mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xớng và lÃnh đạo đà đạt đợc
những thành tựu rất quan trọng. Một trong những thành tựu đó là sự đổi
mới nhận thức về CNXH và con đờng đi lên CNXH ở nớc ta. Đi lên CNXH
từ một nớc còn lạc hậu về kinh tế, tất yếu phải thực hiện sự quá độ gián
tiếp. Để thực hiện sự quá độ gián tiếp đó, đòi hỏi chúng ta phải ra sức tìm
tòi và sử dụng đúng đắn những hình thức kinh tế trung gian, tìm ra những
"chiếc cầu nhỏ" xuyên qua chủ nghĩa t bản nhà nớc để tiến lên CNXH. Do
đó, cần thiết phải tìm hiểu và nghiên cứu khâu trung gian trong sự phát triển
xà hội với tính cách là cơ sở lý luận cho việc xây dựng và phát triển nền
kinh tế quá độ. Nhng, nh Lênin đà nói, đó cũng là vấn đề hết sức khó khăn
và phức tạp.
Trong những năm vừa qua, nhiều nhà khoa học thông qua nhiều đề
tài, chơng trình khoa học khác nhau đà tập trung nghiên cứu vấn đề trên đây
và đà đạt đợc những kết quả nhất định. Việc vận dụng những kết quả nghiên
cứu đó vào thực tiễn đà góp phần vào việc phát triển kinh tế - xà hội, giữ
vững ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân, đa đất nớc ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế - xà hội và bớc vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, không phải mọi vấn đề có liên quan tới việc nắm vững và
sử dụng những hình thức trung gian trong quá trình đổi mới kinh tế hiện
nay đều đà đợc giải quyết. Thực tiễn công cuộc đổi mới - nhất là đổi mới
kinh tế ở nớc ta trong những năm gần đây, những biểu hiện "tả" và "hữu"
khuynh do nhận thức và vận dụng không đúng lý luận về khâu trung gian
vẫn cha hoàn toàn đợc khắc phục. Cho nên, việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu
vấn đề khâu trung gian và vận dụng nó một cách có hiệu quả vào quá trình
1
®ỉi míi kinh tÕ ë níc ta vÉn lµ mét đòi hỏi bức thiết cả từ phơng diện lý
luận lẫn phơng diện thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây đà có một số công trình nghiên cứu, trong và ngoài
nớc đà đề cập tới một số khía cạnh của vấn đề trên. Chẳng hạn: "Vấn đề nhảy vọt
và khâu trung gian trong quy luật chuyển hóa về số lợng thành chất lợng và ngợc lại"
của Giáo s Hồ Văn Thông [88]; "Lịch sử và lôgíc" của Giáo s Lê Hữu Nghĩa [69];
"Vai trò của khâu trung gian trong bớc quá độ lên chủ nghĩa xà hội ở nớc ta" của Giáo s
Nguyễn Ngọc Long [50]; "Vấn đề nhảy vọt trong sự phát triển xà hội và ý nghĩa phơng pháp luận của nó đối với sự nghiệp xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở nớc ta"
của Phó tiến sĩ Cao Văn Thanh [85]; "V.I. Lênin bàn về những khâu trung gian, các bớc và các hình thức quá độ" của Phó tiến sĩ Vũ Văn Thuấn [90]; "Các hình thức kinh
tế quá độ" của Hồng Giao [25]... V.E.Kozlôpxki (Liên Xô): Phép biện chứng của sự
quá độ từ CNTB lên CNXH [33]; A.Liu-bi-nin (Liên Xô): Tính tất yếu và những kiểu
của các hình thức quá độ [47]...
Những công trình nói trên đà ít nhiều đề cập đến bản chất, vai trò,
tính tất yếu của khâu trung gian với tính cách là một yếu tố quan trọng của
phép biện chứng duy vật, phản ánh một trạng thái tồn tại khách quan của sự
chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới trong quá trình nhảy vọt của sự vật.
Đặc biệt, nhiều tác giả đà chỉ ra ý nghĩa lý luận và phơng pháp luận của
khâu trung gian trong hoạt động thực tiễn cách mạng.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn cha có một công trình nào đi sâu nghiên
cứu toàn diện lý luận về khâu trung gian trong sự vận động, phát triển nói
chung cũng nh trong quá trình vận động từ hình thái kinh tế - xà hội này lên
hình thái kinh tế - xà hội khác nói riêng; cũng cha có công trình nào đi sâu
làm rõ vai trò và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết những vấn đề kinh
tế đang đợc đặt ra trong công cuộc đổi mới ở nớc ta. Vì vậy, tác giả đi vào
nghiên cứu vấn đề khâu trung gian trong sự phát triển xà hội và ý nghĩa ph-
2
ơng pháp luận của nó đối với sự nghiệp đổi míi kinh tÕ ë níc ta hiƯn nay
víi mong mn có những đóng góp nhất định về phơng diện lý luận, nhằm
góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới ở nớc ta vì mục tiêu, dân
giàu, nớc mạnh, xà hội công bằng, văn minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là:
Trên cơ sở làm sáng tỏ bản chất và vai trò của khâu trung gian trong sự phát
triển xà hội nhất là trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đề xuất một số vấn đề có ý
nghĩa phơng pháp luận trong việc nhận thức và sử dụng khâu trung gian đối với sự
nghiệp đổi mới kinh tế ở nớc ta hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là:
- Làm rõ bản chất, đặc điểm, vai trò của khâu trung gian trong quá
trình vận động và phát triển nói chung, sự thể hiện của chúng trong quá
trình chuyển hóa từ hình thái kinh tế - xà hội này lên hình thái kinh tế - xÃ
hội khác nói riêng, ®Ỉc biƯt trong lÜnh vùc kinh tÕ.
- Ln chøng sù cần thiết phải vận dụng các hình thức kinh tế trung
gian trong quá trình đổi mới kinh tế nớc ta từ sản xuất nhỏ lên CNXH; làm
rõ tính trung gian của một số hình thức kinh tế; những thành tựu và hạn chế
của việc vận dụng chúng trong quá trình đổi mới vừa qua và những vấn đề
đặt ra hiện nay.
- Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan để đảm bảo định
hớng XHCN trong quá trình nhận thức và vận dụng những hình thức kinh tế
trung gian nhằm tiếp tục thực hiện quá trình đổi mới ở nớc ta.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận án đợc thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp lý luận và phơng
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và những quan
điểm của Đảng ta qua các văn kiện, các tác phẩm, các công trình nghiên
cứu của các đồng chí lÃnh đạo Đảng và Nhà nớc. Ngoài ra chúng tôi cũng
kế thừa thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong vµ ngoµi níc.
3
Trong luận án, tác giả sử dụng tổng hợp các phơng pháp, nhng chủ
yếu là các phơng pháp: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, phơng pháp
tiếp cận hệ thống để nghiên cứu và trình bày.
5. đóng góp mới của luận án
- Luận án đà lý giải tơng đối có hệ thống về bản chất, vai trò của khâu trung
gian trong sự phát triển nói chung, sự phát triển xà hội nói riêng; chỉ rõ vai trò của một
số khâu trung gian trong những bớc quá độ từ hình thái kinh tế - xà hội này lên hình
thái kinh tế - xà hội khác, nhất là đối với bớc quá độ từ CNTB lên CNXH; qua đó vạch
ra ý nghĩa phơng pháp luận đối với việc nhận thức và vận dụng những hình thức
kinh tế trung gian trong quá trình đổi mới kinh tế ở nớc ta hiện nay.
- Luận án cũng đề xuất một số phơng hớng và giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả, đảm bảo định hớng XHCN trong quá trình sử dụng những hình thøc kinh
tÕ trung gian trong nỊn kinh tÕ nhiỊu thµnh phÇn ë níc ta hiƯn nay.
6. ý nghÜa lý ln và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần làm sáng tỏ nội dung vai trò của vấn đề khâu trung gian
trong phÐp biƯn chøng duy vËt vµ ý nghÜa phơng pháp luận của nó đối với quá trình
đổi mới kinh tÕ ë níc ta. Do vËy, kÕt qu¶ cđa luận án có thể đợc sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy triết học, kinh tế học trong các trờng đại
học, cao đẳng và trờng Đảng các cấp.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm
có 3 chơng, 6 tiết.
