Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

CHUYEN DE LY PP BAN TAY NAN BOT TRONG VẬT LÝ THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.44 KB, 12 trang )

Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015

ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT TRONG MỘT SỐ BÀI
HỌC VẬT LÝ CÓ THÍ NGHIỆM PHÁT HIỆN KIẾN THỨC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết, mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở
trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo
“Phương pháp dạy học tích cực”, với các kĩ thuật dạy, học tích cực nhằm giúp học
sinh phát huy huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen
và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình
huống khác nhau trong học tập và thực tiễn tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong
học tập. Làm cho học là quá trình kiến tạo, học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện,
luyện tập, khai thác và xử lí thông tin, tự hình thành tri thức, có năng lực và phẩm
chất của con người mới tự tin, năng động, sáng tạo trong cuộc sống.
“Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho việc
giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên, trong đó có môn vật lý.
Thật vậy phương pháp BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho
HS bằng các thí nghiệm hiểu biết tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu
trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm,
quan sát, nghiên cứu tài liệu...Với một vấn đề khoa học đặt ra, HS có thể đặt ra
các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm
nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận,
so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. Cũng như các phương pháp dạy học tích
cực khác phương pháp BTNB luôn coi HS là trung tâm của quá trình nhận thức,
chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của
GV. Mục tiêu của phương pháp BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám
phá, yêu và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa
học, phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt
thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS. Phương pháp BTNB cho thấy cách thức


học tập của học sinh là tò mò tự nhiên, giúp các em có thể tiếp cận thế giới xung
quanh mình qua việc tham gia các hoạt động nghiên cứu tìm tòi. Các hoạt động
nghiên cứu tìm tòi gợi ý cho học sinh tìm kiếm để rút ra các kiến thức cho riêng
mình, qua sự tương tác với các học sinh khác cùng lớp để tìm phương án giải
thích các hiện tượng.
II. TIẾN TRÌNH CHUNG CỦA PP BTNB
Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp BTNB là một vấn
đề cốt lõi, quan trọng. Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (câu hỏi lớn
của bài học); nêu các giả thuyết, các nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến
hành các thí nghiệm nghiên cứu; đối chiếu các nhận định (giả thuyết đặt ra ban
đầu); đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác; rút ra kết luận
và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá trình này, học sinh luôn luôn
phải động não, trao đổi với các học sinh khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động
tích cực để tìm ra kiến thức.
Căn cứ vào các cơ sở trên, ta có thể làm rõ tiến trình sư phạm của phương
pháp dạy học BTNB theo 5 bước cụ thể sau đây:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.

GV thực hiện: Phạm Xuyên

1

Trường THCS Quang Trung


Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015

Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo

viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát
phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm lồng
ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho
câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. Tuy nhiên có những trường hợp không nhất thiết phải
có tình huống xuất phát mới đề xuất được câu hỏi nêu vấn đề (tùy vào từng kiến
thức và từng trường hợp cụ thể).
Bước 2: Nêu ý kiến ban đầu của học sinh.
Làm bộc lộ quan niệm ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi của học sinh
là pha quan trọng, đặc trưng của phương pháp BTNB. Trong bước này, giáo viên
khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi
được học kiến thức mới. Để làm bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh, giáo viên
có thể yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức
mới của bài học. Khi yêu cầu học sinh trình bày quan niệm ban đầu, giáo viên có
thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của học sinh như có thể là bằng lời nói
(thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm.
Từ những khác biệt và phong phú về quan niệm ban đầu của học sinh, giáo
viên giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào
những quan niệm liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học (hay mô đun kiến
thức).
Ở bước này, giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số quan niệm ban đầu khác
biệt trong lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan
đến nội dung bài học.
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu.
Từ các phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu mà học sinh nêu ra, giáo
viên khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy học
thích hợp để học sinh tiến hành nghiên cứu.
Khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm
hoặc yêu cầu học sinh cho biết mục đích của thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau
đó giáo viên mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt

