Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Đánh giá mức độ hài lòng môn học phổ tu thể dục của nam sinh viên chuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.66 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT

HÀ BÁ NHA

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG MÔN HỌC
PHỔ TU THỂ DỤC CỦA NAM SINH VIÊN NGÀNH
GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
NĂM HỌC 2014 - 2015

MÃ NGÀNH: 52140206

CẦN THƠ 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG MÔN HỌC
PHỔ TU THỂ DỤC CỦA NAM SINH VIÊN NGÀNH
GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
NĂM HỌC 2014 - 2015
MÃ NGÀNH: 52140206
Giảng viên hướng dẫn
ThS Nguyễn Hoàng Khoa



Sinh viên thực hiện
Hà Bá Nha
MSSV: 9117009
Lớp: TD11X6A1

CẦN THƠ 2015


LỜI CẢM ƠN


Trong suốt thời gian thực hiện đề tài, tôi đã gặp không ít
khó khăn về tài liệu cũng như về mặt thời gian. Nhưng nhờ sự
giúp đỡ tận tình của quý thầy cô trong Bộ môn Giáo dục thể
chất - Trường Đại Học Cần Thơ, đặc biệt là sự hướng dẫn tận
tình của thầy Nguyễn Hoàng Khoa đã giúp tôi hoàn thành đề tài
này.
Cám ơn tập thể lớp Giáo dục thể chất khóa 37 đã tận tình
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này. Cám ơn
các bạn trong lớp đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.
Do những điều kiện hạn chế nên không tránh khỏi
những sai sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý
thầy cô và các bạn để đề tài này ngày càng hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn

Sinh viên thực hiện
Hà Bá Nha



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố
trong các công trình khác. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm về đề tài của mình.
Người cam đoan

HÀ BÁ NHA


DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 3.1.1 Mức độ hài lòng phương pháp giảng dạy môn Phổ tu thể dục của nam
sinh viên chuyên ngành GDTC trường ĐHCT.
Bảng 3.1.2 Mức độ hài lòng về phương pháp đánh giá môn Phổ tu thể dục của nam
sinh viên chuyên ngành GDTC trường ĐHCT.
Bảng 3.1.3. Mức độ hài lòng kĩ thuật môn học môn Phổ tu thể dục của nam sinh viên
chuyên ngành GDTC trường ĐHCT.
Bảng 3.1.4. Mức độ hài lòng dụ cụ sân bãi môn Phổ tu thể dục của nam sinh viên
chuyên ngành GDTC trường ĐHCT.
Bảng 3.1.5. Mức độ hài lòng bài tập thể lực môn Phổ tu thể dục của nam sinh viên
chuyên ngành GDTC trường
Bảng 3.6 Bảng phân tích nhóm nội dung các câu hỏi có số liệu thu thập được
ĐHCT.


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH



Biểu đồ 3.1.1 Thể hiện tỉ lệ phần trăm
Nội dung: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Biểu đồ 3.1.2 Thể hiện tỉ lệ phần trăm
Nội dung : PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
Biểu đồ 3.1.3 Thể hiện tỉ lệ phần trăm
Nội dung : KỸ THUẬT MÔN HỌC
Biểu đồ 3.1.4 Thể hiện tỉ lệ phần trăm
Nội dung DỤNG CỤ SÂN BÃI
Biểu đồ 3.1.5 Thể hiện tỉ lệ phần trăm
Nội dung: BÀI TẬP THỂ LỰC
Biểu đồ 3.6 Bảng phân tích nhóm nội dung các câu hỏi có số liệu thu thập được
ĐHCT

KIẾU HIỆU VIẾT TẮT



TDTT

Thể dục thể thao

VĐV

Vận động viên

GDTC

Giáo Dục Thể Chất


HSSV

Học sinh sinh viên

TCTL

Tố chất thể lực

ĐHCT

Đại học Cần Thơ


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………….. ……
1
1.
ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………. 1
2.
MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU…………………
5
2.1 Mục đích nghiên cứu………………………………………………... 5
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………..... 5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ……...... 6
1.1 PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT TRONG CÁC HỌC THUYẾT GIÁO DỤC
CON NGƯỜI PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN …………………........
6
1.1.1 Các tư tưởng tiến bộ về giáo dục con người phát triền toàn diện... 6
1.1.2 Quan điểm của các học giả nổi tiếng về con người và giáo dục thể

