Tải bản đầy đủ (.doc) (158 trang)

LUẬN án TIẾN sỹ NGHIÊN cứu nội DUNG cơ bản ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA TRONG QUÁ TRÌNH đổi mới ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.25 KB, 158 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa xã hội với tính cách là ước mơ, khát vọng và trở thành lý
tưởng giải phóng của đông đào quần chúng lao động bíap bức bóc lột, hướng
tới một xã hội công bằng… đã xuất hiện từ klhi có chế độ tư hữu, chế độ
người bóc lột người, chủ nghĩa xã hội trở thành trào lưu tư tưởng văn hoá
mang tính nhân văn ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu
trực tiếp mà nhân loại sẽ tiến tới, khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai
đoạn công nghiệp hiện đại và sự ra đời của giai cấp công nhân hiện đại cùng
phong trào công nhân chống giai cấp tư sản ngày càng mạnh mẽ. Chủ nghĩa
xã hội với tính cách một khoa học, xuất hiện trên cơ sở hiện thực kinh tế- xã
hội từ giữa thế kỷ XIX và trở thành vũ khí lý luận của GCCN và nhân dân
lao động trong cuộc đấu tranh tự giải phóng. C.Mác, Ph.Ăng-ghen tiếp theo
là V.I.Lênin đã luận chứng cơ sở chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… khách
quan cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và dự báo về con đường, mục tiêu,
phương pháp và các giai đoạn phát triển cơ bản của chủ nghĩa xã hội cũng
như về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực. chủ nghĩa xã hội
hiện thực ra đời sau cách mạng tháng Mười, Bảy mươi năm qua các nước
XHCN đã đạt được những thành tựu to lớn, đồng thời cũng mắc những sai
lầm nghiêm trọng và hiện tại đang còn khủng hoảng. Để sửa chữa những sai
lầm đó nhiều Đảng Cộng sản đã đề xuất và lãnh đạo công cuộc cải tổ, cải
cách và đổi mới. Ở một số nước, công cuộc cải cách, đổi mới đạt được
những thành tựu quan trọng góp phần củng cố chủ nghĩa xã hội. Nhưng ở
một số nước khác, trong đó có Liên Xô, quê hướng của Cách mạng tháng
Mười, cải tổ đã làm rối loãnh, thay đổi cả phương hướng và bản chất của chế
độ. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó nhưng nguyên nhân cơ bản,


trực tiếp là do sai lầm về đường lối chính trị, thể hiện tập trung nhất là việc
Đảng Cộng sản từ bỏ học thuyết Mác-Lênin- hệ tư tưởng của mình và do đó
tự tước bỏ vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội. Sự phát triển của nhân


loại trên phạm vi thế giới cũng như ở mỗi quốc gia dân tộc, một mặt, phụ
thuộc có tính chất quyết định vào sự phát triển kinh tế - sản xuất; mặt khác,
cũng phụ thuộc rất nhiều vào sự định hướng về mục tiêu, con đường phát
triển của các lực lượng chính trị cầm quyền- sự định hướng chính trị đối với
các quá trình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… của đảng cầm quyền.
Định hướng đúng sẽ góp phần to lớn thúc đẩy lịch sử tiến lên. Định hướng
sai có thể kìm hãm, kéo lùi sự phát triển của lịch sử.
Cuối thế kỷ XIX Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
nhiều người đã đi tìm con đường cứu nước. Kết quả của sự tìm tọi đưa đến
thắng lợi của độc lập dân tộc thuộc về Nguyễn ái Quốc, khi Người tham gia
thànhlập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 và tiếp thu luận cương của
V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Sau 10 năm chuẩn bị về tư tưởng,
lý luận, chính trị và tổ chức, ngày 3-2-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
trên cơ sở chính cương và sách lược vắn tắt, tiếp theo là cương lĩnh chính trị
tháng 10-1930. Định hướng xã hội chủ nghĩa với tính cách định hướng mục
tiêu và con đường phát triển đất nước: độc lập dân tộc gắn với CNXH được
khẳng định. Định hướng XHCN là sự định hướng bằng đường lối chính trị
đúng đắn và nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình
lâu dài của sự nghiệp cách mạng Việt Nam: đó là từ cách mạng DCTS kiểu
mới (tức CMĐTCND) sang cách mạng XHCN không qua giai đoạn TBCN.
Đó là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vai trò
của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và quần
chúng lao động: sự đoàn kết quốc tế với liên bang cộng hoà XHCN Xô Viết,


phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc.
Sự định hướng bằng đường lối chính trị đúng đắn đó là nhân tố trước tiên
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua mọi giai đoạn của nó.
Khi cả nước bước vào thời kỳ quá độ cùng với những thành quả nhất
định, Đảng và Nhà nước ta đã mắc những sai lầm trên một số vấn đề chiến

lược, bao gồm xác định mục tiêu và bước đi cụ thể của thời kỳ quá độ, cùng
với sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn. Do đó nước ta lầm vào cuộc khủng
hoảng kinh tế- xã hội. Qua nhiều bước tìm tòi Đại hội VI Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta và xác định rõ:
đổi mới để xây dựng đất nước tiến lên CNXH là yêu cầu khách quan, bức
thiết, là vấn đề sống còn của CNXH ở nước ta. Sau 5 năm đổi mới chúng ta
đã đạt được một số thành tựu ban đầu rất quan trọng. Đại hội VII của Đảng
đã rút ra những bài học kinh nghiệm. Bài học thành công đầu tiên có tính
tổng quát là: "Đảng ta luôn giữ vững sự định hướng xã hội chủ nghĩa trong
quá trình đổi mới", đó là nguyên tắc hàng đầu, thể hiện tập trung tính giai
cấp, tính Đảng Cộng sản trong đổi mới.
"Định hướng xã hội chủ nghĩa" được ghi trong Văn kiện của Đại hội
VII trở thành tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình hoạt động thực tiễn của cả
nước. Song điều đó không có nghĩa là quan niệm về định hướng xã hội chủ
nghĩa đã được hiểu một cách đầy đủ, nhất là khi hàng loạti vấn đề đang nảy
sinh trong quá trình đổi mới. Bên cạnh đó, tình hình thế giới diễn biến rất
phức tạp. CNĐQ thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" rất thâm độci
nhằm lái công cuộc đổi mới theo hướng TBCN. Đã có những biểu hiện mơ
hồ, sai lệch trong nhận thức cũng như trong hành động đến mức thành nguy
cơ đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới - nhất là
trong kinh tế hàng hoá, nhiều thành phần: cơ chế thị trường. Những biểu


hiện sai lệch đó ảnh hưởng đến niềm tin vào CNXH của một bộ phận đảng
viên của Đảng, một bộ phận cán bộ Nhà nước và nhân dân.
Vì vậy, việc nghiên cứu, làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về "Định
hướng xã hội chủ nghĩa" trong quá trình đổi mới là rất cần thiết, có ý nghĩa
lý luận, thực tiễn sâu sắc và cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Định hướng XHCN là một vấn đề mới, có nội dung rất rộng, liên quan