động. Nếu để sẵn các vật dụng thí nghiệm trên bàn học sinh sẽ nghịch các đồ vật
mà không chú ý đến các đồ vật khác trong lớp; hoặc học sinh tự ý thực hiện thí
nghiệm trước khi lệnh thực hiện của giáo viên được ban ra; hoặc học sinh sẽ dựa
vào đó để đoán các thí nghiệm cần phải làm (trường hợp này mặc dù học sinh có
thể đề xuất thí nghiệm đúng nhưng ý đồ dạy học của giáo viên không đạt).
Giáo viên lưu ý học sinh ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hiện
thí nghiệm (mô tả bằng lời hay vẽ sơ đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm,
kết luận sau thí nghiệm vào vở thực hành. Phần ghi chép này giáo viên để học
sinh ghi chép tự do, không nên gò bó và có khuôn mẫu quy định, nhất là đối với
những lớp mới làm quen với phương pháp BTNB.
Khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên bao quát lớp, quan sát từng nhóm.
Nếu thấy nhóm hoặc học sinh nào làm sai theo yêu cầu thì giáo viên chỉ nhắc nhỏ
trong nhóm đó hoặc với riêng học sinh đó, không nên thông báo lớn tiếng chung
cho cả lớp vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng đến công việc của
các nhóm học sinh khác.
GV thực hiện: Phạm Xuyên

2

Trường THCS Quang Trung


Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015

Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức.
Sau khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần
được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy
nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học.

Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở
coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, giáo viên nên yêu cầu
một vài ý kiến của học sinh cho kết luận sau khi thực nghiệm (rút ra kiến thức của
bài học). Giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho học sinh nhìn lại,
đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (quan niệm ban đầu) trước khi học kiến thức.
Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu, chính học sinh tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do giáo
viên nhận xét một cách áp đặt. Chính học sinh tự phát hiện những sai lệch trong
nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp
học sinh ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
Như vậy, vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc định hướng, gợi ý,
giúp đỡ các em tự khám phá, tự đặt ra các câu hỏi để học sinh hiểu rõ được câu
hỏi và vấn đề cần giải quyết của bài học, từ đó đề xuất các phương án thực
nghiệm hợp lí.
III. Công việc của GV và HS.
1. Đối với giáo viên và học sinh
a) Đối với giáo viên
Trên thực tế, phương pháp “Bàn tay nặn bột” không hoàn toàn là mới đối với
các giáo viên. Về cơ bản, đây là phương pháp tổng hợp của các phương pháp dạy
học trước đây mà giáo viên đã từng tiếp xúc như: phương pháp giảng dạy giải
quyết vấn đề, phương pháp dạy học tích cực khác... Trong phương pháp này, yêu
cầu đặt ra đối với giáo viên là:
- Tạo tình huống để học sinh phát hiện ra vấn đề trong bài học, từ đó để các
em tự đưa ra các tình huống giải quyết vấn đề để đi đến kết quả, giúp tạo lập cho
học sinh thói quen làm việc như các nhà khoa học và niềm say mê sáng tạo phát
hiện, giải quyết vấn đề. Mục tiêu này rất quan trọng bởi trong cuộc sống các em
gặp phải rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
- Giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài bài dạy. Gắn kết chặt chẽ nội dung bài
dạy với những vấn đề thiết thực, gần gũi trong cuộc sống hàng ngày và thực tế địa
phương.
- Chuẩn bị bài chu đáo, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp, lô-gic, trọng

tâm, có kiến thức thực tế, sâu rộng và các giải pháp liên hệ thực tế.
- Giáo viên nêu vấn đề hay câu hỏi xuất phát phù hợp là câu hỏi tương thích
với trình độ nhận thức của học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức cho học sinh, kích
thích nhu cầu tìm tòi - nghiên cứu của học sinh.
- Giáo viên cần bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình và đối
chiếu với hướng dẫn thực hiện giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông
tin để phục vụ cho bài dạy nhằm lôi cuốn, hấp dẫn, học sinh dễ hiểu, dễ vận dụng.
- Sáng tạo, linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động lên lớp, phù hợp với
với nội dung bài dạy, kiểu bài dạy, phù hợp với đặc thù bộ môn, tâm lí lứa tuổi
học sinh.
GV thực hiện: Phạm Xuyên