chất…………………………………………………………………...
6
1.1.3 Quan điểm Mác – Lênin và Hồ Chí Minh về con người và giáo dục thể
chất………………………………………………………………......
8
1.1.4. Đảng và nhà nước với sự phát triển thể chất…………….....
11
1.2 NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ GIÁO DỤC THỂ CHẤT ………...
17
1.3 CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC THỂ CHẤT…………………………………..................
18
1.3.1 Sự hài lòng của sinh viên đối với chất lượng giáo dục thể chất: . 18
1.3.1.1 Chất lượng giáo dục thể chất ……………………………
18
1.3.1.2 Các yếu tố cầu thành chất lượng giáo dục thể chất:……..
19
1.3.2 Sự hài lòng về chất lượng giáo dục đào tạo,………..............
20
1.3.3 Thang đo về các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng…
21
1.4 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN PHỔ TU THỂ DỤC
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM ………………………
22
1.4.1. Lịch sử phát triển của môn Thể dục trong thời kỳ Cổ Đại……… 22
1.4.2 Lịch sử phát triển của Thể dục trong thời kỳ Trung Đại và Cận Đại..23
1.4.3. Lịch sử phát triển của Thể dục trong thời kỳ Hiện Đại….......
29
1.4.4. Lịch sử phát triển Thể dục ở Việt Nam……….. .......................
33

1.4.4.1. Thể dục được thừa nhận là một phương tiện giáo dục thể chất cho con
người………………………………………………..............................
35
1.4.4.2. Thể dục thi đấu………………..................................................
36
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU…….. 41
2.1 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ……………………. ................. 41
2.1.1 Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu:……….. ................
41
2.1.2 Phương pháp phỏng vấn:……………..........................................
41
2.1.3 Phương pháp toán thống kê:……………....................................
42
2.2 TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU……………...........................................
42
2.2.1 Đối tượng nghiên cứu…………………..........................................
42
2.2.2 Khách thể nghiên cứu………………….........................................
42
2.2.3 Địa điểm nghiên cứu………….......................................................
43
2.2.4 Thời gian nghiên cứu………….....................................................
43


2.2.5 Kế hoạch nghiên cứu:…………….............................................
2.2.6 Trang thiết bị và dự trù kinh phí:………….....................................
2.2.6.1 Trang thiết bị: Phiếu phỏng vấn, viết….. .....................................
2.2.6.2 Dự trù kinh phí:…………………....................................................


43
44
44
44

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN……..........
45
3.1 Đánh giá mức độ hài lòng của môn Phô tu thể dục của nam sinh viên
chuyên ngành GDTC trường ĐHCT năm học 2014-2015………......... 45
3.1.1 Đánh giá mức độ hài lòng phương pháp giảng dạy môn Phổ tu thể dục
của nam sinh viên chuyên ngành GDTC trường ĐHCT…………........... 45
3.1.2 Đánh giá mức độ hài lòng về phương pháp đánh giá môn Phổ tu thể dục
của nam sinh viên chuyên ngành GDTC trường ĐHCT…………............ 48
3.1.3. Đánh giá mức độ hài lòng kĩ thuật môn học môn Phổ tu thể dục của nam
sinh viên chuyên ngành GDTC trường ĐHCT………….......................... 49
3.1.4. Đánh giá mức độ hài lòng dụng cụ sân bãi môn Phổ tu thể dục của nam
sinh viên chuyên ngành GDTC trường ĐHCT…………........................ 50
3.1.5. Mức độ hài lòng bài tập thể lực môn Phổ tu thể dục của nam sinh viên
chuyên ngành GDTC trường ĐHCT………...........................................
51
3.2
Kết quả khảo sát các mức độ hài lòng học tập môn Phổ tu thể dục của
nam sinh viên chuyên ngành GDTC đối với các nhóm nội dung câu hỏi…52
3.3 Nguyên nhân và giải pháp nâng cao mức độ hài lòng môn học Phổ tu thể
dục của nam sinh viên chuyên ngành Giáo Dục Thể Chất trường Đại học Cần
Thơ. …………………………..................................................................
53
3.3.1 Nguyên nhân ảnh hưởng đến mức độ hài lòng môn học Phô tu thể dục
của nam sinh viên chuyên ngành Giáo Dục Thể Chất trường Đại học Cần
Thơ… ........................................................................................................