Chơng 1
khâu trung gian với tính cách là trạng thái tồn tại của sự vật
trong quá trình chuyển hóa về chất
1.1. Vấn đề khâu trung gian trong phÐp biƯn chøng duy vËt
VỊ ph¬ng diƯn lý luận, trong sách báo, khâu trung gian thờng đợc đề cập
đến từ những góc độ khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, khâu trung gian là "mắt
4
khâu" tất yếu của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tợng hay các quá trình, các giai đoạn
phát triển khác nhau của sự vật, hiện tợng. Mỗi sự vật, hiện tợng đều có liên hệ với sự
vật, hiện tợng khác thông qua một sự vật, hiện tợng "ở giữa", làm "cầu nối" để "môi
giới" chúng với nhau. Theo ý nghĩa đó, bất kỳ sự vật, hiện tợng nào cũng là "mắt
khâu" trung gian cho các sự vật, hiện tợng khác kề cận với nó để chúng liên hệ, tác
động qua lại với nhau.
Theo nghĩa hẹp hơn, khâu trung gian (tiếng Nga là , tiếng Anh là
Intermediary Stage) đợc xét đến nh một trạng thái "đặc biệt" nằm trong quá trình
chuyển hóa từ sự vật này thành sự vật khác. Mỗi một sự vật, hiện tợng đều có quá
trình phát sinh, phát triển và mất đi theo qui luật; sự mất đi của sự vật cũ và sự ra
đời của sự vật mới không phải chỉ là sự gián đoạn, mà còn là sự chuyển hóa liên tục
từ sự vật này thành sự vật khác. Do vậy, trong sự quá độ từ chất cũ sang chất mới có
tồn tại trạng thái "đặc biệt", đợc gọi là khâu trung gian. Nó là một vấn đề quan trọng
trong phép biện chứng duy vËt, cã nhiỊu ý nghÜa lý ln vµ thùc tiễn đối với chúng
ta ngày nay.
1.1.1. Khái niệm khâu trung gian
Là một nhà biện chứng kiệt xuất trớc Mác, nhà triết học duy tâm vĩ đại ngời
Đức G.V.Ph. Hêghen (1770 - 1831) đà vạch ra "một cách bao quát và có ý thức những hình
thái vận động chung của phép biện chứng" [59, 35]. Ông cho rằng, sự thay thế, sự phụ
thuộc lẫn nhau của tất cả các khái niệm, sự chuyển hóa của khái niệm này sang một
khái niệm khác, trong sự thay thế, sự vận động vĩnh viễn của những khái niệm đều
phải trải qua sự "trung gian hóa", rằng "Các dạng khác nhau của tồn tại đòi hỏi những
dạng trung gian hóa của chính chúng hoặc chứa đựng trong bản thân chúng những
dạng ấy" [39, 157].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác không chỉ cải tạo phép biện chứng
duy tâm của Hêghen, kế thừa "hạt nhân" hợp lý của nó, mà còn dựa trên những thành
tựu của khoa học tự nhiên, khoa học xà hội để đi đến những quan niệm đúng đắn hơn
về bản chất, vai trò của khâu trung gian đối với sự phát triển của các sự vật, hiện tợng
trong tự nhiên, xà héi vµ t duy cđa con ngêi. ¡ngghen viÕt: "PhÐp biÖn chøng thõa
5
nhận, trong những trờng hợp cần thiết, là bên cạnh cái "hoặc là... hoặc là" "thì có cả
cái "cả cái này lẫn cái kia" nữa, và "thực hiện sự môi giới giữa các mặt đối lập" [57,
696].
Từ những quan điểm trên, bớc đầu cho thấy, vấn đề khâu trung gian có liên
quan mật thiết với sự quá độ từ sự vật này thành sự vật khác. Nói cách khác, khâu
trung gian đợc đề cập ở đây - và cũng là vấn đề đợc các nhà kinh điển chú ý
nhiều - không phải là khâu trung gian bất kỳ, mà là khâu trung gian gắn liền với sự
quá độ từ chất này sang chất khác. Vì vậy, để hiểu đúng bản chất khâu trung gian,
phải xuất phát từ những đặc điểm trong sù biÕn ®ỉi trong kÕt cÊu cđa sù vËt.
Nh chúng ta đà biết, mỗi sự vật, hiện tợng là một hệ thống có cấu trúc phức
tạp, bao gồm các mặt, các yếu tố có liên hệ, tác động qua lại với nhau, tạo nên một
chỉnh thể thống nhất. ở đó, mỗi mặt, mỗi yếu tố tồn tại đều có tính bền vững, có
vai trò độc lập tơng đối với nhau và với toàn bộ hệ thống. Cho nên, chúng có khả năng
chế ớc đối với sự phá hủy sự vật cũ và sự hình thành sự vật mới, làm cho quá trình
chuyển hóa từ sự vật cũ sang sự vật mới không thể diễn ra một cách đột ngột, mà là
một quá trình có khởi đầu và có kết thúc trong không gian và thời gian xác định [85].
Đây là quá trình diễn ra phổ biến với bất kỳ một hình thức vận động nào, cho dù đó
là những vật vô cùng bé, thời gian tồn tại vô cùng ngắn đến một phần triệu giây nh
các hạt cơ bản, thì về nguyên tắc, đều trải qua một quá trình vËn ®éng ®Ĩ sù vËt cị
tõng bíc mÊt ®i, sù vật mới từng bớc ra đời và phát triển.
Bất cứ một sự quá độ nào từ chất cũ sang chất mới cũng đều là một chuỗi liên
tiếp những phủ định của phủ định, đều diễn ra hai quá trình biến đổi ngợc chiều
nhau; là quá trình tan rà cái cũ và quá trình ra đời cái mới mà kết quả cuối cùng là sự
vật mới ra đời thay thế sự vật cũ. Chẳng hạn, đối với sự chuyển hóa của các sự vật
đơn giản nh hiện tợng nớc ở trạng thái rắn chuyển thành nớc ở trạng thái lỏng. Sự biến
đổi về chất với tính cách là trạng thái tồn tại của nớc đợc biểu thị trớc hết bằng quÃng
đờng dịch chuyển của phân tử nớc, và đợc xác định một lợng đặc trng là g. Đối với
nớc ở trạng thái rắn, phân tử nớc có vị trí cố định (ứng với g = 0), còn ở trạng thái lỏng,
6
phân tử nớc dịch chuyển trong cả khối nớc (ứng với g > 0). Quá trình nớc chuyển từ trạng
thái rắn sang trạng thái lỏng, quÃng đờng dịch chuyển biến thiên từ giá trị 0 đến g.
Đối với sự vật phức tạp hơn, nh trong lĩnh vực xà hội chẳng hạn, sự quá độ từ chất này
sang chất khác đợc đặc trng bởi trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và mức độ
xà hội hóa của nền sản xuất; mức độ tăng trởng kinh tế; sự gia tăng chất lợng cuộc
sống...[11].
Mỗi một sự vật là một kết cấu gồm nhiều thành phần, trong đó, các
mặt, các bộ phận cấu thành có liên hệ với nhau ít nhiều bền vững, song
chúng có vai trò, vị trí không nh nhau. Có những mặt, những bộ phận giữ
vai trò thứ yếu, không cơ bản; ngợc lại, có bộ phận, có những mặt lại giữ
vai trò chi phối, ảnh hởng quyết định trực tiếp đến quá trình phát sinh, phát
triển của sự vật. Cho nên, sự biến đổi xảy ra ở những mặt, những bộ phận
này sẽ gây ảnh hởng lan tỏa đến những mặt, những bộ phận khác, chi phối
khuynh hớng vận động của toàn bộ hệ thống. Điều này cũng cã nghÜa lµ,
khi hoµn thµnh sù chun hãa sÏ cã sự đổi mới toàn diện ở cấp độ bản chất;
nhng xét về trình độ, vị trí của sự thay đổi, thì những thay đổi chất ở cấp độ
toàn thể chỉ đợc thực hiện thông qua sự thay đổi ở cấp độ bộ phận. Chẳng
hạn, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế - xà hội trong thời kỳ quá độ diễn ra trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, song những biến ®ỉi trong lÜnh vùc kinh tÕ sÏ cã
vai trß qut định sự biến đổi các lĩnh vực khác của đời sống xà hội, nhân
tố kinh tế đợc hình thành sẽ ảnh hởng trực tiếp đến khuynh hớng phát triển
chung của xà hội.