đến rất nhiều lĩnh vực; nhiều ngành khoa học. Do đó nhiều công trình khoa
học (nhất là khoa học xã hội- nhân văn ở các cấp, với mức độ khác nhau đều
đề cập đến vấn đề này. Có thể nêu ví dụ về một số công trình khoa học tiêu
bỉeu là: "Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam" do giáo sư, tiễn sĩ Nguyễn Duy Quý làm chủ
nhiệm; "Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam" do GS, PTS Nguyễn Ngọc
Long làm chủ nhiệm"; Khái lược lịch sử các tư tưởng xã hội chủ nghĩa "do
GS,PTS Trịnh Quốc Tuấn làm chủ nhiệm"; Tìm hiểu di sản tư tưởng, đạo
đức, tác phong Hồ Chí Minh" do PGS, PTS Phạm Ngọc Quang làm chủ
nhiệm"; Sự sụp đổ của Liên Xô và bài học kinh nghiệm" do PTS Nguyễn
Xuân Sơn làm chủ nhiệm. Có một số bài viết trực tiếp đề cập quan niệm về
định hướng xã hội chủ nghĩa như bài: "Định hướng xã hội chủ nghĩa" của
Thiện Nhân (Tạp chí Cộng sản số 2/1992), "Định hướng XHCN vì lợi ích
của nhân dân" của PTS Nguyễn Đức Bách (Tạp chí công tác tư tưởng văn
hoá số 2/1993). "Chủ nghĩa Mác và định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta"
của Lê Huy Phan (Thông tin lý luận số 1/1994). Ngoài ra, còn nhiều tư liệu
trong và ngoài nước liên quan đến những khía cạnh khác nhau của đề tài
này, chẳng hạn: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, sắp xếp lại kinh tế quốc doanh; xây dựng


Nhà nước - pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; đổi mới và chỉnh
đốn Đảng… Tuy vậy, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
cơ bản và có hệ thống vấn đề "định hướng xã hội chủ nghĩa" với tư cách một
luận án PTS khoa học triết học. Đương nhiên, những công trình khoa học đi
trước đều là tư liệu tham khảo quý báu cho luận án này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Thông qua phân tích lịch sử, lý luận và thực tiễn, luận án làm rõ những
nội dung cơ bản của "Định hướng xã hội chủ nghĩa " và những điều kiện chủ
yếu đảm bảo sự định hướng đó ở nước ta trong một chỉnh thể hợp lo gíc và

lịch sử.
Để đạt được mục đích đó, luận án có nhiệm vụ:
1. Làm rõ hai nội dung cơ bản của "Định hướng xã hội chủ nghĩa" là sự
lựa chọn mục tiêu, con đường phát triển của đất nước phù hợp với thực tiễn
cách mạng Việt Nam và xu thế thời đại gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội; là sự định hướng bằng đường lối chính trị đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam với các quá trình phát triển kinh tế, xã hội… theo mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh và hiện thực hoá mục tiêu đó
trong đời sống xã hội. Khẳng định thực chất của sự định hướng xã hội chủ
nghĩa là xác định "Vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vì lợi ích của nhân dân".
2. Làm rõ những điều kiện chủ yếu nhất đảm bảo giữ vững và từng
bước thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết… Xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa và đổi mới hệ thống chính trị mà cốt lõi là xây
dựng Nhà nước - pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là


điều kiện có ý nghĩa quyết định trực tiếp. Và, phát triển kinh tế, đồng thời
xây dựng những quan hệ xã hội lành mạnh là điều kiện cơ bản.
4. Đóng góp mới của luận án
Một là, nêu bật hai nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa
mà thực chất của định hướng xã hội chủ nghĩa là sự định hướng bằng đường
lối chính trị đối với các quá trình phát triển kinh tế, vuh, xã hội,… Từ đó
khẳng định nội dung chủ yếu nhất (thực chất) của định hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình đổi mới là: Đảng Cộng sản Việt Nam cần và có đủ khả
năng lãnh đạo toàn xã hội mà trọng tâm là lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo Nhà
nước trong quá trình xây dựng đất nước đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN,
cho dù phải trải qua nhiều hình thức trung gian, nhiều bước quá độ, quanh co
với tất cả tính phức tạp của nó.

Hai là, làm rõ mối liên hệ biện chứng giữa "định hướng xã hội chủ
nghĩa" với ổn định và phát triển kinh tế - xã hội theo hướng dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Lần đầu tiên nêu những điều kiện chủ
yếu để đảm bảo thực hiện sự định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta bao
gồm hệ thống nhân tố khách quan và chủ quan, những nhân tố kinh tế, chính
trị, xã hội nhằm thực hiện được các mục tiêu đã nêu ở trên trong đời sống
thực tế ở nước ta. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa tính nguyên tắc chiến
lược và sự mềm dẻo về sách lược để đi tới mục tiêu là chủ nghĩa xã hội.
5. Phương pháp của luận án
- Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận
và phương pháp luận chung.
- Kết hợp phương pháp lô gích với phương pháp lịch sử.


- Là luận án triết học trong lĩnh vực chính trị - xã hội, luận án lấy thực
tiễn chính trị của đất nước và thế giới làm cơ sở để làm rõ vấn đề lý luận
trong khuôn khổ mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra (những luận chứng về kinh
tế chỉ như là cơ sở chung nhất nhằm phân tích rõ các vấn đề chính trị - xã
hội mà thôi).
6. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả đạt được trong luận án sẽ góp phần vào công tác nghiên
cứu, giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học; góp phần đi tới thống nhất
về nhận thức và hoạt động thực tiễn trong quá trình đổi mới theo đường lối
của đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Kết cấu của luân án gồm: Mở đầu, hai chương (5 tiết), kết luận,
những phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
1. Định hướng xã hội chủ nghĩa là sự định hướng về mục tiêu và

