng trước
hết, và quan trọng nhất, là lập luận bằng phương thức so sánh, so sánh tương đồng và so sánh tương phản
những luận cứ, luận điểm trực tiếp liên quan đến vấn đề muốn nói.
Trong bản “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Đó là một kết luận quan trọng được rút
ra từ những luận cứ (lí lẽ) có tính lịch sử xác thực:
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 7 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
Luận cứ 1: Bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mĩ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo
hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Luận cứ 2: Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789: “Người ta sinh ra tự
do và bình đẳng và quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Ở đây, xét về mục đích soạn thảo văn bản, bố cục là hình thức nhưng cũng là nội dung; và trong bố cục của
một loại hình văn bản nào thì sự mở đầu lúc nào cũng quan trọng, cũng là kết quả của những sự cân nhắc
thuộc chiến lược ngôn hành. Mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập”, ngay trong đoạn mở đầu, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trích dẫn ngay hai nội dung quan trọng trong hai bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp làm luận cứ cho
kết luận của mình. Có thể nói rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp lập luận “gậy ông đập lưng
ông” vào ngòi bút của mình một cách sắc sảo và hiệu quả. Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối
thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng lí lẽ của chính đối thủ ấy. Sự bác bỏ lí lẽ của bọn xâm
lược trước dư luận thế giới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trường hợp như thế. Quan hệ giữa đoạn mở đầu với
đoạn tiếp theo trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Bác là quan hệ ngữ nghĩa đối lập: đối lập nội dung, đối
lập chữ nghĩa, đối lập về thái độ. Tất cả đã được diễn đạt trang trọng, chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn và xúc
động. Điều này được thể hiện:
Thứ nhất, đi từ một chân lý đã biết, đã được công nhận, suy ra một chân lý tương tự, có chung logic bên
trong, đó là cách lập luận so sánh tương đồng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng khi đem so sánh lời trích
trong bản “Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mĩ”, để đi đến kết luận: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tự do”. Cái “suy rộng ra” của Bác là cái được lấy từ chính cái luận cứ và lí lẽ: “Lời bất hủ ở trong bản Tuyên
ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ”, nhưng đó lại là “sự bổ sung rất trí tuệ của Bác: với cuộc đời của dân
tộc mình và cuộc đời của biết bao dân tộc bị đoạ đày khác, Bác đã đưa ra một sự bổ sung vĩ đại, góp phần
xoá bỏ một vết nhơ nhục nhã trong lịch sử loài người” [Nguyễn Nguyên Trứ, 1999; tr.160]. Ý kiến “suy
rộng ra” ấy quả là “một đóng góp đầy ý nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới” [Nguyễn Đăng Mạnh - Tuyển tập văn học, Nxb. ĐHQGHN, 2006; tr.459].
Thứ hai, đối chiếu mặt trái ngược để làm nổi bật điều mình muốn hướng tới là phương pháp lập luận so sánh
tương phản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng khi đối chiếu nội dung đoạn trích “Bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789” cho kết luận hết sức thuyết phục: “Thế mà hơn 80
năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta.
Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Cơ sở lập luận của kết luận trên được xây dựng
bằng lí lẽ: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Rõ ràng, xét một cách hiển ngôn, tác giả “Tuyên ngôn Độc lập” đã đánh giá lời trích dẫn Tuyên ngôn của
nước Mĩ là “bất hủ” (nghĩa là không khi nào cũ, không bao giờ mất), và lời trích dẫn Tuyên ngôn của nước
Pháp “là những lẽ phải không ai chối cãi được” thể hiện rõ hành động chính trị, nhằm trả lời một đối một
đối với những lí lẽ của những người chống đối hoặc phòng xa nguy cơ chống đối. Có thể nhận thấy, một
mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao tư tưởng chính trị chứa đựng trong những lời trích dẫn ấy được ghi bằng
chữ vàng trong lịch sử không chỉ của nước Mĩ, nước Pháp mà cả toàn nhân loại; mặt khác Người lên án việc
xâm phạm, áp bức các dân tộc, chà đạp nhân quyền là phi pháp lí và đạo lí, là phi văn hóa. Ở đây, chúng ta
bắt gặp một cách nói, cách viết vừa khéo léo, vừa kiên quyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khéo léo vì nó tỏ
ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ; kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có
phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước
Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.