Kết quả của bất cứ quá trình thay đổi chất nào cũng là cái mới ra đời, thay
thế cái cũ; nhng, ở mỗi giai đoạn cụ thể, khuynh hớng biến đổi của sự vật sẽ trở nên
rất phức tạp, có cả khuynh hớng phát triển đi lên, có cả khuynh hớng thoái bộ, thụt lùi.
Khoa học gọi đây là hiện tợng "thăng giáng quá độ" [11]. Lý do của sự thăng giáng quá
độ, một mặt, do cái mới còn đang "thoát thai" dần khỏi cái cũ, còn rất non yếu, ngợc
lại cái cũ, lúc đầu còn rất mạnh, cản trë sù ph¸t triĨn cđa c¸i míi, khiÕn cho c¸i míi cha
7
khẳng định đợc mình ngay lập tức trong quá trình phát triển. Mặt khác, nh chúng ta
biết, một hệ thống không thể vận hành khép kín, mà chỉ là một bộ phận của hệ
thống lớn hơn bao trùm lên nó. Trong sự quá độ sang chất mới, những biến đổi bên
trong kết cấu hệ thống làm cho sự vật trở nên rất nhạy cảm đối với những tác động từ
bên ngoài. Mức độ nhạy cảm ở đây lớn hơn, bất thờng hơn so với mức nhạy cảm bình
thờng. Điều này làm cho vận động của sự vật trong quá trình biến đổi chất trở nên
phức tạp hơn.
Nh vậy, sự quá độ từ chất cũ sang chất mới là một quá trình đấu tranh và
chuyển hóa phức tạp giữa cái cũ và cái mới, diễn ra bên trong kết cấu của sự vật, làm
cho cái cũ bị loại bỏ từng bớc và cái mới ra đời sau những biến đổi quanh co, trắc trở.
Chính điều đó qui định vai trò, vị trí của khâu trung gian với tính cách là trạng
thái tồn tại tất yếu của sự vật trong sự quá độ từ chất này sang chất khác.
Khâu trung gian có những đặc trng cơ bản sau đây:
Một là, trong khâu trung gian, sự vật trong trạng thái "vừa có cái này, vừa có cái
kia". Nghĩa là, về kết cấu trong sự vật có sự tồn tại đan xen những mặt, những yếu
tố, những bộ phận khác nhau, thậm chí đối lập với nhau của cả sự vật cũ và sự vật
mới. ở đây, sự vật cũ cha mất đi hoàn toàn, còn sự vật mới đang thoát dần ra khỏi sự
vật cũ. Chúng liên kết với nhau, thâm nhập vào nhau, đấu tranh và chuyển hóa sang
chất mới.
Trong quá trình tiến hóa của các giống loài, có nhiều loài mang đặc điểm
của khâu trung gian. Chẳng hạn, quá trình tiến hóa từ bò sát đến lớp chim đà xuất
hiện một loài động vật trung gian là loài chim cổ (chim hóa thạch). Chim cổ vừa
mang đặc điểm của bò sát: đuôi dài (20 đốt), hàm có răng, chi trớc có 3 ngãn, cã
mãng lín, sèng leo trÌo; ®ång thêi, nã vừa mang đặc điểm của chim nh: mình có lông
vũ bao phủ, chi sau 4 ngón... Quá trình tiến hóa từ bò sát thành chim diễn ra hàng
triệu năm, dới ảnh hởng của điều kiện sống, những bộ phận cơ thể mang đặc điểm
của bò sát biến đổi dần về cấu trúc và chức năng thành những bộ phận mang đặc
điểm của loài chim: vảy sừng thành lông vũ, chi trớc thành cánh... Trong "Biện chứng
8
của tự nhiên", Ăngghen đà nhận xét: trong quá trình tiến hóa giống loài, ranh giới giữa
động vật và thực vật, giữa các loài động vật với nhau là hoàn toàn không rõ ràng.
Khoa học đà tìm thấy những loài là khâu trung gian giữa động vật không có xơng
sống và động vật có xơng sống, giữa loài cá và lỡng thể, nghĩa là chúng vừa mang
đặc điểm của loài này, vừa mang đặc điểm của loài khác [57, 696]. Hoặc, một
hiện tợng khác, chẳng hạn, hiện tợng "chết lâm sàng" trong sinh học. Đó là trạng thái
"vừa chết, vừa sống". Trong cơ thể lúc này, tim, phổi ngừng hoạt động, vỏ nÃo bị ức
chế, nhng các bộ phận khác nh tãc vÉn mäc, ruét vÉn co bãp. Thêi kú này kéo dài
khoảng 10 phút, sau đó mới chuyển sang trạng thái chết hoàn toàn - chết sinh học [1,
41].
Hai là, trong khâu trung gian, các yếu tố của chất mới và chất cũ mặc dù tồn
tại đan xen, kết hợp với nhau trong một chỉnh thể, nhng sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập, giữa cái mới và cái cũ vẫn còn gay gắt. Bởi vì, cái mới đang "thoát ra" dần từ
cái cũ, nên lúc đầu còn nhỏ bé và non yếu; ngợc lại, cái cũ lúc đầu còn rất mạnh, nên
còn cản trở sự ra đời và phát triển của cái mới. Hơn nữa, trong lúc cái mới vừa nảy sinh
thì cái cũ, trong một thời gian nào đó, còn mạnh hơn cái mới, cản trở sự phát triển của
cái mới. Sự đấu tranh giữa cái mới và cái cũ trong trạng thái "đặc biệt" ấy làm cho cái
mới ra đời và chiến thắng cái cũ rất khó khăn. Do đó, khuynh hớng phát triển của sự
vật ở khâu trung gian là rất phức tạp, có cả sự thụt lùi, thoái bộ, lẫn sự phát triển tiến
lên. Mặc dù ở khâu trung gian, khuynh hớng vận động của sự vật còn cha ổn định,
còn "chòng chành, nghiêng ngả", nhng mang trong mình tất yếu "thép" của quy luật
khách quan nên cuối cùng cái mới sẽ chiến thắng cái cũ. Chẳng hạn, cuộc cách mạng t sản
Anh, lần đầu thắng lợi vào năm 1649, sau đó đổ vỡ và phải làm lại vào năm 1688 1689, nhng lại tiếp tục thất bại, mÃi đến 1832 (nghĩa là sau 143 năm) mới giành đợc
thắng lợi hoàn toàn. Cuộc cách mạng t sản Pháp cũng có tình hình tơng tự, lần đầu
thắng lợi vào năm 1789, nhng sau đó lại diễn ra cuộc đấu tranh giằng co quyết liệt
giữa giai cấp phong kiến phản động và giai cấp t sản đang lên, cho mÃi tới 82 năm sau,
vào năm 1871 mới giành đợc thắng lợi triệt để. Điều đó nói lên, trong các cuộc cách
9
mạng ấy, cái mới tiêu biểu cho xu thế cách mạng, xu hớng tiến lên, cho dù phải trải qua
những khó khăn, thử thách, song nhất định nó sẽ chiến thắng và trở thành vô địch.
Ba là, trong khâu trung gian có sự thống nhất giữa sự định hớng và sự định
hình. Do mang bản chất của cái tất yếu, cái mới bao giờ cũng thể hiện ra nh là nhân
tố định hớng cho sự phát triển của sự vật ở khâu trung gian. Nhân tố định hớng thể
hiện ở những mặt, những bộ phận đại diện cho xu hớng phát triển của sự vật, có tác
động ảnh hởng "lan tỏa", chi phối sự biến đổi các bộ phận khác. Chẳng hạn, trong quá
trình hình thành và phát triển các hình thái kinh tế - xà hội, nhân tố định hớng tiêu
biểu cho xu thế tất yếu của lịch sử là phơng thức sản xuất đang lên. Phơng thức sản
xuất này sẽ tác động, ảnh hởng đến sự phát triển của các phơng thức sản xuất khác
theo định hớng mà nó chủ đạo. Đồng thời, sự chuyển từ sự vật này sang sự vật khác là
quá trình phá hủy hệ thèng - cÊu tróc cị, x¸c lËp hƯ thèng - cấu trúc mới, sự vật mới
từng bớc đợc định hình. Do đó định hình là một quá trình thông qua việc xác lập,
sự khẳng định từng bớc cái mới, trong đó mỗi một khâu trung gian là hình thức, một
nấc thang của sự định hình - nghĩa là bản thân nó cũng là một định hình, là cụ
thể hóa từng bớc định hớng. Sự định hình trớc tạo tiền đề cho sự định hình sau,
để từng bớc cho cái mới ra đời hoàn toàn. Nói cách khác, quá trình định hình là quá
trình cái mới ngày càng khẳng định trong cuộc sống, bớc đầu là những yếu tố,
những bộ phận tiêu biểu cho xu thế phát triển tất yếu của cái mới, về sau trở thành
hệ thống chỉnh thể - khẳng định nó là nó.