con đường phát triển của đất nước: gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội
Một hiện tượng xã hội chung trong quá trình phát triển của nhân loại
là trước những "bước ngoặt" lịch sử, thường nảy sinh các khuynh hướng
và nhận thức và hành động khác nhau, thậm chí, trái ngược nhau. Xa xưa,
khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, một mặt, nó đánh dấu bước tiến lớn lao
của lịch sử, mặt khác, chế độ ấy lại làm nảy sinh nhiều hậu quả xã hội do
chế độ tư hữu tạo ra: chế độ người bóc lột người, sự bất công xã hội…
Nhiều người phê phán nó. Có người lại nuối tiếc và muốn trở lại với công
xã nguyên thuỷ được coi như "thời kỳ vàng son" của lịch sử. Cuộc cách


mạng công nghiệp diễn ra từ cuối thế kỷ XVIII sang thế kỷ XIX đem lại
những thành tựu lớn lao về sự phát triển của lực lượng sản xuất, rạo ra
năng suất lao động cao, của cải dồi dào… Đồng thời trong những điều
kiện của chủ nghĩa tư bản, nó cũng làm phá sản hàng loạt những người
sản xuất nhỏ, đẩy họ vào cuộc sống cùng cực, đói rét, lang thang… Một
số người đã phê phán nền sản xuất công nghiệp lớn và muốn trở về với
nền kinh tế sản xuất nhỏ của những người thợ thủ công và nông dân tự
do. Ngày nay, sau 70 năm tồn tại và phát triển, chủ nghĩa xã hội hiện thực
đạt được nhiều thành tựu to lớn thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình lịch sử của
thế kỷ XX.
Nhưng các nước xã hội chủ nghĩa cũng phạm phải nhiều sai lầm và
từ giữa những năm 70 đã thể hiện ngày càng rõ sự trì trệ, khủng hoảng…
Để tiến kịp trào lưu phát triển của thời đại, các nước xã hội chủ nghĩa đã
tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới. Không ít người cộng sản đầy nhiệt
huyết nhưng thiếu hiểu biết hoặc vì lợi ích riêng, tỏ ra nuối tiễ đặc quyền
đặc lợi cũ đã phản đối đổi mới với lý do đổi mới có nghĩa là "mất chủ
nghĩa xã hội". Số khác lại lợi dụng cải tổ cải cách, đổi mới để phủ nhận
sạch trơn chủ nghĩa xã hội, phủ định cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng

Mười. Họ muốn lái đất nước trở về với chủ nghĩa tư bản, thể hiện rõ tính
chất cơ hội và phản bội chủ nghĩa xã hội của họ.
Trước thực trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ở nước ta, Đảng ta đã
khởi xướng quá trình đổi mới bằng những hình thức và bước đi phù hợp
với điều kiện lịch sử của thời đại và của đất nước, thì một số người đã nêu
lên hàng loạt "giả định". Ví dụ những giả định: "giá mà chúng ta không
lựa chọn con đường cách mạng tháng Mười; giá mà chúng ta không lựa
chọn chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội; giá mà sau giải phóng miền


Nam, cứ để cho chủ nghĩa tư bản phát triển thì chúng ta không nghèo,
không khó khăn như thế này v.v. và v.v.
Không nắm được đầy đủ về cái gọi là "cuộc cách mạng nhung" (mà
thực chất là quá trình diễn biến hoà bình" xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu,
một số người nhân danh "đổi mới" đã phê phán Đảng ta là "giáo điều",
"bảo thủ". Họ đòi Đảng ta phải học tập quá trình "dân chủ hoá", "công
khai hoá" ở Liên Xô. Rằng phải "đa nguyên", "đa đảng", "đa đảng". Rằng
Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ độc quyền lãnh đạo, phải từ bỏ chủ
nghĩa xã hội…
Bằng kinh nghiệm chính trị được tích lũy hơn 60 năm đấu tranh cách
mạng kiên cường và bất khuất, Đảng vừa vững vàng, vừa nhạy bén, kịp
thời có những quyết định sáng suốt. Các nghị quyết Trung ương 6, 7, 8
(khoá VI) và toàn bộ Văn kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định chúng ta
tiếp tục công cuộc đổi mới. Nhưng đổi mới không phải là thay đổi mục
tiêu, con đường đã được Đảng và nhân dân ta lựa chọn - con đường xã hội
chủ nghĩa, mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Trái lại, phải từ việc đổi mới một cách đúng đắn những quan niệm về chủ
nghĩa xã hội, đến việc cụ thể hoá những bước đi và hình thức thích hợp
nhằm từng bước thực hiện CNXH ở nước ta với mục tiêu nêu trên. Đổi
mới phải có những nguyên tắc mà nguyên tắc cơ bản đầu tiên quyết định

thành công là: "Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc và CNXH là sự lựa chọn nhất quán của Hồ Chí
Minh, của Đảng và nhân dân. Đó là mục tiêu và con đường phát triển đất
nước ta, phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân ta, phù hợp
với tiến trình phát triển chung của nhân loại trong thời đại ngày nay.


Từ thực tiễn cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo, nhất là từ thực
tiễn sau Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay có thể nêu lên mấy điểm sau đây
như là những căn cứ chủ yếu để chúng ta tiếp tục đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa:
A/ Đảng ta, nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn thực tiễn của đất nước cả về con người và tự nhiên, cả lịch sử và
hiện tại, cả những khó khăn và thuận lợi… chúng ta ngày càng tự
"hiểu mình hơn".
Từ giữa thế kỷ 19, lợi dụng sự thối nát của chế độ phong kiến, thực
dân Pháp đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược và sau ba thập kỷ, chúng
đã đặt được ác thống trị của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nước ta
từ một nước xã hội phong kiến trở thành thuộc địa nửa phong kiến bởi đặc
trưng cơ bản là sự cấu kết giữa CNĐQ với giai cấp phong kiến và tư bản
phản động, Sự áp bức dân tộc gắn liền với sự áp bức giai cấp. Đó là
những điều kiện lịch sử khách quan để sau đó Đảng ta có đường lối cách
mạng, trong đó gắn người dân tộc với giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Đó cũng là mục tiêu, nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam.
Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến không còn phù hợp,
không đáp ứng được yêu cầu mới đó. Điều này giải thích vì sao suốt sáu
thập kỳ trước khi Đảng ta ra đời, nhân dân ta từ Nam ra Bắc liên tiếp
đứng lên chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ của một số quan lại triều
đình Huế, sau đó là dưới ngọn cờ Cần vương đều thất bại. Đó là do tương
quan lực lượng giữa một bên là thế lực phong kiến Việt Nam đang suy tàn

với lực lượng tư sản Pháp đã đặt được ách thống trị ở nhiều nước thuộc
địa trên thế giới.


Đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc
địa quy mô lớn ở Việt Nam đã làm biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội truyền
thống của xã hội phong kiến. Bên cạnh giai cấp địa chủ và nông dân, đã
xuất hiện giai cấp công nhân trong các đồn điền, hầm mỏ và các cơ sở
công nghiệp thành thị. Tầng lớp công, thương và tiểu tư sản thành thị sản
xuất, kinh doanh theo kiểu tư sản đang hình thành. Đã xuất hiện những
lực lượng xã hội mới, với những cuộc đấu tranh mới bằng những phương
pháp và hình thức mới. Cách mạng tư sản Pháp, cách mạng Tân Hợi
Trung Quốc, cuộc Duy tân Minh trị ở Nhật Bản: chiến tranh thế giới lần
thứ nhất, đặc biệt là cách mạng XHCN Tháng Mười năm 1917 với sự ra
đời của Nhà nước Xô Viết đã ảnh hưởng mạnh đến nước ta. Một phong
trào mới hình thành - phong trào dân tộc - dân chủ theo khuynh hướng tư
sản với những đại biểu nổi tiếng như Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu.
Khi xã hội Việt Nam đã xuất hiện giai cấp công nhân, khi giai cấp tư sản
đã bộc lộ tính chất phản động rõ rệt ở giai đoạn ĐQCN, khi cách mạng
XHCN Tháng Mười Nga đã thành công với một xã hội mới đã ra đời thì
phong trào dân tộc - dân chủ tư sản thất bại ở nước ta cũng là điều hiển
nhiên. Đó là thất bại của giai cấp tư sản Việt Nam sinh ra ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, nhỏ bé về kinh tế, non kém về chính trị, cải
lương về tư tưởng và chỗ dựa của nó là giai cấp tư sản nước ngoài đã bộc
lộ tính phản động, thể hiện rõ nhất trong chính sách thực dân kiểu cũ dã
man, tàn bạo mà nhân dân Việt Nam đang phải chịu đựng.
Sau 10 năm bôn ba tìm đường cứu nước (1911-1920) Nguyễn ái
Quốc nhận ra rằng: Ở đâu nhân dân các nước thuộc địa cũng đều sống
trong những tình cảnh tồi tệ nhất về mọi mặt. Người đi đến kết luận: nhân



dân các nước thuộc địa phải được giải phóng mới cứu được nhân loại và
nhân loại mới phát triển được.
Đến nước Pháp và nước Mỹ, nơi các cuộc cách mạng tư sản được
thực hiện triệt để nhất, nơi nảy sinh những bản tuyên ngôn nổi tiếng về
"nhân quyền" và "dân quyền", Người lại nhận ra đó là những nước bóc lột
các nước thuộc địa một cách dã man, tàn bạo nhất. Và ở ngay chính các
nước Pháp, Mỹ, những người lao động, công nhân, nông dân vẫn là những
người làm thuê bị tư bản bóc lột nặng nề. Cảm tưởng đầu tiên của Nguyễn
ái Quốc là: "Nước Pháp đi khai hoá văn minh mà vẫn còn nhiều người
nghèo khổ, Mỹ tuy rằng cách mạng thành công đã hơn 100 năm nay,
nhưng công nhân vẫn cực khổ.. còn Pháp cách mệnh đã 4 lần mà công,
nông hẳn còn phải mưu cách mạng một lần nữa mới mong thoát khỏi vòng
áp bức" (3-2, tr.242 và 247).
Năm 1919 các năng suất thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ
nhất họp ở Véc- Xây để chia lợi. Tổng thống Mỹ Uyn-Xơn đưa chương
trình 14 điểm về quyền tự quyết các dân tộc. Tại Hội nghị này, Nguyễn ái
Quốc đưa yêu cầu 8 điểm và đã bị bác bỏ. Người lại nhận xét "cách mạng
Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mạng tư sản, cách mạng
không đến nơi. Tiếng gọi là cộng hoà và dân chủ kỳ thực trong thì tước
đoạt nhân dân, ngoài thì áp bức thuộc địa" chủ nghĩa Uyn -Xơn chỉ là một
trò bịp bợm lớn" (3-2, tr. 223). "Chỉ có bản thân nỗ lực đấu tranh mới
mong giải phóng được" (3-2, tr. 216). "Cách mạng Việt Nam hãy nhớ lấy
điều đó". Tóm lại, vào thời kỳ lịch sử ấy, Việt Nam không thể lựa chọn
con người cách mạng tư bản và cũng không thể trông cậy vào sự giúp đỡ
của giai cấp tư sản quốc tế. Phải lựa chọn con đường khác.


Cách mạng Tháng Mười năm 1917 thắng lợi tạo ra cao trào cách
mạng trên khắp thế giới. Sự ra đời của một loạt Đảng Cộng sản ở châu Âu

và Quốc tế III đã giúp cho Nguyễn ái Quốc tiếp xúc với cách mạng Tháng
Mười và chủ nghĩa Lê-nin, trước hết là "Cương lĩnh về vấn đề dân tộc và
thuộc địa". Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, Quốc tế III và chủ
nghĩa Lênin có điểm chung là: ủng hộ sự nghiệp giải phóng của nhân dân
các nước thuộc địa, đều coi phong trào giải phóng dân tộc của các nước
thuộc địa là bộ phận của phong trào công nhân thế giới, cách mạng dân
tộc là bộ phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khẩu hiệu do Lênin nêu
ra: "Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại "đáp ứng
đúng nguyện vọng của đa số nhân dân lao động và yêu cầu của cách mạng
Việt Nam, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Từ chủ nghĩa yêu nước
đến với chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa cộng sản; từ giải phóng dân tộc đến
giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, Nguyễn ái Quốc đã lựa chọn dứt
khoát con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là con đường của cách
mạng Tháng Mười Nga, Người viết: "chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản mới có thể giải phóng các dân tộc bị áp bức". "Chỉ có giải phóng
giai cấp vô sản thì mới giải phóng được các dân tộc; cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp chung của chủ nghĩa cộng sản và cách
mạng thế giới" (3-2, tr. 223).
Sự lựa chọn mục tiêu con đường phát triển cho đất nước của Nguyễn
ái Quốc, tiếp theo là sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận Mác Lênin, lý luận về chủ nghĩa xã hội trong hoạt động thực tiễn phù hợp với
điều kiện lịch sử Việt Nam - chủ nghĩa xã hội đã được đặt trên mảnh đất
hiện thực Việt Nam, đã được thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh là


