Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Dự án chế biến hoa hồi và tinh dầu hồi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.77 KB, 18 trang )

Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

Mở đầu
Hoa hồi là một đặc sản, thế mạnh của Lạng Sơn, đã trở thành một biểu
tượng của tỉnh, đi vào thơ ca của vùng miền núi Đông Bắc của Tổ quốc. Trong
những năm gần đây, trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế của đất nước, sản phẩm hoa hồi Lạng Sơn đang được
biết đến ngày càng rộng rãi trên thế giới; sản lượng nhập khẩu của các thị trường
truyền thống cũng tăng lên không ngừng, tạo điều kiện, cơ hội lớn cho Lạng Sơn
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo vùng chuyên canh, phát triển công nghiệp
chế biến sâu đối với hoa hồi để trở thành sản phẩm dược liệu, thực phẩm có giá trị
lớn trong tiêu dùng và xuất khẩu.
Đứng trước cơ hội đó, là một hộ kinh doanh có kinh nghiệm và đội ngũ bà
con địa phương phối hợp thu gom lành nghề, lâu năm về hoa hồi tại Văn quan và
các vùng lân cận, nay mới chuyển đổi thành doanh nghiệp, chính thức bước vào
hoạt động trong lĩnh vực thu mua, sơ chế, xuất khẩu hoa hồi có quy mô lớn từ cuối
năm 2012. Sau khi thành lập, Doanh nghiệp tư nhân Hoa Kiên quyết định lập dự
án đầu tư nhằm mở rộng sản xuất, tăng sản lượng thu mua chế biến, nâng cao chất
lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh đối với các sản phẩm hoa hồi mà doanh
nghiệp đang thực hiện.

DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 1


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

Chương 1: Thông tin về cây hồi, tiềm năng sản phẩm hoa hồi của Lạng Sơn

1.1. Đại hồi



Cây đại hồi hay đại hồi hương hoặc bát giác hồi hương hoặc đơn giản chỉ
là cây hồi hay tai vị, danh pháp khoa học Illicium verum, (tiếng Trung: 八角, Hán
Việt: “bát giác”, có nghĩa là "tám cánh") là một loài cây gia vị có mùi thơm tương
tự như cây tiểu hồi, thu được từ vỏ quả hình sao của Illicium verum, một loại cây
xanh quanh năm có nguồn gốc ở Trung Quốc và đông bắc Việt Nam. Các quả hình
sao được thu hoạch ngay trước khi chín. Đại hồi được sử dụng rộng rãi trong ẩm
thực Trung Hoa và ở mức độ ít hơn ở vùng Đông Nam Á và Indonesia. Nó cũng là
một thành phần được sử dụng trong nấu nước dùng cho món phở của người Việt
Nam.
Đại hồi chứa anethol (C10H12O), cùng thành phần tương tự để tạo ra mùi vị
như cây tiểu hồi vốn không có quan hệ họ hàng gì. Gần đây, đại hồi được
người phương Tây sử dụng như là chất thay thế rẻ tiền hơn cho tiểu hồi trong việc
nướng bánh cũng như trong sản xuất rượu mùi.
Đại hồi cũng được sử dụng trong trà như là liệu pháp chữa đau bụng và thấp
khớp, và các hạt của nó đôi khi cũng được nhai sau bữa ăn để giúp tiêu hóa.
Tây y dùng hồi làm thuốc trung tiện, giúp tiêu hóa, lợi sữa, làm dịu đau, dịu
co bóp, được dùng trong đau dạ dày, đau ruột và những trường hợp dạ dày và ruột
co bóp quá mạnh. Ngoài ra, nó còn được dùng làm rượu mùi, làm thơm thuốc đánh
răng. Tuy nhiên, nếu dùng nhiều và liều quá cao sẽ gây ngộ độc với hiện tượng
say, run chân tay, sung huyết não và phổi; trạng thái này có khi dẫn tới co giật như
động kinh.
Theo tài liệu cổ và Giáo sư Đỗ Tất Lợi thì đại hồi vị cay, tính ôn, có tác
dụng đuổi hàn kiện tỳ, khai vị, dùng chữa nôn mửa, đau bụng, bụng đầy chướng,
giải độc thịt cá. Những người âm hư, hỏa vượng không dùng được. Hiện nay, đại
hồi thường được dùng làm thuốc trợ giúp tiêu hóa, ăn uống không tiêu, nôn mửa,
đau nhức tê thấp. Mỗi ngày dùng 4-8 g dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài ngâm
rượu xoa bóp chữa đau nhức, tê thấp.

DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn


Page 2


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

Mặc dù được sản xuất trong các sinh vật tự dưỡng, nhưng đại hồi là nguồn
công nghiệp quan trọng nhất để sản xuất axít shikimic, thành phần quan trọng cơ
bản để sản xuất thuốc điều trị bệnh cúm Tamiflu. Tamiflu hiện đang được coi là
dược phẩm có triển vọng nhất để làm giảm tác hại của bệnh cúm gia cầm (H5N1);
tuy nhiên, các báo cáo cũng đã chỉ ra rằng một số dạng của virus này đã kháng
thuốc Tamiflu.
Sự thiếu hụt của đại hồi là một trong những lý do quan trọng nhất giải thích
tại sao hiện nay thế giới đang thiếu Tamiflu nghiêm trọng (thời điểm năm 2005).
Đại hồi chỉ mọc ở bốn tỉnh của Trung Quốc là Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc
Kiến, Vân Nam và các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn của Việt Nam (Các tỉnh như Hà
Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên có trồng song diện tích và sản lượng
không đáng kể), quả hồi (dân gian gọi là hoa hồi) được thu hoạch trong khoảng
thời gian từ tháng 7-9 hay tháng 11-12. Axít shikimic được chiết ra từ hạt trong
công nghệ sản xuất 10 công đoạn. Các báo cáo chỉ ra rằng 90% sản lượng thu
hoạch đã được nhà sản xuất dược phẩm Thụy Sỹ là Roche dùng để sản xuất
Tamiflu, nhưng một số báo cáo khác lại cho rằng vẫn còn rất nhiều sản lượng của
gia vị này trong các khu vực trồng chủ yếu - Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây
và Vân Nam.
Hồi Nhật Bản (Illicium anisatum) và hồi núi ( Illicium griffithii) là các loại
cây tương tự, nhưng không ăn được do chúng có độc tính cao; thay vì thế, chúng
được sử dụng để đốt như là hương. Các trường hợp ngộ độc, như "các tổn thương
thần kinh nghiêm trọng, chẳng hạn chứng co giật", được báo cáo sau khi sử dụng
trà có chứa đại hồi có thể là do bị lẫn các loại hồi này. Hồi Nhật Bản chứa anisatin,
là chất gây ra các chứng viêm sưng nghiêm trọng đối với thận, đường tiết niệu và

các cơ quan tiêu hóa.
1.2. Tình hình thị trường hồi và các sản phẩm hồi thế giới.
Trên thị trường thế giới, hồi là tên thương mại chung cho các loại sản phẩm của
hai loài thực vật khác nhau, Đại hồi (Illicium verum) và Tiểu hồi (Anisum
Pimpinella).
Hầu hết lượng tinh dầu hồi giao dịch trên thường thế giới có nguồn gốc từ
cây đại hồi (thường gọi là cây hồi - Illicium verum), được trồng chủ yếu ở vùng
Viễn Đông, tập trung ở Trung Quốc hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây Trung
Quốc và ở Việt Nam cung cấp trên 80% tổng sản lượng hồi toàn cầu. Tại Việt
Nam, cây hồi được trồng ở các tỉnh phía bắc như Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng
Ninh...Ngoài hai nước sản xuất chính là Trung Quốc và Việt Nam, gần đây Nhật
Bản, Indonesia cũng trồng và sản xuất một số sản phẩm thương mại từ cây hồi
(quả hồi phơi khô và tinh dầu hồi). Theo đánh giá chung, sản lượng và chất lượng
tinh dầu hồi của các nước này không cao. Những năm gần đây, một số nước như
Ấn Độ, Lào, Philipin,...cũng trồng thử nghiệm cây hồi nhưng sản lượng không
đáng kể. Do vậy, tới nay Trung Quốc và Việt Nam vẫn là hai quốc gia sản xuất hồi

DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 3


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

chủ yếu trên thế giới. Tuy nhiên, công nghiệp chưng cất tinh dầu hồi lại tập trung
chủ yếu ở các nước nhập khẩu như Hoa Kỳ, Pháp, Nga, Tây Ban Nha và Ba Lan...
Tinh dầu từ cây tiểu hồi (Pimpinella anisum), có vị ngọt và mùi dễ chịu hơn,
nhưng sản lượng khá hạn chế so với đại hồi. Tiểu hồi có nguồn gốc ở vùng đông
Địa Trung Hải và Tây Nam Á và hiện được trồng ở nhiều nước như Thổ Nhĩ Kỳ,
Ai Cập, Nga, Tây Ban Nha, Italia, Ấn Độ, Hy Lạp, Bắc Phi, Argentina, Malta,

Romania và Syria...Trong những năm gần đây, đại hồi được các nước phương Tây
sử dụng như chất thay thế cho tiểu hồi trong công nghiệp thực phẩm cũng như
dược phẩm do giá rẻ hơn và nguồn cung lớn hơn.
Hồi là một thành phần để chế rượu anis, hương liệu, làm thuốc chữa bệnh và
là một thành phần đặc trưng không thể thiếu được trong ẩm thực của nhiều nước.
Sản phẩm chủ yếu từ cây hồi hiện được buôn bán trên thị trường thế giới gồm hai
loại chính:
+ Quả hồi sấy (hoặc phơi) khô, thường được gọi là “hoa hồi” là sản phẩm
tiêu thụ chủ yếu trên thị trường. Hồi khô có hương vị đặc biệt, là hương liệu thiên
nhiên được sử dụng rộng rãi trong chế biến thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, thức
ăn gia súc...Quả hồi khô được dùng rộng rãi trong đời sống hàng ngày của người
dân nhiều nước, kể cả các nước không trồng được hồi như các nước Châu Âu và
Trung Đông.
+ Tinh dầu hồi là sản phẩm chủ yếu thu từ quả hồi và thân lá hồi với thành
phần chủ yếu là Anethole (ước tính chiếm khoảng 80% - 90%), là hương liệu quan
trọng trong sản xuất rượu thơm, trong công nghiệp thực phẩm dược phẩm. Trong
công nghiệp hóa chất, dầu hồi và các chất tinh cất như Oleom Anisi Stellati,
Anethole và Anisi aldehyde, Anisonitrile...được dùng làm làm hương liệu cao cấp,
là thành phần quan trọng để sản xuất nước hoa và các hóa mỹ phẩm khác. Trong
những năm gần đây, dầu hồi được quan tâm hơn như là nguyên liệu chính để sản
xuất Tamiflu chữa bệnh cúm, hiện được là loại thuốc chữa dịch cúm hiệu nghiệm
nhất trên thế giới.
Nhu cầu của thế giới đối với nguyên liệu hồi và sản phẩm hồi vẫn đang có
xu hướng tăng, đặc biệt là với các sản phẩm hữu cơ. Châu Âu, Bắc Mỹ, Hoa Kỳ,
Nhật Bản và thị trường các quốc gia Hồi giáo là những nước sử dụng các sản
phẩm hồi lớn nhất thế giới.
Xuất khẩu hồi thế giới : Theo Trung tâm thương mại quốc tế, năm 2009 đạt
20.238 tấn, trị giá 52,123 triệu USD, giảm bình quân 9% về lượng nhưng lại tăng
10% về giá trị trong giai đoạn 2005 - 2009. Bên cạnh các nước trồng hồi như
Trung Quốc, Việt Nam, Syri hay Ấn Độ, các nước nhập khẩu hồi như Tây Ban