Cái mới không chỉ là nhân tố định hớng cho sự phát triển của sự vật mà còn
là tác nhân cải tạo cái cũ để hình thành cái mới. Nếu ở khâu trung gian, sự vật mới
cha phát triển đầy đủ, cha hoàn thiện thì không có nghĩa chúng cha có tính quy
định nào của chất mới, mà chính ở đây, sự vật đà đợc định hình từng bớc, thông
qua sự phủ định và giải quyết mâu thuẫn.
Từ những đặc trng chủ yếu trên đây, khâu trung gian có thể đợc hiểu là một
trạng thái tồn tại tất yếu của sự vật trong quá trình chuyển hãa tõ chÊt cị sang chÊt míi;
trong ®ã, chÊt cị và chất mới đan xen, thâm nhập vào nhau, đấu tranh víi nhau, th«ng
10
qua đó cái cũ bị lọc bỏ và chuyển hóa thành cái mới.
Để hiểu rõ hơn thực chất của khái niệm khâu trung gian, cần xét mối tơng
quan giữa nó với khái niệm quá độ.
Theo Từ điển tiếng Việt (xuất bản năm 1997) "quá độ" là một sự
chuyển tiếp từ trạng thái này sang trạng thái khác trong quá trình vận động
của sự vật. Theo một định nghĩa khác, quá độ là "khái niệm diễn đạt quá
trình vận động của sự vật không phải trong điều kiện chất thuần túy (hiểu
theo nghĩa tơng đối) mà trong điều kiện đan xen giữa hai chất. Bản chất của
nó là sự kết hợp giữa một chất đang tiêu vong, đang chuyển hóa và chất mới
đang ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố chất cũ..." [85, 19].
Theo chúng tôi, cả hai định nghĩa trên có những điểm hợp lý, đều xem quá
độ là một quá trình vận động của sự vật trong điều kiện đặc biệt để chuyển hóa
từ chất này sang chất khác. Song, hạn chế của định nghĩa thứ hai là cha phân biệt
rõ đợc nội hàm khái niệm quá độ với khái niệm khâu trung gian. Chúng tôi cho rằng,
khái niệm quá độ phản ánh một quá trình vËn ®éng tõ chÊt cị sang chÊt míi cđa sù
vËt, ở đó, chất cũ từng bớc bị phá hủy và chuyển hóa thành chất mới. Sự quá độ nh
vậy bao giờ cũng diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định, đó là thời kỳ
quá độ. Trong lĩnh vực xà hội, thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử diễn ra những
biến đổi về chất của xà hội [99].
Liên quan đến khái niệm quá độ còn có khái niệm "hình thức quá
độ". Một số tác giả coi hình thức quá độ là khái niệm phản ánh một quá
trình khách quan của sự thay thế một sự vật, hiện tợng này bằng một sự vật,
hiện tợng khác [47]. Nhng khái niệm này không phải đơn giản chỉ biểu đạt
một quá trình vận động cụ thể từ chất này sang chất khác, mà còn phản ánh
một trạng thái chun hãa tõ sù vËt cị sang sù vËt míi. Chúng có sự kết
hợp một chất đang tiêu vong nhng cha bị tiêu diệt hẳn và một chất mới đang
phát sinh, nghĩa là về bản chất nó mang đặc điểm của khâu trung gian. Về
phơng diện này, giữa " hình thức quá độ" và " hình thức trung gian" là
11
những khái niệm gần gũi nhau, cho nên, trong sách báo đôi khi ngời ta thờng đồng nhất chúng với nhau.
Sự phân tích trên đây cho thấy, khâu trung gian và quá độ là những khái
niệm có quan hệ mật thiết, "họ hàng" với nhau, nhng không phải là những khái niệm
đồng nhất. Chúng có vai trò nhất định trong cùng một quá trình vận động và phát
triển của sự vật. Nếu " khâu trung gian" là khái niệm dùng để chỉ một trạng thái
đặc biệt trong quá trình chuyển hóa chất này thành chất khác, thì quá độ là khái
niệm dùng để chỉ bản thân quá trình ấy. Khái niệm quá độ nhấn mạnh sự chuyển
hóa từ cái này sang cái khác, khái niệm khâu trung gian nhấn mạnh đến trạng thái sự
vật nằm ở khâu nối liền giữa cái này với cái kia, trong sự liên hệ và chuyển hóa giữa
chúng, nó vừa mang đặc trng của cái này, vừa mang đặc trng của cái kia. Cho nên,
"khâu trung gian" mang tính tĩnh tại hơn, "quá độ" mang tính động hơn. Sự tồn tại
của khâu trung gian là điều kiện cần thiết cho sự quá độ từ chất này sang chất khác.
Nói cách khác, sự quá độ từ chất này sang chất khác phải đợc thực hiện bằng khâu
trung gian, thông qua khâu trung gian.
Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, để tạo ra những biến đổi về chất của bất
kỳ một sự vật, hiện tợng hay quá trình khách quan nào, đều cần phải tuân thủ việc
thực hiện những bớc quá độ, vận dụng những khâu trung gian cần thiết. Việc nôn
nóng, đốt cháy giai đoạn, bỏ qua những khâu trung gian, những bớc quá độ trong quá
trình biến đổi chất của sự vật, hiện tợng sẽ là vi phạm quy luật khách quan của sự
phát triển và, tất nhiên, điều đó không mang lại đợc những kết quả nh mong muốn.
Tuy nhiên, để có thể hiểu rõ hơn thực chất vấn đề khâu trung gian trong sự
phát triển, không thể không tìm hiểu vai trò của nó trong quá trình phát triển, đặc
biệt là gắn với những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
1.1.2. Vai trò của khâu trung gian trong sự phát triển
Vấn đề khâu trung gian là một trong những nội dung quan träng cđa phÐp
biƯn chøng duy vËt; nã liªn quan mật thiết với các qui luật cơ bản và các phạm trù của
phép biện chứng duy vật, mà trớc hết là phạm trù nhảy vọt.
Phép biện chứng duy vật đà vạch ra rằng, chất và lợng là hai mặt kh«ng thĨ
12
tách rời của một sự vật. Sự thay đổi về lợng đến điểm nút sẽ có sự nhảy vọt về chÊt
cđa sù vËt. Bíc nh¶y vät nh vËy, dï diƠn ra dới hình thức nào (bằng con đờng biến
đổi dần dần chất cũ để thay thế dần dần bằng chất mới, hay nhảy vọt đột biến
làm biến đổi sự vật một cách nhanh chóng) đều là quá trình chuyển hóa phức tạp,
diễn ra những biến đổi sâu sắc trong hệ thống cấu trúc của sự vật, có khởi đầu và có
kết thúc trong thời gian.
Nhảy vọt là một giai đoạn đặc biệt trong quá trình phát triển của sự
vật, ở đó "chất cũ bị phá vỡ nhng cha hoàn toàn mất đi và chất mới đang
hình thành nhng cha trọn vẹn". Nhảy vọt, nh vậy, "không phải là quá trình
vứt bỏ giản đơn cái này để có cái kia" [88] mà chính là một quá trình
chuyển hóa nội tại giữa chất và lợng, giữa chất cũ và chất mới. Cho nên,
nhảy vọt bao giờ cũng gắn liền với khâu trung gian.
Trớc đây, có quan điểm đồng nhất khâu trung gian với hình thức nhảy
vọt dần dần. Quan điểm đó cho rằng: "Khâu trung gian là quá trình nhảy
vọt cách mạng, nhng không phải là nhảy vọt lập tức, mà là nhảy vọt dần
dần, từng bớc, từ thấp đến cao, là sự biến đổi liên tục chất lợng cũ, theo thời
gian" [76, 105]. Trớc kia, do trình độ khoa học còn bị hạn chế, cha có điều
kiện tiếp cận những quá trình nhảy vọt mà biến đổi dờng nh diễn ra tức thời,
nên nhiều ngời vẫn lầm tởng rằng, một số hiện tợng chuyển hóa nh từ nớc
đá thành nớc lỏng, từ "sống thành chết" là sự nhảy vọt ngay lập tức và
không trải qua một bớc quá độ, một khâu trung gian nào cả. Thực ra không
phải nh vậy.