một sự lựa chọn đúng đắn. Những cột mốc lịch sử của cách mạng Việt
Nam hơn 60 năm qua do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo vừa là những
thực tiễn chứng minh sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa vào năm
1930 của Đảng và dân tộc ta là đúng. Đó là những "nấc thang" lịch sử
củng cố vững chắc sự lựa chọn đó. Hiện nay công cuộc đổi mới đạt được

những thành tựu ban đầu nhưng rất quan trọng không chỉ nhân dân trong
nước mà còn được nhân dân thế giới thừa nhận: sự ổn định về chính trị, sự
phát triển của kinh tế, đời sống của nhân dân được cải thiện,; quyền làm
chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực được tôn trọng và phát huy ngày càng
rộng rãi; quan hệ đối ngoại càng mở rộng đã đưa đất nước ta hoà nhập vào
trào lưu tiến bộ của nhân loại. Ý nghĩa quan trọng của những thành tựu
đổi mới thể hiện tập trung ở những điểm sau: 1) Đảng ta đã lựa chọn
hướng đi đúng, tìm được những biện pháp và những hình thức đúng,
đường lối đổi mới của Đảng là đúng. 2) Thực tế đã chứng minh rằng:
Đảng ta hoàn toàn có khả năng đưa đất nước ta vượt qua cuộc khủng
hoảng kinh tế -xã hội và lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước phồn
vinh. 3) Niềm tin của nhân dân đối với Đảng và với chế độ được giữ vững
và nâng cao. 4) Bằng những thành tựu trên mà nhân dân ta đã có thể vượt
qua những cơn bão táp của thời kỳ 1989-1991 để tiếp tục vươn lên trong
những năm tiếp theo.
Tất cả những thắng lợi đó đều bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của
Đảng ta là: kiên trì mục tiêu và con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng và
nhân dân ta đã chọn. Chính sự định hướng đi đúng đắn cho đất nước với
mục tiêu nhất quán "độc lập dân tộc gắn với CNXH" đã trở thành ý chí và
hành động của toàn dân tộc, trở thành động lực của toàn bộ quá trình phát
triển của cách mạng Việt Nam. Đảng ta luôn vững vàng trước những bước


ngoặt của Đảng đã tổng kết: Không có gì nguy hại hơn là dao động và sai
lầm trên những vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ bản. Nguyên tắc cơ bản và
chung nhất của sự phát triển của nước ta là nhất quán về con đường và
mục tiêu XHCN.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn có sai lầm, trong
đổi mới hiện nay cũng nảy sinh nhiều vấn đề rất mới, rất phức tạp. CNXH
ở nhiều nước bị thất bại. CNĐQ thực hiện chiến lược "diễn biến hoà

bình". Chúng ta lại có nhu cầu mở cửa hoà nhập vào trào lưu phát triển
chung của thời đại. Đặc biệt khi Mỹ bỏ cấm vận, vốn, kỹ thuật, hàng hoá,
tư tưởng và lối sống phương Tây tràn vào và ở trong nước các lực lượng
phản động đang ngóc đầu dậy. Các phần tử cơ hội lợi dụng xu hướng "dân
chủ hoá" trong quá trình đổi mới đòi "đặt lại nhiều vấn đề". Họ đòi đánh
giá lại toàn bộ những sự kiện và các nhân vật lịch sử. Họ coi lịch sử dân
tộc hơn 60 năm qua do Đảng ta lãnh đạo như là một sự lầm lạc bắt nguồn
từ việc Nguyễn ái Quốc đưa chủ nghĩa Mác-Lênin về quá sớm khi đất
nước chưa đạt tới trình độ văn minh để tiếp thu học thuyết đó. Từ đó họ
biến tất cả những thành tựu cách mạng 60 năm qua (đã đi vào lịch sử dân
tộc như là mốc đánh dấu những bước tiến và được thế giới ghi nhận như
là những đóng góp lớn lao thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại), thành cả
một chuỗi những sai lầm. Đó cũng là một nhân tố tác động tạo ra nguy cơ
chệch hướng XHCN trong quá trình đổi mới.
Vì vậy, trong quá trình đổi mới phải luôn đấu tranh chống khuynh
hướng hữu khuynh xa rời vấn đề căn bản về mục tiêu và con đường xã hội
chủ nghĩa. Phải bác bỏ những quan điểm phủ nhận sạch trơn những thành
tựu mà giá trị của nó đã trở thành chân lý lịch sử, những thành tựu được
tạo ra bằng mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của biết bao thế hệ người


Việt Nam, mà không có những thành tựu ấy thì hôm nay chúng ta chẳng
có gì để mà đổi mới. Mặt khác cũng phải chống khuynh hướng bảo thủ,
giáo điều, ấu trĩ tả khuynh. Cả hai khuynh hướng này đều tồn tại trong xã
hội ta. Không thể lẫn lộn tính nguyên tắc, lập trường kiên định với tính
bảo thủ, giáo điều, trì trệ, sơ cứng. Cũng không thể lẫn lộn tính năng động
sáng tạo theo tinh thần đổi mới với sự tuỳ tiện, khuynh hướng, cơ hội tự
do tư sản.
B/ Đảng ta, nhân dân ta ngày càng hiểu sâu sắc hơn những vấn đề
mới của thời đại ngày nay

Một trong những quan điểm mang ý nghĩa phương pháp luận khoa
học của Lênin để phân tích về thời đại và quá trình phát triển lịch sử của
mỗi quốc gia là quan điểm sau đây:
"Chúng ta đang sống ở khoảng giao thời của hai thời đại, và muốn
hiểu được biến cố lịch sử có ý nghĩa lớn lao đang diễn ra trước mắt chúng
ta, thì trước hết phải phân tích những điều kiện khách quan của bước
chuyển từ thời đại này sang thời đại kia… Chỉ có trên cơ sở xem xét
những đặc điểm chủ yếu của những thời đại khác nhau (chứ không phải là
lịch sử cá biệt của mỗi nước) thì chúng ta mới có thể định ra đúng đắn
sách lược của chúng ta, và chỉ có hiểu biết những đặc điểm căn bản của
một thời đại, chúng ta mới có thẻ tính đến những đặc điểm chi tiết của
nước này hay nước khác" (2-6, tr. 425).
"Những điều kiện khách quan", "những đặc điểm cơ bản" của
"khoảng giao thời của hai thời đại" là rất đa dạng, phức tạp. Ở đây luận án
xin đề cập ba vấn đề cơ bả, quan trọng nhất chi phối sự lựa chọn con
đường và mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