Hệ thống luận cứ, luận chứng và cơ sở lập luận của “Tuyên ngôn Độc lập”:
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 8 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
Tuyên ngôn Độc lập
Chúng ta đều biết, văn chính luận thuyết phục người ta bằng lí lẽ, nếu đánh địch thì cũng đánh địch bằng lí
lẽ. Lợi thế của nó là những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi
được. Do vậy, trong văn chính luận, nếu có dùng đến hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ
để phụ giúp thêm cho sự thuyết phục bằng lí lẽ mà thôi. Điều này định hướng đúng đắn cho người nghe,
người đọc khi tiếp nhận văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” để chỉ ra cái hay, cái tài của tác giả. Cách dùng từ
ngữ (luận chứng), cách sắp xếp luận cứ (lí lẽ) và mục đích, thái độ, tình cảm của người viết chính là những
cơ sở của những lập luận sắc sảo trong bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Khi tác giả soạn thảo bản “Tuyên ngôn
Độc lập” đã hội tụ đầy đủ 4 yếu tố bắt buộc của màn thuyết phục theo lý thuyết văn bản đã nêu ở trên:
a) Cơ hội (thời cơ nói): Khi Bác Hồ đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” thì ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau
quân đội Anh (thay mặt quân Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật) đang tiến vào Đông Dương, còn ở
phía Bắc thì bọn Tù Tưởng, tay sai của đế quốc Mĩ, đã trực sẵn ở biên giới. Đây là thời điểm lịch sử quan
trọng để Bác Hồ viết cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới nhằm khẳng định nền Độc lập của nước
nhà.
b) Lí lẽ (các luận cứ): Để khẳng định quyền Độc lập dân tộc của nước nhà, và lên án tội ác của quân xâm
lược, bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã dùng đến rất nhiều luận cứ, luận chứng (các lí lẽ) hết sức thuyết phục:
- Nội dung Bản “Tuyên ngôn Độc lập” 1776 của Mĩ... là bất hủ.
- Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789. “Đó là những lẽ phải không ai
chối cãi được”.
- “Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
- “Chúng thi hành những luật pháp dã man,...”.
- “Chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học,...”.
- “... trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật...”.
- “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp” v.v..
c) Tính biểu cảm của ngôn ngữ: Bác Hồ viết “Tuyên ngôn Độc lập” với giọng văn chính luận hào hùng, lập
luận sắc sảo, chặt chẽ, ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc. Điều này được thể hiện rõ
trong văn bản qua: giọng điệu vừa khéo léo vừa kiên quyết, lựa chọn từ ngữ chính xác, ngắn gọn, súc tích
nhưng hiệu quả. Khi nói về mình thì: “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng”, “Dân ta đã đánh đổ
các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”, “Một dân tộc đã
gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay...”. Khi nói về địch thì: 13 lần sử dụng từ chúng
với những hành động được miêu tả khác nhau (chúng thi hành... dã man, chúng thẳng tay chém giết, chúng
tắm các cuộc khởi nghĩa, chúng ràng buộc, chúng cướp, chúng bóc lột, chúng nhẫn tâm,...); còn khi trình
bày những bằng chứng hiển nhiên, ngoài nội dung miêu tả là những kết tử, tác tử lập luận được sử dụng hết
sức chặt chẽ: “thế mà”, “thậm chí”, “tuy vậy”, “bởi thế cho nên”, “vì những lẽ trên”, “suy rộng ra”; đặc biệt,
Người đã sử dụng lặp đi lặp lại đến hai lần hai chữ “sự thật là...”, “sự thật là...” như một điệp khúc của bản
cáo trạng, lời văn khẳng định đầy rắn rỏi và đanh thép.
d) Thái độ người nghe: Bác Hồ đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” cho ai nghe? Rõ ràng, Bác đọc “Tuyên ngôn
Độc lập” cho toàn thể đồng bào cả nước và nhân dân thế giới. Điều này ai cũng biết. Nhưng vấn đề nằm ở
chỗ, Người viết không chỉ cho đồng bào và thế giới chung chung, vì như thế không cần nhiều đến những lời
lẽ lập luận chặt chẽ, đanh thép đến vậy. Ở đây, người nghe là kẻ thù xâm lược Pháp và Mĩ mới là đối tượng
Bác hướng tới. Từ đó ta mới hiểu, trong màn thuyết phục này, dù “Tuyên ngôn Độc lập” đã dùng đầy đủ lí
lẽ nhưng người nghe vẫn có thái độ cố chấp, không đủ trí tuệ để nhận thức đúng, đầy đủ những nội dung,
giá trị trong lòng người nói. Thế mới biết “sự cố chấp”, “ngang tàng” và “bạo ngược” của bọn đế quốc và
thực dân xâm lăng! Quân xâm lược đã lắng nghe với một thái độ chống đối. Người viết bản “Tuyên ngôn
Độc lập” cũng thừa hiểu rằng “mâu thuẫn giữa Anh-Mĩ-Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mĩ nhân
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 9 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
Tuyên ngôn Độc lập
Khóa học Luyện thi THPT quốc gia PEN - C: Môn Ngữ văn (Thầy Phạm Hữu Cường)
nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương” (Nhận định của Hội nghị toàn quốc của Đảng họp
ngày 15-8-1945). Và đúng như dự định, sau “Tuyên ngôn Độc lập” chỉ có 21 ngày, núp dưới bóng quân
Anh, thực dân Pháp đã nổ súng và Nam Bộ kháng chiến bắt đầu. Một lần nữa khẳng định, Hồ Chủ tịch luôn
là người lãnh đạo “biết người biết mình trăm trận trăm thắng” trong mọi quyết sách của dân tộc.