3

Trường THCS Quang Trung


Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015

- Giáo viên phải là người hướng dẫn cho học sinh kĩ năng tự mình phát hiện
và giải quyết vấn đề.
- Tác phong cử chỉ, lời nói phù hợp, truyền cảm, thân thiện, khơi gợi sự hứng
thú, chủ động tìm tòi, khám phá học tập của học sinh, động viên khuyến khích học
sinh tự tin trong học tập, tạo cho học sinh sự say mê hứng thú đối với môn học.
Như vậy, vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc định hướng, gợi ý,
giúp đỡ các em tự khám phá, tự đặt ra các câu hỏi để học sinh hiểu rõ được câu
hỏi và vấn đề cần giải quyết của bài học, từ đó đề xuất các phương án thực

nghiệm hợp lí.
b) Đối với học sinh
- Phải hiểu rõ câu hỏi hay vấn đề đặt ra cần giải quyết trong bài học.
- Bắt buộc học sinh phải tham gia vào bước hình thành các câu hỏi. Có nghĩa
là học sinh cần phải có thời gian để khám phá chủ đề của bài học, thảo luận các
vấn đề và các câu hỏi đặt ra để từ đó có thể suy nghĩ về những gì cần được nghiên
cứu, phương án thực hiện việc nghiên cứu đó như thế nào?
- Học sinh cần phải có nhiều kĩ năng như: kĩ năng đặt câu hỏi, đề xuất các
dự đoán, giả thiết, phương án thí nghiệm, phân tích dữ liệu, giải thích và bảo vệ
các kết luận của mình thông qua trình bày nói hoặc viết… Một trong các kĩ năng
quan trọng đó là học sinh phải biết xác định và quan sát một sự vật, hiện tượng
nghiên cứu. Học sinh còn cần phải biết lập luận, trao đổi với các học sinh khác,
biết viết cho mình và cho người khác hiểu.
- Học sinh cần thiết phải tự thực hiện các thí nghiệm của mình phù hợp với
vấn đề đặt ra dưới sự giúp đỡ của GV.
- Được khuyến khích đề xuất ý kiến và cùng các thầy cô giáo thực hiện các
giải pháp để việc dạy học có hiệu quả ngày càng cao.
- Rèn luyện kĩ năng hoạt động nhóm, có tinh thần hợp tác với thầy cô, bạn
bè.
- Tập trung suy nghĩ, chủ động thoát li sách giáo khoa để trả lời câu hỏi của
GV.
- Khi giáo viên tổ chức tình huống, nảy sinh vấn đề cần tìm tòi giải quyết.
Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, vấn đề được diễn đạt chính xác hóa, phù hợp với
mục tiêu dạy học và các nội dung cụ thể đã xác định.
2. Ví dụ về áp dụng “Phương pháp bàn tay nặn bột” trong một số bài học.
Bài 1: ĐO THỂ TÍCH CỦA MỘT VẬT RẮN KHÔNG THẤM NƯỚC
(Vật lí lớp 6 - 1 tiết)
I. Mục tiêu bài học
Kiến thức: Củng cố kiến thức về thể tích, đơn vị đo thể tích.
Kĩ năng: Xác định được thể tích của vật rắn không thấm nước bằng bình

chia độ, bình tràn.
II. Thiết bị dạy học
- Với mỗi nhóm học sinh: 1 hộp đất nặn gồm nhiều thanh hình hộp chữ
nhật, 1 bình chia độ, 1 bình to (bình tràn), 1 thước đo độ dài, 1 bình đựng nước
lớn, 1 bình nhỏ, kẹp để gắp vật, 1 vật rắn không thấm nước A có kích thước nhỏ
có thể bỏ lọt bình chia độ (bu-lông), một vật rắn không thấm nước B có kích
thước lớn không cho vừa bình chia độ nhưng có thể bỏ lọt bình to, xô đựng nước
(lọ hoa).
GV thực hiện: Phạm Xuyên