Mặc dù giữa nhảy vọt và khâu trung gian có quan hệ mật thiết với nhau, song
lại có vai trò không giống nhau đối với quá trình thay đổi chất của sự vật. Nhảy vọt là
quá trình tất yếu để chuyển hóa chất cũ thành chất mới, trên cơ sở đà tích lũy đủ lợng. Nhảy vọt là sự đứt đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật. Còn khâu
trung gian với tính cách là trạng thái tồn tại của sự vật đang trong quá trình nhảy vọt lại
là điều kiện tất yếu để cho sự nhảy vọt đợc thực hiện. Cho nên, nếu nhảy vọt diễn
13
ra mà không trải qua khâu trung gian thì sự nhảy vọt nh vậy chỉ còn là một "phép
lạ".
Đối với những ngời siêu hình, do chỗ, hoặc là họ tuyệt đối hóa những
biến đổi về lợng, tính chất tiệm tiến, hoặc tuyệt đối hóa những biến đổi về
chất, sự gián đoạn trong sự phát triển, nên tất nhiên họ sẽ không hiểu và không
bao giờ thừa nhận sự tồn tại khách quan cũng nh vai trò của khâu trung gian
trong sự phát triển, trong những bớc nhảy vọt cách mạng, do đó, họ càng
không có khả năng vận dụng chúng vào trong hoạt động thực tiễn cụ thể.
Trên quan điểm duy vËt biƯn chøng, chóng ta cßn thÊy tÝnh chÊt
phong phú, đa dạng của những khâu trung gian trong quá trình thực hiện bớc nhảy vọt từ chất này sang chất khác. Bởi vì:
Thứ nhất, sự vật không phải chỉ có một chất, mà có vô vàn chất, tơng ứng víi
tÝnh nhiỊu chÊt cđa sù vËt sÏ cã nhiỊu qu¸ trình lợng - chất khác nhau. Do đó, quá
trình phát triển các sự vật sẽ diễn ra những bớc nhảy vọt khác nhau: Có bớc nhảy vọt lớn
(tơng ứng với chất lớn, toàn thể) và có những bớc nhảy vọt nhỏ (tơng ứng với chất nhỏ,
bộ phận). Vì vậy, quá trình phát triển từ chất này sang chất khác sẽ phải thông qua
nhiều khâu trung gian khác nhau.
Thứ hai, nhảy vọt là một quá trình, điều đó có nghĩa là chúng sẽ phải trải qua
nhiều giai đoạn quá độ, những nấc thang phát triển khác nhau; tuy nhiên việc trải qua
những nấc thang nào, điều đó tùy thuộc bản chất, điều kiện cụ thể của mỗi sự vật.
Về nguyên tắc, giữa sự vật mới và sự vật cũ càng khác xa nhau về trình độ phát triển
thì càng phải trải qua nhiều giai đoạn quá độ và phải thông qua nhiều khâu trung
gian khác nhau để chuyển tiếp. Trong hoạt động sống hàng ngày, có thể chúng ta
nhận thức đợc hay cha nhận thức đợc, vận dụng đợc hay cha vận dụng đợc những
khâu trung gian thì điều đó cũng không quan trọng lắm, song, đối với sự nhảy vọt
trong những lĩnh vực nh cách mạng xà hội hoặc nh trong thế giới vi mô, thì việc
nhận thức và vận dụng khâu trung gian lại trở nên có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Khâu trung gian không chỉ có vai trò trong sự nhảy vọt từ chất này
14
sang chất khác, mà còn đóng vai trò không thể thiếu đợc trong quá trình
giải quyết mâu thuẫn của các sự vật, hiện tợng.
Mỗi một sự vật, hiện tợng là một thể thống nhất biện chứng của các
mặt đối lập; trong đó, chúng vừa nơng tựa, vừa gắn bó với nhau, giả định
lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm điều kiện tồn tại cho mình, đồng thời,
vừa triển khai theo hớng ngợc chiều nhau, đấu tranh gạt bỏ lẫn nhau. Sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập sẽ dẫn đến chỗ mâu thuẫn đợc
giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Cơ sở khách quan cho sự tồn
tại của khâu trung gian đợc qui định ngay trong sự tác động, chuyển hóa và
giải quyết mâu thuẫn.
Xuất phát từ lập trờng duy tâm khách quan, Hêghen đà trình bày một cách sinh
động phép biện chứng của quá trình phát sinh, phát triển và giải quyết mâu thuẫn
của "ý niệm" qua ba giai đoạn phát triển: Trong "Bút kỹ triết học" Lênin khái quát:
Đồng nhất - khác nhau - mâu thuẫn [39, 142]. ở giai đoạn mâu thuẫn, các mặt đối
lập ở tình trạng loại trừ nhau đến mức gay gắt cần phải đợc giải quyết. Hình thức
lôgíc của sự giải quyết này là phạm trù căn cứ, nghĩa là mâu thuẫn đợc giải quyết
trong căn cứ (một cách giải quyết duy tâm theo quan điểm của Hêghen). "Căn cứ" chứa
đựng cả sự đồng nhất, cả sự khác biệt, là sự "điều hòa", sự "dung hợp" mâu thuẫn
[78]. Cải tạo, kế thừa và phát triển phép biện chứng về mâu thuẫn của Hêghen trên
lập trờng duy vật, trong bộ "T bản", Mác đà vạch ra quá trình phát sinh, phát triển và
giải quyết mâu thuẫn trong quá trình vận động của sản xuất hàng hãa trong CNTB.
Tõ c«ng thøc T - H - T', Mác cho rằng: "Sự phát triển của hàng hóa không xóa bỏ đợc
các mâu thuẫn đó nhng lại tạo ra một hình thái trong đó các mâu thuẫn ấy có thể vận
động đợc. Nói chung, đó là phơng pháp giải quyết các mâu thuẫn hiện thực. Chẳng
hạn, đây là một mâu thuẫn: một vật thể không ngừng rơi vào một vật thể khác và đồng
thời cũng lại không ngừng tránh xa vật đó. Hình bầu dục là một trong những hình thái
vận động nhờ nó mà mâu thuẫn ấy đồng thời vừa đợc thực hiện lại vừa đợc giải quyết"
[59, 160]. Theo Mác thì sự "dung hợp" chính là một hình thức giải quyết mâu thuẫn
15
hiện thực, nhng lại đợc Hêghen diễn đạt dới hình thức lôgíc là hợp đề với tính cách là
sự tổng hợp của chính đề và phản đề.
Trong tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên", khi nghiên cứu những
hình thức vận động trong tự nhiên (chẳng hạn, sự tiến hóa của các giống
loài sinh vật), Ăngghen đà cho rằng: "Tất cả các mặt đối lập đều thông qua
những khâu trung gian mà chuyển hóa lẫn nhau" và "thực hiện sự môi giới
giữa các mặt đối lập " [57, 696].
Đặc điểm của quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập khi mâu
thuẫn đà trở nên chín muồi là ở chỗ có "sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt
đối lập này thành mặt đối lập kia" [57, 694]. Nhng, để có thể thực hiện đợc sự
chuyển hóa "từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia", các mặt đối lập lại không thể
tồn tại tách rời nhau, mà phải "dung hợp" với nhau trong những hình thức nhất định. Có
thể coi khâu trung gian là những trạng thái mang mâu thuẫn, trong đó, sự dung hợp của
các mặt đối lập là những tiền đề, những điều kiện khách quan để các mặt đối lập
đấu tranh với nhau, thực hiện "môi giới" cho sự chuyển hóa giữa chúng. Về vấn đề
này, trong "Bút ký triết học", Lênin viết: "Phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng
những mặt ®èi lËp lµm thÕ nµo mµ cã thĨ vµ thêng là (trở thành) đồng nhất, - trong
những điều kiện nào chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau" [39, 116].
Vì vậy, nếu sự chuyển hóa của các mặt đối lập là phơng thức để giải
quyết mâu thuẫn của sự vật, thì khâu trung gian đóng vai trò là những điều kiện
tất yếu để giải quyết mâu thuẫn.