53
3.3.2 Giải pháp nâng cao mức đô hài lòng môn học Phổ tu thể dục của nam
sinh viên chuyên ngành Giáo Dục Thể Chất trường Đại học Cần Thơ….. 54

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………….................
1.
KẾT LUẬN……………………….....................................

60
60

2.

61

KIẾN NGHỊ………………….......................................................


Luận văn tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn coi trọng vị trí của công tác thể dục thể thao đối với thế hệ trẻ xem đó là động
lực quan trọng và khẳng định cần có chính sách chăm sóc Giáo dục - Đào tạo thế hệ
trẻ Việt Nam phát triển hài hòa về thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức. Đó là
những con người “Phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức”.
Ngoài thể dục vệ sinh đã có từ trước, thể dục sản xuất và thực dụng nghề
nghiệp được áp dụng trong nhà máy, xí nghiệp, các trường chuyên nghiệp và đại

học; thể dục chữa bệnh trong các bệnh viện; thể dục quân sự trong lực lượng công
an và quân đội; thể dục giữa giờ ở các trường từ mẫu giáo đến phổ thông trung học;
thể dục dưỡng sinh cho người cao tuổi; thể dục thẩm mỹ cho phụ nữ. Từ thập kỷ 60,
thể dục đồng diễn với quy mô khác nhau đã được đưa vào chương trình hoạt động
kỷ niệm các ngày lễ lớn, các đại hội TDTT, đã gây được ấn tượng văn hóa, chính trị
sâu sắc trong nhân dân. Ngành TDTT đã hợp tác chặt chẽ với Ngành Giáo dục - Đào
tạo, Công an, Quân đội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các đoàn thể quần
chúng khác, thúc đẩy việc tập luyện rộng rãi các nội dung của thể dục, nhằm nâng
cao sức khoẻ cho các đối tượng luyện tập
Thể dục thể thao đã và đang ngày càng góp phần to lớn vào việc bảo vệ, nâng
cao sức khỏe, phục vụ sản xuất chiến đấu và làm phong phú cuộc sống con người.
Dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng các bài tập thể dục xuất hiện rất sớm, cùng
với nền văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc của mình. Tác giả Mai Văn Muôn đã
viết: “Trống đồng của Việt Nam là văn tự ghi hình giữ lại những sinh hoạt văn hóa,
lao động, chiến đấu của nhân dân. Những đoàn người hóa trang nhảy múa, thổi kèn,
bắn súng, phóng lao, giã gạo, đánh trống, bơi thuyền... đó chính là văn hóa của nhân

1


Luận văn tốt nghiệp

dân, thời xưa và cũng là những hình ảnh hoạt động văn hóa thể thao dân tộc ở bước
sơ khai của tổ tiên chúng ta”.
Chính vai trò to lớn và ý nghĩa quan trọng của thể dục thể thao mà ngay từ rất
sớm, từ lúc mới giành được chính quyền từ tay thực dân Pháp, lúc này chính quyền
cách mạng còn non trẻ đang phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, như thù trong
giặc ngoài, đói kém, xã hội chưa ổn định. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi
toàn dân tập luyện thể dục. Trong lời kêu gọi toàn dân tập luyện thể dục ngày 27
tháng 3 năm 1946, Bác viết: “Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu

ớt một phần. Mỗi người dân khỏe mạnh, là góp phần cho cả nước khỏe mạnh. Vậy
luyện tập thể dục, bồi dưỡng sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”.
Nghe theo lời kêu gọi của Bác, luyện tập thể dục đã trở thành phong trào toàn dân,
đặc biệt trong các lực lượng vũ trang. Từ cuối năm 1946, nhân dân ta lại bắt đầu
cuộc kháng chiến 9 năm và việc tập luyện thể dục tiếp tục được duy trì trong các cơ
quan ở chiến khu, ở các đơn vị bộ đội, các bệnh viện dã chiến, góp phần quan trọng
tăng cường sức chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ để chiến thắng thực dân Pháp, lập lại
hòa bình trên một nửa đất nước.
Như vậy, có thể nói các bài tập thể dục thể thao nói chung và thể dục nói riêng,
được hình thành tự nhiên từ cuộc sống lao động của người Việt Nam cổ xưa, đã
được tồn tại dưới các dạng truyền dạy, giáo dục, thi đấu. Các bài tập này được thể
hiện dưới hình thức các trò chơi dân gian, nhào lộn, luyện thở, bơi lội, vật, võ, chèo
thuyền, chạy, nhảy, bắn cung v.v.. Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc
Việt Nam, các bài tập thể dục đã thực sự góp phần vào việc rèn luyện thể lực, hình
thành các kỹ năng, kỹ xảo vận động cho nhiều thế hệ con người, nâng cao tinh thần
thượng võ dân tộc, là nguồn năng lượng tinh thần cực kỳ to lớn để xây dựng một
nền thể dục thể thao nói chung, và thể dục nói riêng, mang tính chất dân tộc, khoa
học và hiện đại ngày nay. Song cho đến một phần ba cuối thế kỷ XVIII, trước thời
kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, các bài tập thể dục được phát triển trong khuôn
khổ các hoạt động thể thao dân tộc truyền thống, chưa trở thành môn tập luyện và
thi đấu độc lập. Khi thực dân Pháp cai trị, với chính sách khai hóa thuộc địa, đem
2