4

Trường THCS Quang Trung


Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015

- Bảng phụ học nhóm, phấn...
III. Tiến trình hoạt động dạy học
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Bước 1. Tình huống xuất phát - câu hỏi nêu vấn đề
Cho học sinh quan sát 2 vật rắn và
Làm việc chung cả lớp
nêu câu hỏi: "Cần bao nhiêu viên Theo dõi, tiếp nhận tình huống.
đất nặn để nặn được vật A? Vật B?" Thảo luận chung, đi tới vấn đề cần
Tổ chức thảo luận chung, dẫn đến giải quyết.
vấn đề cần xác định bằng thực

nghiệm thể tích của các đồ vật và
của từng khối đất nặn nhằm so sánh
các thể tích.
Bước 2. Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh
Yêu cầu HS viết vào vở thực
Làm việc cá nhân: đề xuất phương
nghiệm các phương án, có kèm án, viết vào vở thí nghiệm.
theo sơ đồ, chỉ rõ các bước để có
Làm việc theo nhóm: tranh luận để
thể giải quyết vấn đề đặt ra.
đi tới thống nhất một hoặc vài
Tổ chức thảo luận nhóm, thống phương án chính. Ghi vào bảng phụ
nhất phương án.
hoặc giấy khổ lớn.
Quan sát, chọn một vài nhóm lên Một số phương án xác định thể tích
trình bày phương án.
thường được đề xuất:
- Dùng thước đo các kích thước và
tính toán
- Thả vật vào bình chia độ chứa
nước, thể tích vật bằng thể tích
nước tăng thêm.
- Thả vật vào bình đầy, nước tràn
ra, thể tích vật bằng thể tích nước
tràn ra.
- Thả vật vào bình chia độ rỗng:
thể tích vật bằng số đo của vạch
cao nhất.
- Thả vật vào bình chia độ rỗng,
thể tích vật bằng khoảng 1/2, 1/3...

số đo của vạch.
- Đo thể tích một viên đât nặn, đại
đa số sẽ đề nghị tính toán thông
qua kích thước.
- Một số nhóm có thể thực hiện
thông qua việc so sánh thể tích
chất lỏng tăng thêm mà không
xác định rõ số đo thể tích của vật
và của từng viên đất nặn.
Bước 3. Đề xuất giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm
Điều khiển lớp thảo luận nhanh các Làm việc chung: Một vài nhóm
phương án. Ghi bảng các phương án trình bày. Thảo luận, phân tích các
GV thực hiện: Phạm Xuyên

5

Trường THCS Quang Trung


Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015

chính. Lưu ý, trong giai đoạn này phương án.
chưa cần nói rõ các phương án - Dùng thước đo các kích thước và
đúng, chỉ cần loại bỏ các phương án tính toán khó thực hiện với vật có
không thể thực hiện vì không có hình dạng phức tạp.
dụng cụ và những phương án mà - Thả vật vào bình chia độ chứa
lớp thống nhất là sai. Các nhóm vẫn nước là các phương án khả thi.
có thể bảo lưu ý kiến của mình. - Thả vật vào bình chia độ rỗng