Quan điểm siêu hình thờng tuyệt đối hóa sự đối lập giữa các mặt, các
khuynh hớng bên trong của các sự vật mà không thấy rằng, sự tác động qua
lại của các vật thể tự nhiên, cả thể vô cơ và thể hữu cơ, đều bào hàm cả sự
hài hòa lẫn xung đột, cả sự đấu tranh lẫn sự hợp tác. Do vậy, trong khi tiến
hành giải quyết mâu thuẫn, họ mu toan muốn "thoát khỏi" tình trạng mâu
thuẫn bằng cách can thiệp tiêu cực, vứt bỏ giản đơn một trong các mặt đối
lập của mâu thuẫn, trong khi lại xem mặt kia nh mét chØnh thĨ "phi" m©u
16
thuẫn. Nghĩa là, với việc tự đề ra cho mình vấn đề tự loại bỏ mặt xấu, ng ời
ta đà chặn đứng sự vận động biện chứng rồi. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
không những đà vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, mà còn vạch
ra đợc tính quy luật trong quá trình giải quyết mâu thuẫn. Khi vạch ra cơ sở
lý luận và phơng pháp luận giải quyết mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, Lênin cho rằng, cần phải học ở chủ nghĩa Mác cách "làm thế nào
và khi nào có thể và cần phải thống nhất các mặt đối lập" và "trong thực
tiễn chúng ta đà nhiều lần thống nhất các mặt đối lËp" [43, 259]. Cã thĨ coi
vÊn ®Ị chđ nghÜa t bản nhà nớc nh một mẫu mực của Lênin về sự nhận thức
và vận dụng khâu trung gian để thực hiện sự kết hợp, sự liên hợp giữa nhà
nớc Xô viết, nền chuyên chính vô sản với chủ nghĩa t bản [44, 268], để giải
quyết mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Quan điểm của chđ nghÜa duy vËt biƯn chøng cßn thõa nhËn sù vận động và
phát triển của các sự vật, hiện tợng trong thế giới khách quan là một quá trình liên tục
những sự phủ định của phủ định. Trong quá trình đó, khâu trung gian cũng có vai
trò và vị trí khách quan, tất yếu của nó.
Sự phủ định, theo quan điểm biện chứng không phải là sự xóa bỏ
giản đơn cái này để có cái khác. Sự phủ định nh vËy cã sù liªn hƯ, cã sù
chun hãa lÉn nhau giữa cái cũ và cái mới; cái mới ra đời không phải từ h
vô, mà trên cơ sở kế thừa, lọc bỏ cái cũ để phát triển; còn cái cũ không phải
biến mất một cách ngẫu nhiên, không để lại "vết tích" nào trong quá trình
phát triển. Cho nên, khâu trung gian sẽ đóng vai trò là "mắt khâu" tất yếu
trong quá trình phủ định của phủ định. ở đây, cái cũ và cái mới - cái khẳng
định và cái phủ định nối tiếp, làm thành vòng khâu của những "liên hệ",
những "vòng khâu của sự phát triển".
Sự phủ định của phủ định là quá trình thay đổi chất cũ bằng chất mới,
sự thay đổi ấy tất yếu phải thông qua những khâu trung gian. Trong quá
trình phủ định của phủ định, sự phủ định lần thứ nhất sẽ tạo ra kh©u trung
17
gian giữa cái khẳng định với cái phủ định của phủ định. Bởi vì, về bản chất,
cái phủ định lần thứ nhất vừa có những yếu tố của cái phủ định của phủ
định dới dạng những mầm mống, cái đang phát triển, đồng thời còn có cả
những yếu tố cái cũ, cái bị phủ định đang bị lọc bỏ, đang bị mất đi; thông
qua đó, chúng chuyển hóa cho nhau, ®Ĩ sù vËt míi thay thÕ sù vËt cị. Theo
Hªghen, sự phủ định biện chứng "là một sự vận động thông qua những vòng
khâu khác nhau, là sự trung gian tuyệt đối với bản thân nó" [39, 142].
Trong bộ "T bản", khi phân tích nền sản xuất hàng hóa TBCN, Mác chỉ ra sự
vận động của nền sản xuất này theo công thức T - H - T'. Đó là quá trình phủ định
của phủ định, đồng thời cũng là quá trình đợc thực hiện thông qua khâu trung gian.
Trong công thức trên, t bản ban đầu T phải chuyển thành hàng hóa H dới hình thức
những yếu tố của sản xuất (t liệu sản xuất, sức lao động) - tức là thực hiện sự phủ
định T. Tiếp theo là sự phủ định của T' đối với H để trở về trạng thái ban đầu
trong lu thông, nhng ở trình độ cao hơn. Trong quá trình này, H sẽ là khâu trung
gian trong sự chuyển hóa từ T đến T'.
Nh vậy, phủ định của phủ định là quá trình thông qua khâu trung gian để
thực hiện sự tổng hợp cả cái khẳng định và cái phủ định, để kế thừa và lọc bỏ cái
cũ. Lênin viết: "Đối với luận đề "thứ hai", luận đề phủ định, thì "vòng khâu biện
chứng" đòi hỏi chúng ta phải chỉ ra "tính thống nhất" nghĩa là mối liên hệ của cái
phủ định và cái khẳng định, sự tìm thấy cái khẳng định ấy trong cái phủ định.
Từ khẳng định đến phủ định, - từ sự phủ định đến "sự thống nhất" với cái bị
khẳng định, - không có cái đó, phép biện chứng trở thành một sự phủ định sạch
trơn, một trò chơi hay là chủ nghĩa hoài nghi" [39, 246].
Sự phân tích trên đây cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa các khái niệm "
khâu trung gian", " nhảy vọt", "giải quyết mâu thuẫn" và "phủ định biện chứng", từ
đó làm sáng tỏ hơn bản chất của khâu trung gian. Đồng thời nó cũng khẳng định vai
trò tất yếu của khâu trung gian trong sù chun hãa tõ sù vËt, hiƯn tỵng này đến sự
vật, hiện tợng khác; trong sự nhảy vọt; trong giải quyết mâu thuẫn và phủ định biện
18
chứng. Chính điều đó làm cho các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đặc biệt chú ý
đến vấn đề sử dụng lý luận về khâu trung gian vào việc phát triĨn vµ hoµn thiƯn
thÕ giíi quan duy vËt biƯn chøng vào thực tiễn cải tạo thế giới hiện thực.
Trong khi nghiên cứu giới tự nhiên, việc xác định vai trò của khâu trung gian
đà góp phần định hớng cho các ngành khoa học đi sâu vào nghiên cứu các đối tợng có
tính chất "trung gian" giáp ranh giữa các hình thức vận động, từ đó, làm cho nhận
thức loài ngời về giới tự nhiên ngày càng sâu sắc hơn và đem lại những thành tựu to
lớn hơn cho khoa học và đời sống. Ăngghen cho rằng: "Chính đó là nơi ngời ta phải
chờ đợi những thành quả to lớn nhất" [57, 799].
Trong việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, mà cốt lõi là lý
luận hình thái kinh tế - xà hội, Mác đà vận dụng triệt để lý luận về khâu
trung gian để giải thích sự phát triển của xà hội loài ngời nh một quá trình
lịch sử - tự nhiên. Do vậy, những quan niệm duy vật lịch sử trở nên có sức
sống lâu bền và cã ý nghÜa to lín ®èi víi sù nhËn thøc về cải tạo thế giới
hiện thực của con ngời.
1. 2. Khâu trung gian trong sự phát triển xà hội
1.2.1. Đặc điểm của khâu trung gian trong sự phát triển xà hội
Theo quan điểm mác-xít, xà hội là bộ phận đặc thï cđa thÕ giíi kh¸ch quan,
võa cã sù thèng nhÊt với thế giới tự nhiên, vừa có sự khác biệt với thế giới đó. Vì vậy,
khâu trung gian trong sự phát triển xà hội là bộ phận đặc thù của khâu trung gian
trong sự phát triển của thế giới nói chung. Việc làm rõ những hình thức và đặc
điểm của khâu trung gian trong quá trình phát triển xà hội giúp chúng ta nhận thức
đúng đắn quá trình phát triển xà hội, xác định rõ nội dung, tính chất, hình thức
biểu hiện và khuynh hớng vận động của những hình thức trung gian để vận dụng có
hiệu quả trong quá trình cải tạo xà hội cũ, xây dựng xà hội mới.
Có thể nói, lý luận hình thái kinh tế - xà hội của chủ nghĩa Mác là cơ sở lý
luận và phơng pháp luận để nhận thức bản chất của lịch sử xà hội một cách khoa học
nhất. Đồng thời, nó còn là công cụ để phân tích sự thay đổi của các thời đại lịch sử
19
khác nhau, từ đó, để chúng ta xác định đúng những hình thức và đặc điểm của
những khâu trung gian trong tiến trình phát triển của lịch sử xà hội.