Luận văn tốt nghiệp

“văn minh” đến cho người bản xứ nhằm nô dịch lâu dài đất nước ta, một số môn thể
thao mới được đưa vào Việt Nam, trong đó có các bài tập thể lực và thể dục thi đấu.
Tuy nhiên, trong một thời gian dài gần 100 năm, các bài tập này chỉ thịnh hành ở
các trại lính, công sở và trường học của Pháp và chính quyền bù nhìn. Đại bộ phận

nhân dân lao động, do cuộc sống bị bần cùng hóa, không có điều kiện tập luyện thể
dục thể thao. Các bài tập thể dục được phổ biến vào Việt Nam cũng chỉ hạn hẹp ở
một số loại như đội hình đội ngũ, thể dục vệ sinh, thể dục thể hình và một số bài tập
của thể dục dụng cụ như xà đơn, xà kép. Do sự phát triển yếu kém và không đồng bộ
nên không thể có một cuộc thi đấu chính thức nào về thể dục ở thời kỳ này.
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), sớm ý thức được vai trò
của sức khoẻ và TDTT đối với xã hội và con người, ngay từ tháng 3/1941, Chương
trình cứu nước có mặt trận Việt Minh đã xác định, “cần phải khuyến khích và giúp
đỡ nền thể dục thể thao quốc dân, làm cho nòi giống thêm khoẻ mạnh”.
Ngày nay trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và sự hội
nhập của nền kinh tế thế giới. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc nâng
cao trình độ dân trí, giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra con người mới,
phát triển một cách toàn diện về mọi mặt: Đức – Trí – Thể - Mỹ.
Trong thời đại kinh tế mở cửa này thì thể dục thể thao lại có một vị trí quan
trọng trong việc mở rộng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế
giới, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.
Phổ tu thể dục thế giới phát triển rất nhanh về khả năng và kỹ thuật mới cũng
không ngừng được ra đời. Do đó huấn luyện viên, giáo viên và người tập không chỉ
cần nghiên cứu về mặt lý luận chuyên môn mà còn phải học hỏi và hiểu biết những
cơ sở khoa học khác, chỉ có như vậy mới đáp ứng được những yêu cầu ngày càng
cao của giảng dạy và huấn luyện phù hợp với xu thế phát triển nhanh chóng của môn
trong và ngoài nước.
Giảng dạy và huấn luyện thể thao là một quá trình giáo dục chuyên môn, chủ
yếu bằng các bài tập nhằm hoàn thiện các phẩm chất năng lực, các mặt của trình độ
3