Trước hết về cách mạng khoa học và công nghệ.
Hiện nay có nhiều cách nhận thức và đánh giá khác nhau về cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ. Nhiều người cho rằng, cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ là đặc điểm cơ bản nhất chi phối toàn bộ sự
phát triển của nhân loại. Nó làm thay đổi tận gốc vai trò và phương thức
tồn tại, phương thức hoạt động sống của con người. Họ cho rằng, cuộc
cách mạng này đương nhiên đem lại sự giải phóng con người mà không
cần đấu tranh giáo dục; rằng: cần "gạt bỏ", các vấn đề chính trị ra ngoài
cuộc sống hện nay, vì thế học thuyết Mác - Lênin đã trở thành lạc hậu
trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ v.v..!
Các quan điểm trên xuất phát từ những tiền đề thuần tuý kỹ thuật,
thực chất vẫn là những quan điểm "kỹ tại". Chính các quan điểm có vẻ

khoa học ấy cũng lại mắc vào siêu hình, chủ quan, giản đơn. Bởi vì vấn đề
chính trị - xã hội cũng có qui luật phát triển khách quan của nó. Không thể
"gạt" nó ra ngoài được.
Chúng ta cũng thấy rõ là cách mạng khoa học, công nghệ thúc đẩy
sự phát triển của lực lượng sản xuất với tốc độc rất cao. Nếu lấy chỉ số
phát triển LLSX của năm 1750- năm bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp
- là 1 thì đến năm 1970 (tức là sau 220 năm) chỉ số đó là 1000; bình quân
tăng 4,5% năm. Đặc biệt từ 1970 đến 1990, lực lượng sản xuất của nhân
loại tăng gấp đôi; bình quân hàng năm tăng 10,0%. Trong sự phát triển
nhanh của lực lượng sản xuất, yếu tố đặc biệt quan trọng là năng suất lao
động tăng rất nhanh, chất lượng sản phẩm tốt, mặt hàng đa dạng, phong
phú, mẫu mã đẹp và luôn đổi mới… đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên
của nhân dân theo xu hướng tiến bộ.


Cách mạng khoa học - công nghệ đang đẩy nhanh quá trình xã hội
hoá trên cả hai phương diện: Một là, xã hội hoá các quan hệ kinh tế bao
gồm cả quan hệ sở hữu (kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác, tư nhân, cổ
phần…), cả trong quản lý và trong phân phối. Hai là, quốc tế hoá, nhất
thể hoá trong từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Quá trình nhất thể
hoá châu Âu (trước mắt là Tây -Bắc Âu) với một nền kinh tế thống nhất,
một thị trường thống nhất, một đồng tiền thống nhất, một Quốc hội thống
nhất…, là một thí dụ điển hình của xu thế này. Hiện nay nhiều nơi khác
trên thế giới cũng đang từng bước hình thành các khu vực tương tự như:
khu vực Bắc Mỹ; khu vực Trung Mỹ và cùng biển Ca-ri-bê; khu vực Nam
Mỹ; khu vực châu Phi: vùng châu Á Thái Bình Dương, nội các nước
Đông- Nam - Á, Đông Bắc Á… Xu hướng này tạo ra một cách khách
quan sự phối hợp và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, các dân tộc,
tạo ra cho các nước kinh tế lạc hậu có thể thông qua con đường hợp tác
mà rút ngắn thời gian tiến kịpi các nước phát triển bằng cách hoà nhập

vào trào lưu phát triển chung của nhân loại.
Những thành tựu chủ yếu nói trên của cách mạng khoa học và công
nghệ là thành quả chung của nhân loại. Một mặt, do yêu cầu khách quan
của quá trình còn người cải tạo thiên nhiên nhằm phục vụ cuộc sống con
người: Mặt khác, tạo ra cơ sở vật chất- kỹ thuật thúc đẩy quá trình biến
cải một cách khách quan của quá trình con người cải tạo thiên nhiên nhăm
phục vụ cuộc sống con người; mặt khác, tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật
thúc đẩy quá trình biến đổi một cách khách quan những nhân tố kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội… cho sự nghiệp giải phóng thật sự nhân loại.
Nó sẽ là cơ sở kinh tế kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới. Xã hội
XHCN không thể không dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại. Chính


cách mạng khoa học tạo tiền đề và "môi trường" kinh tế- kỹ thuật cho
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với ý nghĩa, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi: Cách mạng khoa học công nghệ đang
tạo thời cơ cho các nước đang phát triển tiến kịp xu thế của thời đại.
Nhưng sẽ phạm phải sai lầm nghiêm trọng nếu tuyệt đối hoá thành
tựu ấy đến mức kết luận rằng: cách mạng khoa học- công nghệ quyết
định tất cả. Bằng cách mạng khoa học- công nghệ đã xoá bỏ mâu thuẫn và
xung đột giữa các giai cấp và dân tộc; xoá bỏ các quan hệ chính trị- xã
hội… trong thời đại ngày nay. Tự nó, cách mạng khoa học- công nghệ
không mang tính giai cấp, tính dân tộc. Những cuộc cách mạng ấy lại
đang diễn ra trong xã hội vẫn còn đối kháng giai cấp, còn xung đột dân
tộc. Do đó, nó cũng chịu chi phối bởi tính chất. Lợi ích cảu từng giai cấp,
từng dân tộc. Mỗi giai cấp, dân tộc có lợi ích khác nhau, lợi ích cơ bản
đối lập nhau. Vì vậy, những thành tựu của cách mạng khoa học- công
nghệ cũng được sử dụng cao mụcđích khác nhau, những lợi ích khác
nhau. Hiện nay chủ nghĩa tư bản đang thống trị, hoặc chi phối trên phạm

ri rộng lớn, ở những địa bàn trọng yếu của thế giới. Giai cấp tư sản đang
sử dụng những thành tựu của cách mạng khoa học- công nghệ với mục
đích tối thượng là đem lại lợi nhuận tối đa và không ngừng tăng lên chủ
yếu là cho giai cấp tư sản bất chấp những hậu quả nghiêm trọng về xã
hội, môi trường, sinh thái và cả sự tồn tại của nhân loại.
Do năng suất lãnh đạo rất cao, giai cấp tư sản mở rộng quy mô bóc
lột giá trị thặng dự, nhất là bóc lột cải tạo cơ bắp lẫn lao động trí tuệ "theo
chiều sâu" với hiệu quả "nhảy vọt" tăng cường tích luỹ, mở rộng quá trình
tái sản xuất đồng thời với quá trình tăng nhanh lực lượng lao động bị thất