Những phương án chưa thống nhất không khả thi.
cần được đánh dấu lưu ý.
Bước 4. Tiến hành thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
- Phát các dụng cụ thực hành cho Làm việc theo nhóm
các nhóm.
- Nhận dụng cụ. Tiến hành thực
- Cho các nhóm thực hiện từ một nghiệm, đo đạc theo phương án đã
đến hai phương án tùy thuộc lớp. thống nhất trong nhóm và phương
Giáo viên có thể điều chỉnh, phân án được giao.
công các nhóm theo nguyên tắc: - Lập báo cáo của nhóm trên bảng
đảm bảo 3 phương án đúng được phụ hoặc giấy khổ to...
thực hiện, các phương án sai ưu tiên
giao cho chính những nhóm đề xuất
nó.
- Quan sát, giúp đỡ các nhóm thực
hiện thí nghiệm.
Bước 5. Kết luận và hợp thức hóa kiến thức
- Treo hoặc chiếu kết quả của các Làm việc chung cả lớp
nhóm, yêu cầu HS nhận xét để - Theo dõi trình bày và kết quả của
thấy được những kết quả có khả
các nhóm. Thảo luận, phân tích
năng mắc sai lầm nhiều, tương ứng
sâu các kết quả và các phương án
với các phương án sai.
đã thực hiện.
- Tổ chức thảo luận chung, phân - Thống nhất các phương án hợp lí
tích các phương án, chỉ rõ những
nhất. Ghi lại vào vở
điểm hợp lí hoặc không hợp lí, đi
tới thống nhất 3 phương án thường

được sử dụng:
+ đo thể tích vật rắn không thấm
nước bằng cách đo độ tăng thể tích
của chất lỏng khi nhúng vật vào
bình chia độ.
+ đo thể tích của vật rắn không
thấm nước bằng cách đo thể tích
nước tràn ra khỏi bình (trường hợp
kích thước của vật lớn, không thể
đưa vào bình chia độ.
+ đo thể tích của vật rắn không
thấm nước nhờ tính toán trong
trường hợp vật có hình dạng hình
học đặc biệt. (Thông qua vấn đáp,
GV thực hiện: Phạm Xuyên

6

Trường THCS Quang Trung


Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015

GV hệ thống lại các công thức tính
thể tích của các vật có hình dạng
đặc biệt)
- Ghi chép các phương án đúng
trên bảng hoặc chiếu slide tóm tắt.

Vận dụng kiến thức
- Nếu có thời gian, yêu cầu tất cả
các nhóm tiến hành lại đo đạc theo 3
phương án đúng.
- Yêu cầu HS đo thể tích của một
vật nào đó sẵn có trong lớp, VD chìa
khóa, cục tẩy, nắp bút...

Làm việc theo nhóm:
Vận dụng đo bằng thực nghiệm
thể tích của một vật.

Bài 2: SỰ NỞ VÌ NHIỆT CỦA CHẤT KHÍ
I. Mục tiêu bài học
Kiến thức:
- Mô tả được hiện tượng nở vì nhiệt của các chất khí.
- Nhận biết được các chất khí khác nhau nở vì nhiệt giống nhau
- Nhận biết được các chất khác nhau nở vì nhiệt khác nhau
Kĩ năng: Vận dụng kiến thức về sự nở vì nhiệt của chất khí để giải thích được một
số hiện tượng và ứng dụng thực tế.
2. Thiết bị dạy học
Phích nước nóng; chậu; nước lạnh, các bình cầu và ống thủy tinh; các
loại “nút”: bóng cao su, chun vòng.
3. Tiến trình hoạt động dạy học
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
HĐ1: Ôn lại kiến thức liên quan
- Tái hiện lại kiến thức.
- Đặt câu hỏi cho cả lớp:
Tự trả lời câu hỏi, nghe bạn

+ Khi nóng lên thể tích của chất rắn, chất
trả lời
lỏng thay đổi như thế nào?
+ Các chất rắn, chất lỏng khác nhau
nở vì nhiệt có giống nhau không?
- Gọi 1 HS trả lời.
HĐ 2. Chứng minh chất khí dãn nở
vì nhiệt
Bước 1: Tình huống xuất phát
- Đặt vấn đề: Chất lỏng và rắn nở ra khi
- Suy nghĩ, trả lời câu hỏi
nóng lên. Chất khí thì sao?
- Hỏi ý kiến của một vài HS. Đa số sẽ cho là
- Tiếp nhận nhiệm vụ
chất khí cũng nở ra.
- Giao nhiệm vụ: Hãy đề ra phương án
thí nghiệm kiểm tra xem không khí trong
một bình có nở ra hay không khi nóng lên.
Bước 2: Đề xuất phương án thí nghiệm
- Chia nhóm, giao nhiệm vụ, yêu cầu HS
- Làm việc theo nhóm,
tự đề xuất một số phương án thí nghiệm
nghiên cứu đề xuất phương
GV thực hiện: Phạm Xuyên