Luận văn tốt nghiệp


giảng dạy và huấn luyện nhằm đảm bảo cho người tập đạt hiệu quả cao nhất. Các bài
tập được sử dụng trong giảng dạy và huấn luyện phải đảm bảo tính khoa học, được
nghiên cứu trong lý luận và được kiểm chứng trong thực tiễn. Ngoài ra trong quá
trình tập luyện, giáo viên, huấn luyện viên và người tập phải nổ lực sáng tạo, bởi
kiểm tra đạt kết quả cao hiển nhiên là dấu ấn của việc giảng dạy và huấn luyện có
hiệu quả. Trong đó môn học phổ tu thể dục là một môn học được hình thành muộn
hơn so với các môn thể thao khác, song lại được thu hút và phát triển nhanh chóng
trên cả nước và được đông đảo thanh niên hưởng ứng tập luyện và thi đấu. Đồng
thời, môn này cũng là một môn thể thao rất được yêu thích nhất là tầng lớp trung
niên, thanh niên, học sinh, sinh viên. Tính đến nay phong trào môn học phổ tu thể
dục đã được phát triển đến trên 40 tỉnh thành và 53 liên đoàn trên cả nước. Trường
Đại học Cần Thơ là một trong nhiều trường đại học cả nước giảng dạy môn học này,
với sự tham gia của nhiều bạn sinh viên đăng ký tham gia học. Vì vậy chất lượng
giảng dạy cần phải không ngừng phát triển tốt và đạt chất lượng cao, để đáp ứng nhu
cầu học tập của các em và đảm bảo sự hài lòng của các em về môn học này. Sự hài
lòng trong học tập giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả học tập của
sinh viên và góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy để ngày càng hoàn thiện, phát
triển môn phổ tu thể dục trong các trường Đại học.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết trên để góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của nhà trường nói chung và của môn phổ tu thể dục nói riêng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Đánh giá mức độ hài lòng môn học Phổ tu thể dục của nam
sinh viên chuyên ngành Giáo dục Thể chất trường Đại học Cần Thơ năm học
2014 – 2015”. Nhằm có những đóng góp khách quan nhất từ sinh viên những người
đang theo học chuyên ngành giáo dục thể chất tại trường Đại học Cần Thơ. Đồng
thời, bài nghiên cứu cũng đưa ra những kiến nghị, những biện pháp nhằm khắc phục
những hạn chế làm ảnh hưởng tới sự hài lòng của sinh viên về môn phổ tu thể dục.

4



Luận văn tốt nghiệp

2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu thực trạng mức độ hài lòng của sinh viên chuyên ngành Giáo
dục Thể chất khi học học phần phổ tu thể dục tại trường Đại học Cần Thơ năm học
2014-2015, đồng thời phát hiện ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất nói chung
và môn học phổ tu thể dục nói riêng của trường Đại học Cần Thơ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu của đề tài đặt ra chúng tôi phải tiến hành giải
quyết ba nhiệm vụ sau:
- Nhiệm vụ 1: Đánh giá mức độ hài lòng môn phổ tu thể dục của sinh viên
chuyên ngành giáo dục thể chất trường Đại học Cần Thơ.
- Nhiệm vụ 2: Tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp để nâng cao chất
lượng giảng dạy cho sinh viên.

5


Luận văn tốt nghiệp

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1 PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT TRONG CÁC HỌC THUYẾT GIÁO DỤC
CON NGƯỜI PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
1.1.1 Các tư tưởng tiến bộ về giáo dục con người phát triền toàn diện
Tư tưởng vền con người phải được phát triển hài hòa giữa thể chất và tinh thần
đã xuất hiện trong kho tàng văn hóa chung của xã hội loài người từ nhiều thế kỷ
trước đây. Từ nhà triết học cổ Hy Lạp Aris-tốt, những người theo chủ nghĩa nhân

đạo thời phục hưng như Mông-ten, những người theo chủ nghĩa Xã hội không tưởng
như Xanh-xi-mông, Ô-oen, đến những nhà bác học và giáo dục học nổi tiếng của
Nga như M.V.Lômôxôxốp, V.G.Beeslinski, Usinski, N.G.Strecnsepski và nhiều
người khác nữa, đã ra sức phát triển, bảo vệ tư tưởng của học thuyết về sự phát triển
hài hòa giữa năng lực thể chất và năng lực tinh thần của con người.
Nền văn hóa cổ kính Phương Đông xuất phát từ triết học Phương Đông với nền
tảng của triết học Âm- Dương, Ngũ hành, Bát quái, mục tiêu rèn luyện thể chất của
người Phương Đông của người phát triển toàn diện: về ý, khí, lực… tạo nên một sức
mạnh tổng hợp.
Tuy nhiên, do tính chất của quan hệ xã hội và lịch sử trong tất cả các các chế
độ ấy nên những ý tưởng đó đã không vượt qua khỏi giới hạn của nhũng ước mơ,
tuy cao đẹp nhưng không có điều kiện thành hiện thực.
1.1.2 Quan điểm của các học giả nổi tiếng về con người và giáo dục thể chất
Các-Mác đã mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại nhưng người đã sáng lập ra chủ
nghĩa cộng sản khoa học, có tác động to lớn và sâu rộng đối với nhân loại tiến bộ.
Các-Mác cũng là người rất quan tâm đến việc phát triển con người toàn diện để xây
dựng một xã hội mới theo nguyên lý chủ nghĩa cộng sản. Trên cơ sở việc nghiên cứu
sâu sắc các quy luật khách quan của sự phát trển xã hội, Các-Mác và Ăng-Ghen đã
chứng minh việc phát triển của giáo dục phụ thuộc vào điều kiện sống vật chất,