Chủ nghĩa Mác đà vạch ra rằng, sự phát triển của lịch sử xà hội loài
ngời vừa có sự thay thế các hình thái kinh tế - xà hội, đồng thời, lại vừa có
sự phát triển liên tục giữa các hình th¸i kinh tÕ - x· héi Êy. Sù chun hãa từ
hình thái này lên hình thái khác của lịch sử là một quá trình thống nhất giữa
tính liên tục và tính gián đoạn. Đó là quá trình đợc thực hiện thông qua
những khâu trung gian. Vì vậy, Mác viết: "Tôi coi sự phát triển của những
hình thái kinh tế - xà hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên" [59, 21].
Thừa nhận quá trình phát triển tự nhiên của lịch sử là thừa nhận lịch sử xà hội
phải trải qua những nấc thang lịch sử khác nhau, trong mỗi nấc thang ấy có sự hình
thành, phát triển đi lên và có sự suy tàn, vận động đi xuống. Sự nối tiếp, liên tục giữa
giai đoạn suy tàn của nấc thang cũ và giai đoạn hình thành của nấc thang mới đợc
thực hiện bằng mắt khâu trung gian - đó là thời kỳ quá độ giữa các nấc thang phát
triển. Dấu hiệu đặc trng của xà hội ở thời kỳ quá độ là một hệ thống cha ổn định,
sự cùng tồn tại đan xen của các nhân tố tiêu biểu cho cả cái mới và cái cũ [71].
Về mặt kinh tế, xà hội ở nấc thang phát triển hoàn chỉnh, chín muồi
đợc đặc trng bởi một kết cấu kinh tế - xà hội tơng đối thuần nhất, với sự tồn
tại của phơng thức sản xuất đặc trng cho chế ®é kinh tÕ - x· héi (trong mét
sè trêng hỵp còn có các phơng thức sản xuất tàn d và phơng thức sản xuất
mầm mống, trong đó, phơng thức sản xuất đặc trng giữ vai trò thống trị đối
với toàn bộ nền kinh tế). Ngợc lại, ở thời kỳ quá độ, do đang thoát thai từ xÃ
hội cũ, nên kết cÊu kinh tÕ - x· héi cđa nã cha thn nhất, bên cạnh phơng
thức sản xuất mới đang hình thành, vẫn còn tồn tại các phơng thức sản xuất
cũ tàn d. T¬ng øng víi kÕt cÊu kinh tÕ - x· hội của thời kỳ quá độ sẽ là một
kết cấu chÝnh trÞ - x· héi mang tÝnh chÊt trung gian, trong đó các giai cấp,
các lực lợng xà hội có lợi ích khác nhau, thậm chí đối lập với nhau cùng tồn
tại, vì vậy những mâu thuẫn xà hội diễn ra gay gắt hơn. Trong lĩnh vực ý
20
thức xà hội, những yếu tố t tởng, văn hóa, đạo đức, lối sống... tiêu biểu cho
xà hội cũ đang suy tàn và tiêu biểu cho xà hội mới đang phát triển cũng đan
xen tồn tại, tác động đến của đời sống tinh thần xà hội. Mặt khác, do tính
độc lập tơng đối của ý thức xà hội so với tồn tại xà hội, những biến đổi của
các yếu tố tinh thần xà hội cũ diễn ra chậm chạp làm cho chúng tồn tại dai
dẳng hơn, thậm chí mÃi tới khi bớc quá độ về chính trị, kinh tế đà kết thúc.
Đúng nh Mác đà viết: "Truyền thống của tất cả các thế hệ đà chết đè nặng
nh quả núi lên đầu óc những ngời đang sống" [55, 145].
Khái quát lại, đặc điểm của thời kỳ quá độ là kết cấu của đời sống xà hội
không thuần nhất, có sự đan xen, thâm nhập và đấu tranh với nhau giữa các nhân tố
xà hội cũ và mới, do đó, những mâu thuẫn xà hội diễn ra gay gắt. Trong thời kỳ quá
độ, sự phát triển của những nhân tố, những trật tự cũ còn cản trở sự ra đời của cái mới,
đôi khi còn lấn át cái mới, đẩy cái mới vào tình trạng thụt lùi tạm thời, thậm chí phải
làm đi làm lại nhiều lần. Lênin cho rằng, đó là tình trạng có những mảnh vụn của trật
tự cũ đôi khi chất đống lại một cách nhanh chóng, trong khi đó, những mầm mống của
cái mới có khi lại phát triển chậm chạp và không phải bao giờ cũng thấy rõ ngay đợc
[42, 252]. Vì vậy, thời kỳ quá độ là thời kỳ có những cải biến cách mạng dới những
hình thức đặc thù "đặc biệt", và phải trải qua thời kỳ đau đớn, khó khăn, phức tạp
kéo dài. Nói cách khác, thời kỳ quá độ, về bản chất, là hình thức phát triển đặc thù,
đặc trng cho tình trạng trung gian, giao thời trong quá trình chuyển từ nấc thang này
lên nấc thang khác của lịch sử xà hội. Đó là thời kỳ của những chuyển biến cách mạng
cải tạo căn bản đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xà hội.
Mặt khác, xà hội là một cơ thể sống động, bao gồm nhiều yếu tố, nhiều
mặt, nhiều lÜnh vùc cã liªn hƯ víi nhau trong mét chØnh thể và biến đổi không
ngừng. Cho nên, sự thay đổi của mỗi yếu tố, mỗi mặt, từng lĩnh vực cụ thể trong cả
hệ thống xà hội cũng đợc thực hiện thông qua những hình thức đặc thù có tính chất
trung gian. Trên lĩnh vực kinh tế, sự thay đổi các quan hệ kinh tế đợc thực hiện
trong những hình thức kinh tế trung gian, kết hợp những quan hệ cũ và mới, để vừa
21
phát triển lực lợng sản xuất, vừa tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất mới thay thế dần
quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu. Trong lĩnh vực chính trị - xà hội, khâu trung gian biểu
hiện là những hình thức tổ chức chính trị - xà hội, các thiết chế chính trị, các hình
thức tổ chức nhà nớc khác nhau. Những hình thức ấy là thể hiện những mâu thuẫn
và các hình thức giải quyết mâu thuẫn giữa các các giai cấp, các tầng lớp tiêu biểu
cho xà hội cũ với các giai cấp, các tầng lớp tiêu biểu cho xà hội mới đang từng bớc nắm
địa vị thống trÞ x· héi. Trong lÜnh vùc ý thøc x· héi, sự biến đổi của những quan hệ
tinh thần và các hình thái ý thức, t tởng cũng không có những biến đổi đột ngột, mà
bao giờ cũng đợc thực hiện thông qua những khâu trung gian. Hình thức biểu hiện
của chúng bao gồm: hệ thống pháp quyền, các qui phạm đạo đức, các thiết chế văn
hóa, lối sống... trong đó, những yếu tố của đời sống tinh thần xà hội cũ và mới quyện
chặt với nhau.