Có thể nói, từ góc nhìn lí thuyết lập luận, chúng ta có thể nhận thấy một cách hiển ngôn hơn về nghệ thuật
hùng biện, triết luận sâu sắc, hùng hồn và đanh thép trong từng câu văn của bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Tài
nghệ ở đây là dàn dựng được cơ sở lập luận chặt chẽ, đưa ra những luận cứ, luận chứng, lí lẽ, bằng chứng
không ai chối cãi được. Và đằng sau “những lời lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hoá lớn đã tổng kết được
trong một bản Tuyên ngôn ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết, kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc
lập tự do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc và của nhân loại” [Nguyễn Đăng Mạnh: 2006, tr.460]. Quả
thật, bên trong tiếng nói của trí tuệ là tiếng nói của trái tim. Trong cơn bão khốc liệt của chủ nghĩa bạo lực,
chủ nghĩa khủng bố đang diễn ra trong thời đại ngày nay, những lời suy rộng của “Tuyên ngôn Độc lập”
đang vang lên như những tiếng chuông cảnh tỉnh: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do
(Nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)
G. SÁCH NÊN ĐỌC:
1. Hồ Chí Minh – Nhật kí trong tù – NXB Chính trị Quốc gia, H.2003
2. Hồ Chí Minh - Tác giả, tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ - NXB Giáp dục, Hà Nội, 1997
3. Nhiều tác giả - Nhật kí trong tù và những lời bình – NXB Văn hóa thông tin, H. 1997
4. Nhiều tác giả - Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh - NXB Khoa học xã hội , Hà Nội , 1979
5. Huỳnh Lí (biên soạn) - Văn thơ Hồ Chủ tịch, - NXB Giáo dục, H.1971.
6. Tọa đàm về Nhật kí trong tù, Tạp chí Văn học số 95 (ngày 26 - 5 - 1960).
7. Hoàng Trung Thông - Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác – Báo Văn nghệ số 35, năm 1976.
8. Nguyễn Đăng Mạnh – Tuyển tập, Tập II – NXB Giáo dục, H. 2006
9. Nguyễn Đăng Mạnh – Mấy vấn đề về phương pháp tìm hiểu, phân tích thơ Hồ Chí Minh – NXB Giáo
dục, H. 2003
10. Nhiều tác giả - Nhật kí trong tù – NXB Văn hóa thông tin, H. 2002
11. Nhiều tác giả - Một số bài giảng thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh – NXB Giáo dục, H. 1984
Giáo viên: Phạm Hữu Cường
Nguồn
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
:
Hocmai.vn
- Trang | 10 -
Hocmai.vn – Website học trực tuyến số 1 tại Việt Nam
5 LỢI ÍCH CỦA HỌC TRỰC TUYẾN
Ngồi học tại nhà với giáo viên nổi tiếng.
Chủ động lựa chọn chương trình học phù hợp với mục tiêu và năng lực.
Học mọi lúc, mọi nơi.
Tiết kiệm thời gian đi lại.
Chi phí chỉ bằng 20% so với học trực tiếp tại các trung tâm.
4 LÍ DO NÊN HỌC TẠI HOCMAI.VN
Chương trình học được xây dựng bởi các chuyên gia giáo dục uy tín nhất.
Đội ngũ giáo viên hàng đầu Việt Nam.
Thành tích ấn tượng nhất: đã có hơn 300 thủ khoa, á khoa và hơn 10.000 tân sinh viên.
Cam kết tư vấn học tập trong suốt quá trình học.
CÁC CHƯƠNG TRÌNH HỌC CÓ THỂ HỮU ÍCH CHO BẠN
Là các khoá học trang bị toàn
bộ kiến thức cơ bản theo
chương trình sách giáo khoa
(lớp 10, 11, 12). Tập trung
vào một số kiến thức trọng
tâm của kì thi THPT quốc gia.
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
Là các khóa học trang bị toàn
diện kiến thức theo cấu trúc của
kì thi THPT quốc gia. Phù hợp
với học sinh cần ôn luyện bài
bản.
Là các khóa học tập trung vào
rèn phương pháp, luyện kỹ
năng trước kì thi THPT quốc
gia cho các học sinh đã trải
qua quá trình ôn luyện tổng
thể.
Là nhóm các khóa học tổng
ôn nhằm tối ưu điểm số dựa
trên học lực tại thời điểm
trước kì thi THPT quốc gia
1, 2 tháng.
-