7

Trường THCS Quang Trung



Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015

và dự đoán kết quả, ghi báo cáo trên giấy.
- GV qua các nhóm, xem các phương án,
chọn một số nhóm trình bày tóm tắt phương
án của mình hoặc GV tóm tắt nhanh các
phương án do các nhóm đề nghị.
Lưu ý: + Lúc này chưa nên phân tích các
phương án, không loại bỏ các phương án sai,
chỉ cần loại bỏ các phương án không thể thực
hiện vì không có dụng cụ.
+ Kinh nghiệm dạy học cho thấy: Do ảnh
hưởng của thí nghiệm về sự nở vì nhiệt của
chất lỏng, một số HS sẽ đề nghị phương án
tương tự, dùng ống thủy tinh cắm qua nút
nhưng không biết cần phải “nhốt” một lượng
khí trong ống và tìm cách hiển thị được thể
tích khí. Các phương án có thể sử dụng :
- Dùng giọt nước màu trong ống thẳng đứng
như SGK.
- Dùng giọt nước màu trong đoạn ống nằm
ngang của ống chữ L.
- Buộc bóng vào miệng bình khí.
Để làm nóng khí trong bình, đại đa số sẽ
nghĩ đến việc sử dụng chậu nước nóng.
Bước 3: Tiến hành thí nghiệm
- Giới thiệu các dụng cụ chuẩn bị sẵn, cho
các nhóm lên chọn dụng cụ tùy theo phương

án của mình.
- Cho các nhóm tự tiến hành thí nghiệm theo
phương án của nhóm mình.
- Nêu rõ sau khi đã thực hiện xong, các
nhóm có thể thay đổi phương án cho phù hợp
với các dụng cụ sẵn có.
- GV quan sát các thí nghiệm của các nhóm
xem xét các giải pháp mà HS đưa ra thêm so
với đề xuất lúc trước.
- Chọn 1 phương án sai và một vài phương
án đúng, cho trình bày kết hợp với thực hiện
ngay thí nghiệm.
- Tổ chức thảo luận, phân tích các phương
án, làm rõ sự cần thiết phải có biện pháp để
có thể “nhìn thấy thể tích chất khí”
hoặc “nhìn thấy sự tăng thể tích” tức là tạo ra
dấu hiệu chỉ thị thể tích của khí. Từ đó
xác định những phương án đúng.
Trong tình huống HS không đề xuất được
phương
án
nào
hợp
lí,
GV
GV thực hiện: Phạm Xuyên

8

án thí nghiệm.


- Làm việc theo nhóm: thực
hiện
thí nghiệm
theo
phương án của nhóm mình.
Nếu
phương
án
thí nghiệm không thể thực
hiện được, tiến hành điều
chỉnh phương án.

- Đại diện nhóm trình bày.
- Nghe, thảo luận, phân tích
các phương án.
- Tìm cách điều chỉnh
phương
án
sao cho
thể hiện được thể tích khí.
- Làm lại thí nghiệm theo
phương án đã điều chỉnh