Sự phân tích trên cho thấy, khâu trung gian biểu hiện trong sự phát
triển xà hội tồn tại với những hình thức đa dạng, nhiều mặt, nhiều cấp độ
khác nhau. Trên bình diện kết cấu của toàn bộ hệ thống xà hội, thời kỳ quá
độ từ hình thái kinh tế - xà hội này lên hình thái kinh tế - xà hội khác là một
khâu trung gian. Lịch sử xà hội loài ngời đà trải qua bốn hình thái kinh tế xà hội: Cộng sản nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, T bản chủ
nghĩa và ngày nay đang quá độ lên hình thái kinh tÕ - x· héi Céng s¶n chđ
nghÜa. Nh thÕ, lịch sử xà hội đà trải qua bốn khâu trung gian khác nhau,
chúng có những đặc trng riêng do những đặc điểm lịch sử cụ thể của các
hình thái kinh tế - xà hội quy định. Thời kỳ quá độ là quá trình cải biến
cách mạng lâu dài, do đó, phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển từ thấp
lên cao. Mỗi giai đoạn lại có đặc điểm thể hiện tính chất trung gian khác
nhau, nhng theo xu hớng giảm dần sự khác biệt và tính chất phức tạp, hớng
tới sự thuần nhất về cấu trúc, hoàn thiện về hệ thống và sự phát triển ổn
định, vững chắc hơn. Mặt khác, lịch sử xà hội không chỉ có những bớc
chuyển tuần tự qua từng nấc thang phát triển, mà đôi khi, trong những hoàn
22
cảnh lịch sử nhất định, lại có những bớc "bỏ qua" một số nấc thang phát
triển để tiến lên. Trong trờng hợp đó, thời kỳ quá độ không chỉ kéo dài hơn,
mà còn đặc biệt phức tạp, do kết cấu xà hội mang nhiều yếu tố hơn, không
những của xà hội xuất phát, xà hội hớng tới mà cả của xà hội bỏ qua. Về
nguyên tắc, xà hội càng cách xa nhau về trình độ phát triển, thì nội dung,
tính chất của các khâu trung gian càng phức tạp, hình thức càng đa dạng,
vai trò càng quan trọng hơn. Xét sự biến đổi về chất trên từng mặt, từng lĩnh
vực trong xà hội của thời kỳ quá độ, chúng ta thấy rằng, sự thay đổi về chất
ở từng mặt, từng lĩnh vực đó cũng đợc thể hiện và đợc thực hiện thông qua
những khâu trung gian với những hình thức biểu hiện khác nhau. Nếu hình
dung mỗi thời đại lịch sử quá độ nh một "cây cầu" nối tiếp từ nấc thang này
lên nấc thang khác, thì "cây cầu" ấy phải bao gồm nhiều tuyến và nhiều
nhịp cầu khác nhau ®Ĩ thùc hiƯn sù chun tiÕp.
Kh©u trung gian trong sù phát triển xà hội mặc dù hết sức đa dạng, phong phú
và phức tạp, nhng chúng đều có những đặc ®iĨm sau ®©y:
Thø nhÊt, trong lÜnh vùc x· héi, kh©u trung gian là kết quả hoạt động có ý
thức của con ngêi, biĨu hiƯn mèi quan hƯ gi÷a con ngêi với nhau trong quá trình hoạt
động của họ. Sự khác nhau cơ bản giữa tự nhiên và xà hội là ở chỗ, xà hội là sản phẩm
của sự tác động lẫn nhau giữa những con ngời. Trong xà hội, nhân tố hoạt động là con
ngời có ý thức, có ý chí theo đuổi những mục đích của mình. Cho nên, sự khác nhau
giữa tự nhiên và xà hội là sự khác nhau về chất. Nói đến "chất" xà hội là nói đến
"tính khách quan của những mối quan hệ của con ngời, thông qua các hoạt động của
con ngời với môi trờng xà hội, các quan hệ của con ngời trong lÜnh vùc vËt chÊt, quan
hƯ cđa con ngêi trong lĩnh vực tinh thần, quan hệ giữa cá nhân với nhau và quan hệ
giữa cá nhân với xà hội" [31, 48]. Sự thay đổi chất trong xà hội chính là thay đổi tính
chất các mối quan hệ xà hội nói trên. Trong tự nhiên, khâu trung gian đợc thực hiện bởi
những nhân tố vô ý thức, còn trong lĩnh vực xà hội, con ngời với ý thức của mình là
nhân tố nội tại của khâu trung gian. Khâu trung gian trong sự phát triển xà hội là sự thống
23
nhất giữa điều kiện, khuynh hớng phát triển khách quan của xà hội với nhân tố chủ
quan. Trong đó, nhân tố chủ quan có vai trò tạo điều kiện cho sự chín muồi của
những mâu thuẫn và sự giải quyết chúng, quy định phơng hớng, phơng thức giải quyết
mâu thuẫn; quy định phơng thức, phơng hớng của các bớc nhảy vọt trên cơ sở tạo ra
những điều kiện khách quan cho sự tích lũy không ngừng về lợng; đồng thời, nhân tố
chủ quan quy định phơng thức lọc bỏ, kế thừa cái cũ để phát triển cái mới trong quá
trình phủ định biện chứng. Nói cách khác, hoạt động của con ngời tham gia vào cơ
chế chuyển hóa về chất trong xà hội. Cho nên, nhân tố chủ quan đóng vai trò là nhân
tố định hớng và định hình của những khâu trung gian trong sự phát triển xà hội.
Đặc điểm trên cho thấy, trong khi tiến hành những cải biến cách
mạng không chỉ đòi hỏi phải nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy
luật của hiện thực khách quan, mà còn phải biết phát huy vai trò nhân tố
chủ quan, chủ động, tự giác vận dụng những khâu trung gian, các bớc quá
độ để rút ngắn thời kỳ "đau đẻ" kéo dài. Mác viết: "Một xà hội, ngay cả khi
đà phát hiện đợc quy luật tự nhiên của sự vận động của nó... cũng không thể
nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ
những giai đoạn đó. Nhng nó có thể rút ngắn - làm dịu bớt đợc những cơn
đau đẻ "[59, 21].
Có thể coi đây là đặc điểm của sự phát triển xà hội nói chung, nhng nó còn
khẳng định một trong những đặc trng bản chất nhất của khâu trung gian trong sự
phát triển xà hội, nói lên sự khác nhau căn bản về chất giữa khâu trung gian trong tự
nhiên và khâu trung gian trong xà hội.
Thứ hai, về mặt kết cấu, khâu trung gian trong xà hội là những hình thức
đặc biệt của sự phát triển xà hội, đặc trng cho thời kỳ diễn ra những thay đổi dẫn
tới phá vỡ hệ thống các yếu tố, c¸c quan hƯ x· héi cị, thiÕt lËp hƯ thèng mới, trong đó,
cái mới và cái cũ kết hợp với nhau, thúc đẩy sự tiêu vong của những yếu tố, những quan
hệ xà hội cũ và sự ra đời của những yếu tố, các quan hệ xà hội mới, đảm bảo tính liên
tục trong sự phát triển xà hội. Sự phát triển xà hội đợc thực hiện thông qua những h×nh
24
thức nhất định. Trong điều kiện chín muồi, hoàn thiện của nó, mỗi hình thức của
sự phát triển xà hội đợc đặc trng bởi một kết cấu các quan hệ xà hội có cùng bản chất,
còn trong sự biến đổi từ nấc thang (hay trình độ) này lên nấc thang (hay trình độ)
khác, kết cấu của những hình thức phát triển xà hội lại bao gồm những quan hệ xà hội
không cùng bản chất, trong đó, những quan hệ xà héi cị ®ang chun hãa tõng bíc
sang quan hƯ x· hội mới.
Quy luật khách quan của lịch sử đợc biểu hiện cụ thể, nhiều vẻ trong
các hình thức phát triển xà hội [69, 89], thông qua những mối quan hệ xÃ
hội cụ thể. Khác với các hình thức phát triển xà hội trong những giai đoạn
phát triển chín muồi, những hình thức phát triển xà hội trong những bớc quá
độ lại có sự tác động đồng thời của các quy luật thuộc cả xà hội cũ đang
mất đi và thuộc cả xà hội mới đang hình thành. Tuy nhiên, sự biểu hiện và
vai trò của những quy luật thuộc xà hội cũ không còn nh trớc, sự tác động
của quy luật thuộc xà hội mới cũng không hoàn toàn nh trong xà hội tơng
lai, khi xà hội đó đà đợc xây dựng xong. Chính vì vậy, việc nhận thức
những quy luật xà hội ở khâu trung gian là hết sức khó khăn, nhng lại có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng, nó định hớng hoạt động của con
ngời trong việc phối hợp, vận dụng một cách tổng hợp các qui luật nhằm
hạn chế vai trò của quy luật thuộc xà hội cũ, phát huy vai trò của quy lt
thc x· héi míi ®Ĩ thóc ®Èy x· héi phát triển đúng hớng.
Sự tồn tại của cả những yếu tố, những quan hệ xà hội cũ và mới trong
những khâu trung gian là nguyên nhân của tình trạng mâu thuẫn trở nên
nhiều hơn, đa dạng, phức tạp và phát triển gay gắt hơn. Vì vậy, nhận thức đợc khâu trung gian còn là điều kiện để có biện pháp giải quyết có hiệu quả
những mâu thuẫn đang trở nên chín muồi. Lênin viết: "Tình trạng các mâu
thuẫn trở nên gay gắt là động lực mạnh nhất của thời kỳ lịch sử quá độ" [38,
535].
Sự hiện hữu của một kết cấu xà hội đan xen giữa cái cũ và cái míi, sù chi phèi
25