Nha, Đức và Hà Lan cũng chiếm vị trí quan trọng trong xuất khẩu hồi thế giới.
Syri hiện là nước xuất khẩu hồi lớn nhất thế giới, chiếm 22,6 % tổng KNXK
toàn cầu với lượng xuất khẩu 3.139 tấn trong năm 2009, trị giá 11,776 triệu USD,
giảm bình quân 11% về lượng nhưng tăng tới 13% về giá trị trong giai đoạn 20052009. Syri chủ yếu xuất khẩu hồi sang Hoa kỳ (chiếm 28% trong tổng KNXK hồi
DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 4


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

của nước này năm 2009), Braxin (17%), Pháp (6,6%), Hà Lan (5,7%) và CH
Dominica (5,5%)...
Thổ Nhĩ Kỳ đứng thứ hai về xuất khẩu hồi thế giới , chiếm 16,5% tổng
KNXK toàn cầu với lượng xuất khẩu 2.053 tấn trong năm 2009, trị giá 8,616 triệu
USD, giảm bình quân 2% về lượng nhưng tăng tới 21% về giá trị trong giai đoạn
2005-2009. Thổ Nhĩ Kỳ chủ yếu xuất khẩu hồi sang Hoa Kỳ (thị trường chiếm
28,7% tổng KNXK của Thổ Nhĩ Kỳ năm 2009), Braxin (18,6%), Đức (10,7%),
Pêru (8,1%) và Italia (5,3%)...
Trung Quốc đứng thứ ba trên thế giới về xuất khẩu hồi, chiếm 16,2% tổng
KNXK toàn cầu với lượng xuất khẩu 3.806 tấn trong năm 2009, trị giá 8,462 triệu
USD, giảm bình quân 6% về lượng nhưng tăng 5% về giá trị trong giai đoạn 20052009. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Trung Quốc là Ấn Độ (chiếm 34,5%
tổng KNXK), Hồng Công (10,2%), Malaysia (8,9%), Indonesia (6,7%) và Đài
Loan (5,5%)...
Việt Nam là nước đứng thứ tư trên thế giới về xuất khẩu hồi, chiếm 12,1%
tổng KNXK toàn cầu với lượng xuất khẩu 3.703 tấn trong năm 2009, trị giá 6,309
triệu USD, giảm bình quân 19% về lượng và giảm 12% về giá trị trong giai đoạn
2005-2009. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hồi sang các nước trong khu vực như Ấn
Độ (52,6%, Malaysia (6,2%,) Thái Lan (5,7%), Singapore (4,3%), xuất khẩu sang
các nước phương tây còn khá hạn chế...Một phần hoa hồi Việt Nam xuất thô và tái

xuất khẩu sang các nước khác.
Đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu hồi là Tây Ban Nha, chiếm 6,0% tổng
KNXK toàn cầu với lượng xuất khẩu 745 tấn trong năm 2009, trị giá 3,109 triệu
USD, tăng bình quân 26% về lượng và tăng tới 36% về giá trị trong giai đoạn
2005-2009. Tây Ban Nha chủ yếu xuất khẩu hồi sang các nước Hà Lan (18,4%),
Đức (17,5%), Paragoay (15,8%), Italia (9,5%) và Hoa Kỳ (7,5%)...
Nhập khẩu hồi thế giới: theo nguồn Trung tâm thương mại quốc tế năm
2010: Hoa Kỳ, Ấn Độ, một số các nước thành viên EU, Braxin và Paragoay là
những nước nhập khẩu hồi lớn nhất thế giới. Các nước này chủ yếu nhập khẩu hồi
để phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa. Ấn Độ và một số nước châu Âu như Đức, Hà
Lan, Pháp... dùng một tỷ lệ lớn hồi nhập khẩu để chế biến và tái xuất khẩu sang
các nước khác, điều có thể thấy qua cán cân thương mại mặt hàng này.
Hoa kỳ là nước nhập khẩu hồi lớn nhất thế giới, chiếm 17,1% tổng kim
ngạch nhập khẩu (KNNK) hồi toàn cầu với lượng nhập khẩu năm 2009 đạt 2.157
tấn, trị giá 8,236 triệu USD. Hoa Kỳ nhập khẩu hồi chủ yếu từ Syri (nước cung
cấp 40% tổng KNNK hồi Hoa Kỳ), Thổ Nhĩ Kỳ (37,9%), Trung Quốc (7,3%), Ai
Cập (2,8%) và Tây Ban Nha (2,5%)…
Đứng thứ hai thế giới về KNNK hồi là Ấn Độ, chiếm 9,7% tổng KNNK hồi
toàn cầu với lượng nhập khẩu năm 2009 đạt 3.101 tấn, trị giá 4,690 triệu USD. Ấn
Độ nhập khẩu hồi chủ yếu từ Việt Nam (nước chiếm 70,8% tổng KNNK hồi của
Ấn Độ), Trung Quốc (27,8%), Malaysia (1%) và Pakixtan (0,2%)…
DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 5


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

Đứng thứ ba thế giới về KNNK hồi là Braxin, chiếm 9,3% tổng KNNK hồi
toàn cầu với lượng nhập khẩu năm 2009 đạt 1.181 tấn, trị giá 4,494 triệu USD.