Trường THCS Quang Trung


Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015


có thể gợi ý sử dụng giọt nước màu như SGK
hay bóng cao su như đã nêu trong bước 2.
Từ đó, giúp đỡ HS xây dựng một vài phương
án khả thi.
- Cho HS thực hiện lại thí nghiệm theo
những phương án đúng đã thảo luận
Bước 4: Rút ra kết luận
- Yêu cầu HS giải thích kết quả thí nghiệm.
Có thể gợi ý bằng các câu hỏi như: Vì sao
giọt nước dịch chuyển? Khi nhúng vào nước
nóng thì thể tích khí thay đổi như thế nào?
- Yêu cầu HS trả lời câu C6 a và b.
- GV kết luận, ghi bảng: Khi nóng lên, chất
khí nở ra: thể tích tăng lên.
Khi lạnh đi, chất khí co lại: thể tích của
nó giảm đi.
Nếu còn thời gian, GV cho HS làm các câu
C7, C8, C9 SGK. Nếu không, giao cho HS
về nhà làm và sẽ chữa kĩ ở bài sau.
- Vì chuẩn không bắt buộc HS phải nhận
biết được các chất khí giãn nở giống nhau,
cũng không yêu cầu so sánh sự giãn nở của 3
trạng thái nên chỉ yêu cầu HS về nhà đọc
bảng 20.1 và trả lời câu C6c
- Giao bài tập 20.2, 20.3, 20.7.

- Giải thích kết quả thí
nghiệm. So sánh với giải
thích của các bạn, trao đổi,

rút ra kết luận.
- Trả lời câu C6
a) tăng lên
b) lạnh đi
- Nhận nhiệm vụ
- Nhận nhiệm vụ

Bài 3: TỪ TRƯỜNG CỦA ỐNG DÂY
CÓ DÒNG ĐIỆN CHẠY QUA (Lý 9)
I. Mục tiêu bài học
Kiến thức: Phát biểu được quy tắc nắm tay phải về chiều của đường sức từ trong
lòng ống dây có dòng điện chạy qua.
Kĩ năng: - Vẽ được đường sức từ của ống dây có dòng điện chạy qua
- Vận dụng được quy tắc nắm tay phải để xác định chiều của đường sức
từ trong lòng ống dây khi biết chiều dòng điện và ngược lại.
II. Thiết bị dạy học
- Dụng cụ thí nghiệm: một ống dây, một pin, một bóng đèn, công tắc, bìa
cứng, mạt sắt.
- Chuẩn bị bảng nhóm, phấn...
III. Tiến trình hoạt động dạy học
GV thực hiện: Phạm Xuyên

9

Trường THCS Quang Trung


Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015


Nội dung

Tổ chức hoạt động của GV

kiến thức

1. Đường sức từ của Bước 1. Tình huống:
dòng điện chạy qua
Một mạch điện gồm: một ống dây,
ống dây.
một pin, một bóng đèn, và công tắc.
Đường sức từ của ống
dây có dòng điện Tìm phương án để xác định dạng từ
chạy qua là những trường trong ống dây có dòng điện
đường cong khép kín, chạy qua.
đi ra từ một đầu ống
Bước 2,3. Hướng dẫn, tổ chức cho
dây và đi vào đầu kia
HS hoạt động.
của ống dây. Trong
lòng ống dây thì các Các tình huống của các nhóm HS:
đường sức từ gần như
song song với trục - Đặt ống dây lên tấm bìa, cho mạt
ống dây.
sắt lên tấm bìa, đóng công tắc cho
dòng điện chạy qua, rồi gõ nhẹ và
xác định được dạng đường cảm ứng.
A
B

dùng nam châm thử để xác định được
chiều của đường sức từ.
I +
_
- Đục các lỗ trên tấm bìa, luồn ống

Hoạt động của
HS
1. Đề xuất các
phương án thí
nghiệm của cá
nhân, vẽ hình.
2. Thống nhất
phương án trình
bày của nhóm
3. Trình bày các
phương án của
nhóm.
4. Thảo luận các
phương án, tiến
hành thí nghiệm
kiểm
tra
các
phương án.
5. Ghi lại các nội
dung cần nhớ

dây qua tấm bìa sao cho mặt phẳng
của tấm bìa nằm giữa ống dây. Rắc

mạt sắt lên tấm bìa, đóng công tắc
cho dòng điện chạy qua ống dây, rồi
gõ nhẹ tấm bìa đẻ xác định hình dạng
của đường sức từ của ống dây. Sau đó
dùng nam châm thử để xác đình
chiều của đường sức từ. (phương án
đúng).
Bước 4. Cho HS tiến hành thí nghiệm
kiểm tra phương án của nhóm, chỉ ra
phương án đúng.
Bước 5. Gợi ý để HS kết luận:
Đường sức từ bên ngoài ống dây
giống đường sức từ của nam châm
thẳng.
Đường sức từ trong lòng ống dây
giống đường sức từ bên trong nam
GV thực hiện: Phạm Xuyên