6


Luận văn tốt nghiệp

khám phá ra bản chất xã hội, bản chất của giai cấp, đồng thời chỉ ra rằng trong xã
hội chủ nghĩa cộng sản tương lai con người phát triển toàn diện là tất yếu khách
quan, bởi vì đó là nhu cầu của xã hội. Nhấn mạnh về vấn đề này, cũng theo Các-Mác
thì kết hợp với lao động sản xuất với trí dục và thế dục, đó không những là biện
pháp để tăng thêm sức sản xuất của xã hội, mà còn là biện pháp duy nhất để đào tạo

con người toàn diện
Trên cơ sở đó, Lê-Nin tiếp tục đi sâu và phát triển sáng tạo học thuyết về giáo
dục toàn diện của Các-Mác và Ăng-Ghen. Lê-Nin đặc biệt quan tâm đến thế hệ trẻ,
đến cuộc sống của họ. Người nhấn mạnh thanh niên cần sự yêu đời và sảng khoái,
cần có thể thao lành mạnh, thể thao, bơi lội, tham quan và các bài tập thể lực những
hứng thú về tinh thần, học tâp nghiên cứu và cố gắng phối hợp tất cả các hoạt động
ấy với nhau.
Từ thực tiễn lãnh đạo phong trào cách mạng của C.Mác và Ph.Ăngghen rồi sau
này đến V.I.Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Trong cuộc đấu tranh của
các nước vô sản, công tác giáo dục giữ một vị trí rất quan trọng, nó đào tạo ra những
con người phục vụ cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ giai cấp vô
sản, xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Tầm quan trọng của giáo dục trong việc xây dụng một xã hội mới là việc muốn
thay đổi điều kiện xã hội nhưng điều kiện xã hội phải có một chế độ giáo dục phù
hợp. Vận dụng sáng tạo và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng đặc biệt là
trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã hết sức coi trọng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo và phát triển con người, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự phát triển và khẳng định rằng cùng với khoa học và công nghệ thì giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta, đường lối, chính sách
giáo dục – đào tạo phải được vận dụng và phát triển vào hoat động thực tiễn. Vì vậy,
việc nghiên cứu các quan điểm của chủ nghĩa xã hội Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

7


Luận văn tốt nghiệp

Chí Minh về giáo dục là việc cấp thiết và quan trọng trong giai đoạn đổi mới và phát
triển nước ta hiện nay.

Nghiên cứu quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh,
giáo dục còn góp phần đáp ứng những yêu cầu mới của công tác tư tưởng lý luận.
Trong công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy lý luận
chính trị về giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cần
phải được quan tâm thường xuyên và hiệu quả hơn.
1.1.3 Quan điểm Mác – Lênin và Hồ Chí Minh về con người và giáo dục thể
chất
Giáo dục là quá trình thống nhất của sự hình thành tinh thần của mỗi các nhân
trong xã hội. Giáo dục không thể tách rời cuộc sống của con người, của xã hội, nó là
một hiện tượng đặc trưng của xã hội loài người. Trong quá trình tiến hóa của nhân
loại, giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của loài người, khi con người có mối
quan hệ với tự nhiên bằng công cụ và bằng việc lĩnh hội kinh nghiệm của thế hệ
trước cho thế hệ sau. Giáo dục như một phương thức của xã hội đảm bảo việc thừa
kế văn hóa, phát triển nhân cách.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là
hệ thống những tri thức sâu sắc và toàn diện về giáo dục. Để khai thác nguồn di sản
quý giá này cần tập trung đi sâu vào phân tích những khía cạnh cụ thể của chỉnh thể
thống nhất ấy. C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đã nghiên cứu giáo
dục một cách khoa học. Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng nền công nghiệp do toàn xã
hội thực hiện một cách tập thể và có kế hoạch thì rất cần có những con người có
năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Như thế,
mục đích của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa là làm cho những thành viên trong xã
hội đó có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển của mình. Trên
tinh thần đó, các nhà kinh điển mácxít đều khẳng định mục đích của nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa là đào tạo nên những con người xã hội chủ nghĩa, những người lao
động mới có ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hóa và khoa học