nghiệp. Từ đó tăng nhanh khoảng cách về mức thu nhập và chất lượng
sống giữa giai cấp tư sản và đại đa số người lao động. Cách mạng khoa
học- công nghệ trong xã hội tư sản tiếp tục tái sản xuất, mở rộng quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa với kỹ thuật của nước Mỹ, công nhân chỉ cần
làm việc mỗi ngày 2 giờ là đã tạo ra được giá trịi ngang mức tiền lương
mà giai cấp tư sản trả họ. Nhưng họ vẫn phải làm việc 8 giờ một ngày [23,
tr.5].
Trong chủ nghĩa tư bản, cách mạng khoa học- công nghệ làm phân
hoá ngày càng sâu sắc giầu - nghèo. Ở Mỹ 400 gia đình giàu nhất có vốn
từ 225 triệu đô la trở lên, bình quân 700 triệu đô la. Bên cạnh đó là 35
triêu người nghèo mức thu từ 4-5 ngàn đôlâ/ năm, bình quân 4000 đô
la/tháng. Trong đó thuế thu nhập 10% bằng 40 đô la, tiền thuế nhà 40%
bàng 160 đô la, tiền bảo dưỡng nhà… tiền ăn của một gia đình 2 người chỉ
còn 100 đô la, 35 triệu người nói trên thuộc diện sống dưới mức nghèo
khổ, thiếu ăn triền miên, trong đó có 5 triệu trẻ em dưới 6 tuổi (TTLL số
8-1991, tr. 44). Một địa lý xã hội học mới: người giầy, ngày càng giầu,
người nghèo ngày càng nghèo "Thế giới thứ tư" đang hình thành ngay
trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa phát triển giầu có nhất.
Cách mạng khoa học- công nghệ trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã

thúc đẩy nhanh quá trình phân hoá giầu nghèo giữa các nước, các dân tộc.
Tạp chí Tuần châu Á ngày 23/10/1992 đưa ra số liệu thống kê về thu nhập
quốc dân tính theo đầu người; Thuỵ sĩ: 35.100 đô la, Ca-na-đa 21.500 đô
la, Nhật bản: 27.350 đôla, Mỹ: 22.550 đô la, trong khi đó Nê-pan: 160 đô
la, áp ganistan: 150 đôla. nhiệm vụ nước châu phi dưới 100 đôla/người
(phụ lục số 1). Chênh lệch 350-400 lần. Nó cũng làm thay đổi vị trí của


các nước với tốc độ nhanh. Cuối những năm 80. Liên Xô tụt từ vị trí thứ 5
xuống 55, Hung ga ri từ thứ 8 xuống 28. Tiệp Khắc từ thứ 9 xuống 25…
Quá trình đổi mới khoa học- công nghệ gắn liền với mục tiêu thu
được lợi nhuận tối đa rất dẫn đến quá trình chuyển giao công nghệ cũ, lạc
hậu từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Quá trình ấy
đang dẫn đến tình trạng biến các nước đang phát triển thành các bãi rác
công nghiệp. Trong bài: "Biên giới mền", tác giả Trung quốc Thôi Học
Thuần đã đề cập vấn đề này. Trong cuốn: Làn sống thứ ba" Alvin Toffler
đã viết: "Hầu hết công nghiệp lạc hậu làn sống thứ II được xuất khẩu từ
các nước giàu sang các nước nghèo- các nước được gọi là "đang phát
triển" [50,tr.93].
Với tất cả những nộio dung trình bày trên chúng ta càng thấy rõ
là,Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định một cách đúng đắn
rằng: "Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước,
vừa đạt ra những thử thách gay gắt, nhất là đối với các nước lạc hậu về
kinh tế" [4-2, tr.5]. Cách mạng khoa học- công nghệ đòi hỏi sự cần thiết
có sự định hướng chính trị hợp với yêu cầu tiến bộ xã hội, tăng trưởng
kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội- định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn thời đại đã giúp chúng ta nhận thức một cách đầy đủ hơn
về chủ nghĩa tư bản nói chung và chủ nghĩa tư bản hiện đại. Nhận thức
đúng giúp chúng ta thấy mối liên hệ biện chứng giữa chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế giới ở vào thời kỳ quá độ- thời kỳ

giao thời của hai thời đại.
Đánh giá vị trí lịch sử của chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen
luôn coi chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn tất yếu trong toàn bộ tiến trình
phát triển của nhân loại. Hơn nữa, các ông còn coi đó là bước tiến lớn lao,


một nước nhảy vọt khổng lồ của nhân loại: "Giai cấp tư sản, trong quá
trình thống trị chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra một lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế lực trước
cộng lại"… "giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong
lịch sử (1-1, tr. 547).
Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin cũng luôn
khẳng định chủ nghĩa tư bản tạo ra những nhân tố kinh tế, kỹ thuật, văn
hoá, xã hội… cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. Chúng ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội bằng cách tiếp thu toàn bộ văn minh của nhân loại do chủ
nghĩa tư bản tạo ra với trình độ văn hoá, giáo dục phát triển, khoa học và
kỹ thuật mới nhất, hiện đại nhất. "Chính quyền Xô viết cộng với trật tự
đường sắt phổ cộng với kỹ thuật và cách tổ chức của các tờ rớt ở Mỹ cộng
vớii ngành giai cấp quốc dân Mỹ bằng chủ nghĩa xã hội [2-8,tr.68].
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã và đang tiếp tục đạt được
những thành tựu lớn lao trong sự phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật…
góp phần thúc đẩy sự phát triển của thế giới. "Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" của Đảng Cộng sản Việt
Nam ghi nhận: "Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển
kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học và công
nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh
các hình thức sở hữu và chính sách xã hội" [4-2, tr.7].
Mặt khác, chúng ta cũng cần nhận thức rằng, xã hội tư bản do bản
chất của nó là tồn tại, vận động và phát triển trên cơ sở chế độ tư hữu
TBCN,chế độ người bóc lột người với những đối kháng về lợi ích kinh tế

và xã hội không thể giải quyết được trong khuôn khổ cuả chủ nghĩa tư
bản.