Braxin nhập khẩu hồi chủ yếu từ Syri (44,6%), Thổ Nhĩ Kỳ (42,6%), Ai Cập
(5,7%), Việt Nam (2,7%) và Trung Quốc (2,4%).
Đức đứng thứ tư thế giới về KNNK hồi, chiếm 8,7% tổng KNNK hồi toàn
cầu với lượng nhập khẩu năm 2009 đạt 892 tấn, trị giá 4,217 triệu USD. Đức nhập
khẩu hồi chủ yếu từ Thổ Nhĩ Kỳ (22,2% tổng KNNK), Tây Ban Nha (18,2%), Hà
Lan (15,1%), Syri (14,5%) và Ai Cập (12,1%)..., sau đó chế biến và tái xuất sang
các nước thành viên EU.
Cũng như Đức, Hà Lan là nước nhập khẩu và tái xuất hồi lớn. Hà Lan đứng
thứ năm thế giới về KNNK, chiếm 4,4% tổng KNNK hồi và đứng thứ tám thế giới
về xuất khẩu, chiếm 3,0% tổng KNNK hồi toàn cầu, với lượng nhập khẩu năm
2009 đạt 547 tấn, trị giá 2,108 triệu USD. Hà Lan nhập khẩu hồi chủ yếu từ Syri
(31,9% tổng KNNK), Tây Ban Nha (26,5%), Thổ Nhĩ Kỳ (24,1%), Việt Nam
(11,1%) và Trung Quốc (2,5%)…
Nhu cầu thị trường thế giới về sản phẩm hồi luôn có xu hướng tăng trong
những năm qua do hồi ngày càng được ứng dụng rộng rãi, đa dạng trong nhiều
ngành sản xuất công nghiệp và tiêu dùng vì những giá trị ưu việt của nó như một
loại cây hương liệu cao cấp và một loại thực phẩm bổ dưỡng, có tác dụng hỗ trợ
cho sức khoẻ. Tuy nhiên, các nước tiêu thụ và buôn bán tinh dầu chủ lực, chiếm tỉ
lệ lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu toàn cầu đều có hàng rào kỹ thuật về tiêu
chuẩn chất lượng rất chặt chẽ như quy định về canh tác sạch Bio Organic; thu hái
sạch, bảo quản sơ chế nguyên liệu sạch theo tiêu chuẩn Global GAP; chế biến sản
xuất vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP, GMP...
Cho tới nay, chất lượng tinh dầu của Trung Quốc và Việt Nam vẫn được thị
trường quốc tế đánh giá là loại tinh dầu có chất lượng cao thuộc hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, những năm gần đây đã xuất hiện nhiều mẫu tinh dầu hồi có chất lượng
khá thấp (hàm lượng anethole chỉ đạt 60 - 70%). Với những tinh dầu loại này giá
mua rất thấp do chi phí để tinh chế cao. Để giao dịch trên thị trường quốc tế và có
khả năng cạnh tranh cao, nhiều tổ chức kinh doanh thường chào hàng với chất
lượng cao hơn tiêu chuẩn truyền thống (hàm lượng trans-anethole không dưới
85%). Thực tế này đã đặt vùng sản xuất hồi trước thách thức phải nâng cao chất

lượng sản phẩm tinh dầu.
Chiến lược marketing của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm tiêu dùng
cuối cùng từ nguyên liệu tự nhiên như hương liệu, gia vị, đồ uống, mỹ phẩm, dược
phẩm… hiện nay đang hướng tới những sản phẩm tự nhiên (Bio-Organic), sản
phẩm hoàn toàn sạch và an toàn cho người tiêu dùng. Trên thực tế, các doanh
nghiệp nhập khẩu/chế biến tại các nước phát triển trên thế giới không quan tâm
đến công đoạn tái chế nguyên liệu đầu vào đối với các sản phẩm không đủ tiêu
chuẩn, chất lượng hoặc tiêu chuẩn không phù hợp vì phải đầu tư thêm thiết bị xử
lý rất tốn kém. Do đó, việc tiêu chuẩn hoá sản phẩm phù hợp là yêu cầu bức xúc
DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 6


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

đặt ra đối với các sản phẩm xuất khẩu nói chung và các sản phẩm mang tính dược
liệu, hương liệu và gia vị cũng như các sản phẩm hồi nói riêng.
1.3. Tiềm năng cây đại hồi và các sản phẩm hoa hồi của Lạng Sơn.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc, có tổng diện tích tự nhiên là
832.378,38 ha. Trong đó đất có rừng 372.500,8 ha, diện tích rừng hồi là 33.503
ha, chiếm 70% so với diện tích rừng hồi cả nước.
Hồi phân bố hầu hết ở các huyện, thành phố của Lạng Sơn, nhưng tập trung
nhiều ở các huyện: Văn Quan, Bình Gia. Diện tích trồng hồi của 2 huyện này
chiếm tới 55,9% diện tích trồng hồi toàn tỉnh (do ở những địa phương này đất
được phát triển trên đá mẹ Riolit & phiến thạch màu nâu đỏ hoặc đỏ vàng, tầng đất
sâu, tỷ lệ mùn cao). Với diện tích rừng hồi lớn, đang tiếp tục được phát triển thì
đây sẽ là tiềm năng rất lớn đem lại hiệu quả kinh tế cao cho bà con các dân tộc tỉnh
Lạng Sơn.
Cây hồi trồng sau 7 - 8 năm bắt đầu bói quả và sai quả ở độ tuổi từ 20 - 60.