10

Trường THCS Quang Trung


Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015

châm hình chữ U (từ trường đều).
2. Quy tắc nắm tay
phải: Nắm bàn tay

phải sao cho bốn
ngón tay hướng theo
chiều dòng điện chạy
qua các vòng dây, thì
ngón tay cái choãi ra
chỉ chiều của đường
sức từ trong lòng ống
dây.

Bước 1. Tình huống: đổi chiều dòng 1. Đề xuất các
điện chạy qua ống dây thì điều gì sẽ phương án thí
xảy ra?
nghiệm của cá
nhân, vẽ hình.
Bước 2,3. Tổ chức các hoạt động cho
HS.
2. Thống nhất
phương án trình
Bước 4. Cho HS tiến hành thí bày của nhóm
nghiệm.
3. Trình bày các
Bước 5. Dẫn dắt HS đến qui tắc bàn phương án của
tay phải.
nhóm.
Cho HS tự vận dụng qui tắc nắm bàn
tay phải (có thể chọn một cá nhân
thực hiện đúng để trình bày trước
lớp.
- HS rút ra được nhận xét:


4. Thảo luận các
phương án, tiến
hành thí nghiệm
kiểm
tra
các
phương án.

5. Ghi lại các nội
+ Chiều của đường sức từ phụ thuộc dung cần nhớ.
vào chiều dòng điện chạy qua ống
dây.
+ Khi áp dụng qui tắc bàn tay phải thì
đặt bàn tay phải sao cho đúng cách
(nắm bàn tay song song với ống dây)
3. Vận dụng

Cho HS vận dụng thành thạo qui tắc nắm bàn tay phải để
xác định chiều của đường sức từ trong lòng ống dây khi
biết chiều dòng điện và ngược lại bằng thực tế và trên
hình vẽ.

VI. KẾT LUẬN
Hiện nay, phương pháp "Bàn tay nặn bột" đã được áp dụng tại một số quốc
gia phát triển trên thế giới như Pháp, Mỹ, Canada... Bắt đầu từ năm học 20122013, Bộ GD&ĐT triển khai thí điểm phương pháp “Bàn tay nặn bột" đối với các
trường tiểu học và cả THCS tại cả 63 tỉnh, thành trên toàn quốc. "Bàn tay nặn
bột" là một phương pháp giáo dục tiên tiến, giúp hình thành kiến thức và nhân
cách cho trẻ em. "Bàn tay nặn bột" là phương pháp dạy học, dẫn dắt học sinh đi từ
chưa biết đến biết. Giáo viên sẽ cho học sinh tiếp xúc với biều tượng ban đầu, sau
đó giúp các em giải thích bằng cách tự mình tiến hành nghiên cứu qua thực

nghiệm. Nhờ đó, học sinh sẽ hình thành khả năng suy luận theo phương pháp
nghiên cứu từ nhỏ, và điều này sẽ góp phần không nhỏ trong sự hình thành tác
phong và phương pháp làm việc của các em khi trưởng thành. Cũng như các
GV thực hiện: Phạm Xuyên

11

Trường THCS Quang Trung


Chuyên đề SHCM cụm

Năm học 2014 - 2015

phương pháp dạy học tích cực khác “Bàn tay nặn bột” luôn coi học sinh là trung
tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội
kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
Tuy nhiên do là một phương pháp mới bước đầu chỉ mới thực hiện thí điểm
nên chắc hẳn còn nhiều vấn đề thiếu sót mà tôi chưa phát hiện ra hết khi xây dựng
đề tài. Rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện
hơn.
Người viết
Phạm Xuyên

GV thực hiện: Phạm Xuyên

12

Trường THCS Quang Trung




×