Quá trình tích luỹ nguyên thuỷ, bằng cách bóc lọt tước đoạt, vơ vét
tài nguyên, sức lao động rẻ mạt của nhân dân trong nước và nhân dân các
nước thuộc địa, chủ nghĩa tư bản ra đời trong từng lỗ chân lông của nó đã
thấm đầy máu và nước mắt của những người lao động. Viết điều này tuy
cũ nhưng vẫn là điều đúng phản ánh đúng sự thật và không thừa. Bởi lẽ
nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một trình độ kinh
tế, xã hội rất thấp- trình độ tiền tư bản- làm thế nào để nước ta vừa tạo ra
bước phát triển kinh tế vừa tránh được những hậu quả xã hội đầy đau khổ
cho nhân dân lao động, tránh được mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản.
Suốt bốn thế kỷ tồn tại và phát triển, chủ nghĩa tư bản được ách
thống trị của nó trên toàn thế giới. Nhưng chủ nghĩa tư bản đã không phát
triển ở khắp mọi nơi. Nó chỉ phát triển được ở trên 30 nước thuộc TâyBắc Âu, Bắc Mỹ và gần đây ở một vài nước Đông- Bắc Á và Đông Nam
Á. Sự phát triển này, sự giàu có của họ đã và đang làm cho hợn 100 nước
Á, Phi Mỹ la tinh lâm vào cảnh nghèo nàm, lạc hậu, thậm chí kiệt quệi
như nhiều người đã nhận xét: Một châu Phi đó, một châu Á nghèo và một
châu Mỹ la tinh nợ nần chống chất. Hiện nay có trên 100 triệu trẻ em bị
dói, và cứ mỗi người có khoảng 40 ngàn em bịi chết đói. Hơn 80 nước
đang đứng trước những món nợ kổng lồ, 40 nước không có kinh nghiệm
trả nợ, 17 nước đứng trước khả năng bị phá sản. Đó là một nghịch cảnh
sâu sắc so với những thành tựu của khoa học - kỹ thuật và sự giầu có của
thời kỳ XX (55,tr.18-20).
Chỉ riêng thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc đã gây ra hai cuộc chiến
tranh thế giới và hàng trăm cuộc chiến tranh xâm lược khác, làm cho hàng
chục triệu người đã chết, thương tật và nhiều hậu quả cho đến ngày nay
vẫn chưa khắc phục được. chiến tranh và các cuộc chạy đua vũ trang đã



ném hàng ngàn tỷ đô-la vào việc phát hoại sự phát triển của nhân loại.
Trái lại, dù nhiều nước XHCN đã tan vỡ cũng không ái có thể có những tư
liệu thực tế về những tội ác huỷ diện con người bằng chiến tranh, bằng
nhiều tệ nạn khác… mà lại do các nước XHCN gây ra cho nhân loại.
Dẫu rằng chủ nghĩa tư bản vẫn có khả năng tự điều chỉnh và tiếp tục
phát triển, nhưng những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn
tại, vận động theo quy luật của nó. Phân tích một trong 3 trung tâm và là
trung tâm đứng ở hàng đầu của chủ nghĩa tư bản là Hoa kỳ, trong tác
phẩm "chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa tư bản", tác giả Michel Albert
người Pháp đã nêu bật bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Theo tác
giả, toàn bộ vấn đề đều bắt nguồn từ mục đích của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa là lợi nhuận. Lịch sử lại đang hướng về xu thế làm rõ hơn luận
điểm cơ bản của C.Mác: Khắp nơi trên thế giới người ta lại tái phát hiện
ra tính hợp pháp của lợi nhuận. Đó là linh hồn của chủ nghĩa tư bản… Lợi
nhuận là động cơ duy nhất. Cuộc chạy đua cuồng loạn vì lợi nhuận gây ra
những xử thế đi ngược lại lối điều hành thấu tình đạt lý. Đồng tiền làm
vưa phá hoại mọi đạo lý… cuối cùng lòng hám lợi, lối làm giầu vô liêm
sỉ đã đe doạ toàn bộ kết cấu của xã hội tư sản. Cũng trong tác phẩm này,
tác giả đề cập mâu thuẫn cảu xã hội Mỹ trên lĩnh vực dân chủ, y tế, giáo
dục với sự khái quát trong một tiền đề" trường học ốm đau, sức khoẻ ốm
đau, nền dân chủ ốm đau" [6,tr.55]. Tác giả chỉ ra rằng, ở Mỹ dù bằng
cách nào, trong các cuộc bầu cử cũng thường xuyên vắng mặt 2/3 số cử
tri, là nước có số người đi bỏ phiếu thấp nhất trong các nước phát triển.
Trong lĩnh vực giáo dục, một bên phát triển rất cao cho thiểu số hạn hẹp
với những thành quả rực rỡ về số nhà khoa học, số phát minh sáng chế và
số giải thưởng Nô-ben nhiều nhất cho số ít giầu có; với một bên, là hệ


thống giáo dục tiểu học và trung học tàn tạ cho những người nghèo

[6,tr.55]. Ở các nước ta bản chủ nghĩa, tỷ lệ thất nghiệp thường xuyên ở
mức 10-12% lao động, Ở Pháp và Đức thường có từ 3,5-5 triệu; ở Mỹ trên
dưới 10 triệu; thị trường chung châu Âu thường xuyên có trên dưới 30
triệu người và người ta đã dự tính "trong 18 tháng tới, 19 nước ở Tây Bắc Âu, tỷ lệ thất nghiệp có thể lên tới 20%, khoảng 22 triệu người"
(Theo báo nhân dân, cơ quan Trung ương Đảng, ngày 5/6/1993; ngày
9/8/1993).
Chủ nghĩa tư bản đã có lịch sử vài thế kỷ, nhưng vấn đề thất nghiệp
chẳng những không giảm mà còn tăng, trong khi các nước tư bản không
phải là thiếu khoa học- công nghệ, tiền cửa; và đại đa số các nước đó
không bị chiến tranh làm phương hại về nhiệm vụ mặt. Điều này đủ thờ
gian và thực tế lịch sử để nói rằng: chủ nghĩa tư bản không có mục đích
cuối cùng và không thể giải quyết vấn đề nạn thất nghiệp.
Hiện nay mâu thuẫn giữa các nước nghèo với các nước giầu là biểu
hiện mới của mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa với các nước đế quốc
thực dân. Tuy đã giành được độc lập về chính trị nhưng họ vẫn nằm trong
sự thống nhất của chủ nghĩa đế quốc bằng chính sách thực dân mơí. Họ
vẫn bị bóc lột nặng nề và khoảng cách về sự phát triển giữa hai lại nước
này ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê của liên hiệp quốc cho thấy,
trong "tổng số tư bản" thế giới không phải nhảy từ các nước giàu sang các
nước nghèo, mà là ngược lại. Trung bình mỗi năm, số tiền "chảy" từ các
nước nghèo sang các nước giàu là 50 tỷ đôla. Những nước thu lợi nhiều
nhất là Mỹ, Nhật bản và Tây Âu [55, tr.19]. Con số đó đã một phần lý giải
vì sao các nước nghèo càng nghèo hơn trong quá trình công nghiệp hoá và
nguồn gốc giầu sang của các nước phát triển là từ đâu.


×