Rừng hồi có năng suất cao nhất có thể đạt 30 - 40 kg quả khô/cây/năm; trung bình
10 - 15 kg quả khô/cây/năm. Sản lượng khai thác hoa hồi của Lạng Sơn trong giai
đoạn năm 2000 - 2008 bình quân đạt 5.161 tấn/năm; 3 năm trở lại đây đạt 5.756,7
tấn/năm. Như vậy sản lượng hồi ở Lạng Sơn là tăng lên qua các năm. Nếu tính
theo giá thị trường năm 2009, 1 kg quả hồi khô có giá trung bình 70.000đ, thì với
sản lượng bình quân 3 năm trở lại đây là 5.756,7 tấn/năm sẽ đạt 402,97 tỷ
đồng/năm.
Do nhận thức được vai trò của sản phẩm từ cây hồi, các cơ quan chuyên
môn đã có các đề tài nghiên cứu từ những năm 1960 - 1970 của các tác giả Lê Đức
Biên, Nguyễn Huy Bật, Cung Đình Lượng, Nguyễn Thụ (Đại học Tổng hợp Hà
Nội). Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến các vấn đề về nhu cầu ánh sáng,
dinh dưỡng khoáng, quy trình bón phân nhằm phục tráng cây hồi, phát triển diện
tích rừng hồi, sản phẩm hoa hồi của Xứ Lạng.
Nhằm đảm bảo chất lượng hồi (đặc biệt là hồi xuất khẩu), từ năm 2006, Sở
Nông nghiệp & PTNT đã ban hành quy trình kỹ thuật canh tác, bảo quản hồi Lạng
Sơn. Được sự quan tâm của Bộ Khoa học và Công nghệ hai nước Việt Nam và
Trung Quốc, dự án hợp tác quốc tế: “Hợp tác nghiên cứu cải tạo rừng hồi năng
suất thấp và ứng dụng kỹ thuật chế biến sản phẩm hồi” đã được đưa vào Nghị định
thư phiên họp lần thứ VII Uỷ ban hỗn hợp hợp tác Khoa học và Công nghệ giữa
Việt Nam và Trung Quốc vào tháng 12/2008 tại Bắc Kinh.
Đảng bộ, chính quyền tỉnh Lạng Sơn hiện nay đang rất quan tâm, ban hành
nhiều chủ trương chính sách nhằm thúc đẩy, tạo điều kiện thu hút đầu tư, phát
triển diện tích rừng hồi, nâng cao chất lượng hoa hồi thu hái, sản phẩm hoa hồi
khô; hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm; gần
đây hoa hồi Lạng Sơn đã được xây dựng chỉ dẫn địa lý và đăng bạ xuất xứ hàng
hóa hoa hồi Lạng Sơn tại Bộ Khoa học và Công nghệ.
DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 7



Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

Về mặt thị trường tiêu thụ, trong thời kỳ bao cấp, hoa hồi Lạng Sơn từng
được xuất khẩu sang các nước Đông Âu như Liên Xô, Cộng hoà Dân chủ Đức, Ba
Lan, Tiệp Khắc, v.v.. Phương thức thanh toán bằng ngoại tệ hoặc trao đổi hàng đối
lưu. Giai đoạn đó Lạng Sơn xuất khẩu hàng nông - lâm sản chủ yếu đổi lấy máy
móc, thiết bị hoặc ô tô. Đã có lần Lạng Sơn đổi hoa hồi lấy xe ô tô UAZ của Liên
Xô thông qua Công ty XNK Lạng Sơn (Lasimex). Thời kỳ này Lasimex mua hồi
trong dân theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước để xuất khẩu hoặc uỷ thác cho các công
ty của Trung ương xuất khẩu sang các nước theo Nghị định thư của Chính phủ.
Sau khi xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang cơ chế thị
trường, Lasimex không thu mua được hoa hồi nữa và từ đó quan hệ giữa các công
ty của Trung ương với Lasimex bị gián đoạn. Những năm gần đây, các công ty nhà
nước của Trung ương cũng đã chuyển đổi theo Luật doanh nghiệp thành các công
ty cổ phần và nhiều công ty mới được thành lập theo Luật doanh nghiệp, kể cả các
doanh nghiệp tư nhân, vẫn tiếp tục xuất khẩu hoa hồi sang các nước Ấn Độ,
Singapore, Trung Đông và các nước Châu Âu là những thị trường truyền thống,
nhưng số lượng không tập trung và chất lượng cũng không đồng đều, giá cả không
ổn định và nhìn chung là ở mức thấp. Về khai thác nguồn hàng, các công ty này
liên hệ trực tiếp với các hộ thu gom ở thành phố Lạng Sơn, các huyện Văn Quan,
Bình Gia, Chi Lăng rồi vận chuyển về các tỉnh phía sau phân loại, đóng gói, xuất
khẩu. Cách làm như vậy làm cho lượng hàng rất phân tán và việc kinh doanh đạt
hiệu quả thấp và rủi ro cao. Việc xuất khẩu chủ yếu được thực hiện theo cách thức
xuất uỷ thác cho các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc các doanh nghiệp tư nhân
hoặc mua trực tiếp từ các doanh nghiệp này để xuất khẩu.
Mấy năm gần đây, cùng với sự phát triển của diện tích trồng hồi trên địa bàn
tỉnh, thị trường thu gom, sơ chế, chế biến hoa hồi khô, tinh dầu hồi của Lạng Sơn
cũng phát triển mạnh với sự thành lập của một số doanh nghiệp thu gom, chế biến,
xuất khẩu các sản phẩm hoa hồi, trong đó có DNTN Hoa Kiên là đơn vị lập dự án

đầu tư này. Giá cả các loại sản phẩm hoa hồi cũng có sự tăng trưởng theo thị
trường. Nếu như năm 2007, giá hoa hồi khô (thu mua trên địa bàn) từ 20 - 25
nghìn đồng/kg; tinh dầu hồi từ 150 - 200 nghìn đồng/lít. Thì đến nay, giá hoa hồi
khô dao động trong khoảng từ 60 - 70 nghìn đồng/kg; tinh dầu hồi từ 300 - 350
nghìn đồng/lít.

DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 8


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

Chương 2: Thông tin về chủ đầu tư và sự lựa chọn sản phẩm, thị trường
2.1. Giới thiệu về chủ đầu tư
Doanh nghiệp tư nhân Hoa Kiên được thành lập tháng 5 năm 2011, địa chỉ
trụ sở chính tại thôn Khòn Lạn, xã Vân Mộng, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn,
ngành nghề hoạt động chính là buôn bán, chế biến nông, lâm sản, trong đó, sản
phẩm chính là hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu. Chủ doanh nghiệp là Hoàng
Tiến Dũng, sinh năm 1955.
Trước khi thành lập doanh nghiệp, ông Dũng đã hoạt động lâu năm trong
ngành thu mua, chế biến nông, lâm sản cung cấp cho các doanh nghiệp thu gom để
xuất khẩu sang các thị trường Ấn Độ, Malaysia, Singapore, v.v.. Năm 2011, để
thuận tiện trong kinh doanh, ông Dũng và gia đình quyết định thành lập doanh
nghiệp để có thể trực tiếp xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài.
Cơ sở ban đầu của doanh nghiệp là diện tích 400m2 đất sản xuất kinh doanh
được UBND tỉnh cấp để xây dựng kho thu gom, sơ chế. Doanh nghiệp đang có kế
hoạch mua sắm, mở rộng diện tích đất để phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng
sân phơi, nhà xưởng chế biến, nhà kho nguyên vật liệu, kho thành phẩm với tổng
hiện tích 10.000m2.

2.2. Lựa chọn mô hình kinh doanh và sản phẩm sản xuất
Mô hình kinh doanh hiện tại mà doanh nghiệp đang thực hiện là thu mua
trực tiếp từ hộ trồng hồi (40% sản lượng); mua lại từ các hộ thu gom (60%). Việc
mua trực tiếp từ hộ trồng hay mua qua trung gian là hộ thu gom đều có ưu, nhược
điểm của nó, thể hiện qua bảng dưới đây:
Các chỉ tiêu
so sánh

Mua trực tiếp

Mua qua trung gian

Giá mua hồi
tươi

Rẻ hơn khoảng 20%

Đắt hơn 20%

Chất lượng

Không đồng đều

Được kiểm soát vì đã qua
phân loại sơ bộ

Chi phí vận
chuyển

Bằng khoảng 5% giá mua hồi tươi


Hầu như không có vì giao
hàng tại kho của bên mua

Chi phí khác

Chi phí nhân công (lương công nhân)
thu mua bằng khoảng 5% giá mua hồi
tươi

Hầu như không có

DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 9


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

Trong thời gian tới, doanh nghiệp vẫn duy trì cả hai cách thức thu mua như
trên, với cán cân giữa mua trực tiếp và mua qua trung gian khoảng từ 40% - 60%
hoặc 50% - 50%.
Về tiêu thụ, hiện nay doanh nghiệp đang bán hàng cho Công ty XNK Lạng
Sơn để đơn vị này xuất hàng ra thị trường nước ngoại. Trong thời gian tới, doanh
nghiệp sẽ tìm kiếm thị trường để có thể xuất trực tiếp ra nước ngoài, đồng thời vẫn
bán một phần sản phẩm cho Công ty XNK Lạng Sơn. Việc bán cho đơn vị khác
xuất khẩu hoặc trực tiếp xuất khẩu đều có ưu điểm và nhược điểm như phân tích
dưới đây:
Các chỉ tiêu so
sánh


Xuất khẩu trực tiếp

Bán cho Cty khác để XK

Giá bán

Chủ động và cao hơn bán
trong nước

Phụ thuộc vào chính sách thu
mua của đơn vị khác; giá thấp
hơn trực tiếp xuất

Rủi ro

Chịu rủi ro trong hoạt động
thương mại quốc tế

Không chịu rủi ro trong hoạt
động TMQT

Cơ hội phát triển

Có nhiều cơ hội để tăng
trưởng, mở rộng hoạt động
kinh doanh

Ít cơ hội


Yêu cầu đầu tư bổ
sung trang thiết bị,
con người

Cần đầu tư bổ sung thêm về
cơ sở vật chất, trang thiết bị,
con người, đào tạo

Nhu cầu đầu tư bổ sung thêm
vẫn có song không lớn

Trong khoảng thời gian từ 1 đến 2 năm sau khi đầu tư xong và đưa dự án
vào hoạt động, DN vẫn bán 100% sản phẩm cho Công ty XNK Lạng Sơn và các
công ty XNK khác trong nước để xuất khẩu. Sau đó DN sẽ tìm kiếm, khảo sát thị
trường, xây dựng trang web để quảng bá sản phẩm, gửi hàng mẫu để chào hàng
trực tiếp ra thị trường nước ngoài, tiến tới trực tiếp xuất khẩu. Phấn đấu đến những
năm 2016, 2017 sẽ trực tiếp xuất 100% sản phẩm sản xuất ra cho thị trường nước
ngoài.

DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 10


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

Mô hình thu mua, chế biến, xuất khẩu DN sẽ thực hiện trong thời gian tới

Về sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, hiện nay DNTN Hoa Kiên chủ yếu thu
mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm hoa hồi khô. Cách làm này phải đầu tư ít, quay

vòng vốn nhanh nhưng giá trị gia tăng thấp, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận thấp. Vì vậy,
trong thời gian tới, ngoài việc vẫn giữ mặt hàng chủ đạo là hoa hồi khô, DN cũng
đầu tư dây chuyền chế biến ép dầu hoa hồi, đóng chai và cung cấp ra thị trường
sản phẩm tinh dầu hồi theo tiêu chuẩn quốc tế. Dự kiến tỷ trọng doanh thu mỗi loại
sản phẩm đến năm 2017 sẽ là hoa hồi khô 50%; tinh dầu hồi 50%.

Chương 3: Các vấn đề về kỹ thuật và phân tích đầu tư
DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 11


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

3.1. Quy trình chế biến hoa hồi và nhu cầu đầu tư
Quy trình chế biến hoa hồi khô

Quy trình chế biến tinh dầu hồi
DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 12


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

3.2. Các vấn đề về đầu tư
a. Địa điểm, thời gian đầu tư:
- Địa điểm: Tại thôn Khòn Lạn, xã Vân Mộng, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng
Sơn.
- Thời gian đầu tư: Trong 2 năm 2013 và 2014. Bắt đầu đi vào sản xuất năm

2015.
b. Chi phí đầu tư:
1. Phương tiện thu mua:
5 xe Cửu Long loại trọng tải 2,5 tấn: 5 chiếc x 250 triệu đồng/chiếc =
1.250.000.000,đ.
2. Kho tạm:
Cột bê tông, vì kèo sắt, mái tôn, tường bao gạch chỉ 110, diện tích 400m2.
Dự toán xây dựng 400m2 x 5.000.000,đ/m2 = 2.000.000.000,đ.
3. Sân phơi:
Sân bê tông dày 15cm, mác 250, diện tích 5.000m2.
Dự toán xây dựng 4.000m2 x 2.000.000,đ/m2 = 8.000.000.000,đ.
4. Dây chuyền sàng tuyển:
Hệ thống đồng bộ do TQ sản xuất, công suất 2 tấn/giờ.
Dự toán TB: 2 dây chuyền x 3.000.000.000,đ/dc = 6.000.000.000,đ.
5. Dây chuyền nghiền, chưng cất tinh dầu:
Hệ thống đồng bộ do TQ sản xuất, công suất 1 tấn nguyên liệu/mẻ chưng
cất.
Dự toán thiết bị: 01 dây chuyền x 2.000.000.000,đ/dc = 2.000.000.000,đ.
6. Lò sấy hồi khô:
DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 13


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

Lò sấy tuần hoàn sử dụng chất đốt là than, dung tích 300m3.
Dự toán xây dựng: 300m3 x 5.000.000,đ/m3 = 1.500.000.000,đ.
7. Máy đóng gói hồi khô:
Trang bị 4 máy đóng gói, công suất 300kg/giờ.

Dự toán thiết bị: 4 máy x 150.000.000,đ/máy = 600.000.000,đ.
8. Dây chuyền đóng chai tinh dầu hồi:
Hệ thống đồng bộ do TQ sản xuất, công suất 200 lít/giờ.
Dự toán thiết bị: 01 dây chuyền x 500.000.000,đ/dc = 500.000.000,đ.
9. Kho thành phẩm:
Nhà kho đạt Tiêu chuẩn Việt Nam dung tích 1.800m3.
Dự toán xây dựng: 1.800m3 x 3.000.000,đ/m3 = 5.400.000.000,đ
10.
Phương tiện bán hàng (xe chuyên chở, cân điện tử):
- Xe tải Hyundai 3,5 tấn thùng kín: 2 chiếc.
Dự toán thiết bị: 2 chiếc x 900.000.000,đ/chiếc = 1.800.000.000,đ.
- Cân điện tử: 1 trạm loại 30 tấn.
Dự toán thiết bị + lắp đặt: 300.000.000,đ.
11.
Văn phòng làm việc:
Nhà cấp 3, 2 tầng, diện tích 300m2.
Dự toán xây dựng: 300m2 x 5.000.000,đ/m2 = 1.500.000.000,đ.
12.
Các hạng mục khác:
Nhà nghỉ công nhân, nhà để xe, đường nội bộ, tường rào, trạm biến áp,v.v..
Dự toán xây dựng: 2.000.000.000,đ.
Cộng chi phí đầu tư 32.850.000.000,đ.
c. Nguồn vốn đầu tư:
1. Vốn tự có và huy động khác: 2.850.000.000,đ.
2. Vốn vay ngân hàng: 30.000.000.000,đ.
Chương 4: Hiệu quả kinh tế và Phân tích tài chính
DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 14



Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

4.1. Doanh thu tiêu thụ 1 năm: (hồi khô và tinh dầu hồi quy hồi khô)
1.000 tấn x 60.000.000,đ/tấn (chưa có VAT) = 60.000.000.000,đ.
4.2. Chi phí chế biến 1 năm (3.000 tấn hồi tươi cho 1.000 tấn hồi khô):
1. Nguyên liệu:
3.000 tấn hồi tươi x 15.000.000 đồng/tấn = 45.000.000.000,đ.
2. Lương cán bộ, công nhân:
30 người x 6.000.000,đ/tháng x 3 tháng = 540.000.000,đ;
20 người x 5.000.000,đ/tháng x 2 tháng = 200.000.000,đ;
10 người x 4.000.000,đ/tháng x 7 tháng = 280.000.000,đ.
Cộng lương cán bộ, công nhân: 1.020.000.000,đ.
3. Tiền điện, than, xăng xe, nước sản xuất:
120.000.000,đ/tháng x 3 tháng = 360.000.000,đ;
80.000.000,đ/tháng x 2 tháng = 160.000.000,đ;
50.000.000,đ/tháng x 7 tháng = 350.000.000,đ.
Cộng tiền điện, than, nước: 870.000.000,đ.
4. Chi phí khấu hao:
Thời gian khấu hao của dự án ước định là 7 năm để phù hợp với thời gian
trả nợ vốn vay ngân hàng. Vì vậy, mức khấu hao hàng năm được tính như
sau:
32.850.000.000,đ : 7 năm = 4.692.857.143,đ/năm.
Thực hiện khấu hao mỗi năm 4.693.000.000,đ trong 6 năm đầu; năm
cuối khấu hao 4.692.000.000,đ.
5. Chi phí marketing, bán hàng:
50.000.000,đ/tháng x 12 tháng = 600.000.000,đ.
6. Chi trả lãi vay ngân hàng:
Số tiền vay: 30.000.000.000,đ.
Thời gian trả nợ vay: 7 năm (6 năm đầu, mỗi năm trả nợ gốc số tiền:

4.286.000.000,đ; năm cuối trả nợ gốc: 4.284.000.000,đ).
DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 15


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

Lãi suất vay vốn tạm tính: 12%/năm.
Số tiền trả lãi từng năm cụ thể như sau:
Đơn vị: Đồng.

7. Chi phí điện thoại, văn phòng phẩm:
20.000.000,đ/tháng x 12 tháng = 240.000.000,đ.
8. Chi phí khác:
30.000.000,đ/tháng x 12 tháng = 360.000.000,đ.
Cộng chi phí bình quân năm 55.354.182.857,đ.
4.3. Lãi lỗ:
Lãi (lỗ)

= Doanh thu - Chi phí
= 60.000.000.000,đ - 55.354.182.857,đ = 4.645.817.143,đ.

4.4. Phân tích hoàn vốn:
Kết quả phân tích cho thấy dự án có hiệu quả, có khả năng trả nợ. Trong
thời gian phân tích 8 năm (1 năm đầu tư và 7 năm hoạt động) với lãi suất chiết
khấu 15%/năm, hiện giá thuần (NPV) = 16.700.599.030 đồng; tỷ suất thu hồi nội
bộ (IRR) = 30,7%.

Chương 5: Vay vốn - trả nợ và bảo đảm tiền vay


DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 16


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

5.1. Số vốn vay:
30.000.000.000 (Ba mươi tỷ) đồng.
5.2. Thời hạn vay vốn và trả nợ:
8 năm, trong đó 1 năm ân hạn, 7 năm trả nợ.
Bắt đầu vay từ quý I năm 2014.
Bắt đầu trả nợ từ quý I năm 2015.
Trả hết nợ vào quý IV năm 2021.
5.3. Kế hoạch trả nợ gốc và lãi:
+ Trả gốc: 6 năm đầu, mỗi năm trả 4.286.000.000 đồng, chia đều cho 4 quý,
mỗi quý trả 1.071.500.000,đ. Năm cuối trả 4.284.000.000 đồng, chia đều cho 4
quý, mỗi quý trả 1.071.000.000. Bắt đầu trả từ cuối quý I năm 2015.
+ Trả lãi: trả lãi hàng tháng; bắt đầu trả từ cuối tháng 01 năm 2015. Lãi
trong thời gian ân hạn (năm 2014) được chia đều cho 84 tháng (7 năm), phân bổ
vào các kỳ trả lãi theo kế hoạch.
5.4. Tài sản bảo đảm:
1. Tài sản hình thành sau đầu tư:
Bao gồm toàn bộ tài sản hình thành từ vốn vay, vốn tự có và huy động khác,
giá trị tạm tính theo chi phí đầu tư là 32.850.000.000,đ.
2. Tài sản thế chấp bổ sung:
Quyền sử dụng đất: Giá trị tạm tính khoảng 1.500.000.000 đồng.
Tài sản khác: 1.000.000.000 đồng.
Cộng giá trị tài sản bảo đảm: 35.350.000.000,đ.


Kết luận
Trên đây là dự án của Doanh nghiệp tư nhân Hoa Kiên để đầu tư xây dựng
mới hệ thống xưởng sản xuất, chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu. Qua
DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn

Page 17


Dự án đầu tư: “Chế biến hoa hồi khô và tinh dầu hồi xuất khẩu”

phân tích, chứng minh dự án có hiệu quả, góp phần mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Giải quyết thêm công ăn việc làm cho 50 lao động với mức lương 4 - 6
triệu đồng/người/tháng; góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước (thuế TNDN;
thuế xuất khẩu nếu có).
Việc đầu tư thành công dự án này sẽ góp phần thúc đẩy phát triển vùng
chuyên canh trồng và chế biến loại cây đặc sản Đại Hồi của Xứ Lạng; góp phần
thực hiện thắng lợi chủ trương chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng,
vật nuôi, phát triển kinh tế xã hội vùng nông thôn của Lạng Sơn.
DNTN Hoa Kiên kính đề nghị các ngành, các cấp, các ngân hàng xem xét,
tạo điều kiện về thủ tục, ưu đãi, cho vay vốn để doanh nghiệp chúng tôi đầu tư
thành công dự án theo các mục tiêu đã đề ra.

Văn Quan, ngày 15 tháng 11 năm 2013.
CHỦ DOANH NGHIỆP

Hoàng Tiến Dũng

DNTN Hoa Kiên - Văn Quan, Lạng Sơn


Page 18



×