8



Luận văn tốt nghiệp

tiên tiến, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khỏe tốt – những con
người phát triển toàn diện.
Cùng với đó, tính chất giáo dục được quy định bởi các điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội. C.Mác, Ph.Ăngghen và sau này V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đều khẳng
định tính giai cấp của nền giáo dục. Trong xã hội có giai cấp, giáo dục trở thành
công cụ quan trọng của giai cấp cầm quyền, phục vụ mục đích chính trị của nó. Ở
mỗi chế độ khác nhau đều có một nền giáo dục khác nhau. Ngoài ra, giáo dục còn
mang tính phổ biến, vĩnh hằng. Giáo dục có ở mọi thời đại mọi thiết chế xã hội khác
nhau. Do đó, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải thể hiện được bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa, đó là tính công bằng xã hội, dân chủ tiến bộ và khoa
học trong giáo dục và đồng thời hội nhập nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Thông qua mục đích, tính chất của mình, giáo dục thể hiện vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển của xã hội loài người nói chung và đối với mỗi quốc gia
dân tộc nói riêng. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin đều thừa nhận rằng
giáo dục có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân,
thông qua đó giáo dục góp phần quyết định sự vận động và phát triển của xã hội. Tri
thức là vũ khí kỳ diệu để con người tự giải phóng mình và phát triển toàn diện mọi
khả năng của mình. Hơn thế nữa, tương lai của loài người hoàn toàn phụ thuộc vào
việc giáo dục thế hệ công dân đã và đang phát triển. Công tác giáo dục sẽ làm cho
những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất
trong thực tiễn, làm cho họ có thể chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất
khác tùy theo nhu cầu của xã hội hoặc tùy theo sở thích của bản thân họ. Do đó,
công tác giáo dục sẽ làm cho họ thoát khỏi tình trạng một chiều mà sự phân công lao
động hiện nay đang buộc mọi người phải theo.
Nắm bắt tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
giáo dục Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu bậc tính công bằng, dân chủ và khoa học
của nền giáo dục mới. Nền giáo dục mới này phải là nền giáo dục của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân; nền giáo dục mới này phải thật sự khoa học, cách mạng và

triệt để. Hơn nữa, Người khẳng định giáo dục có vai trò to lớn cho sự vận động và
9


Luận văn tốt nghiệp

phát triển của các lĩnh vực trọng yếu trong đời sống xã hội, trong quá trình xây dựng
xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi mỗi cá
nhân cần cố gắng học tập văn hóa, học tập khoa học kĩ thuật. Để đạt được những yêu
cầu của nền giáo dục mới này, hình thức giáo dục này phải được thay đổi tương
xứng. Việc dạy và việc học phải kết hợp nhuần nhuyễn cả hình thức truyền thống
lẫn hình thức hiện đại, theo đó dạy và học diễn ra mọi lúc mọi nơi. Học ở trường,
học trong sách vở, học tập lẫn nhau, học tập ở nhân dân, trong lao động...
Trên tinh thần đó, nội dung giáo dục phải được bổ sung và hoàn thiện. Các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đã đưa ra nội dung của nền giáo dục toàn diện là phải bao
gồm: đức dục, trí dục, thể dục và mỹ dục. Đặc biệt chú trọng việc giáo dục đạo đức
cách mạng và giáo dục lý luận chính trị cho giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng
tạo và phái triển các quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về giáo dục vào điều kiện
thực tiễn Việt Nam. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì cần phải có con người xã hội chủ
nghĩa. Muốn đạt được mục tiêu này, nội dung giáo dục phải đảm bảo tính dân tộc,
tính quần chúng và tính hiện đại. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến giáo dục - đào tạo
cán bộ trên cả hai mặt “đức” và “tài”, lấy “đức” làm cơ sở vững chắc cho “tài” năng
phát triển.
Hơn nửa thế kỷ lãnh đạo cho sự nghiệp giáo dục Việt Nam, Đảng Cộng sản
Việt Nam không ngừng khai thác, vận dụng và phát triển các quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Đảng ta khẳng định cùng
với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồ dưỡng nhân tài tạo cơ sơ vật chất cho đất nước phát

triển nhanh và bền vững. Nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta chủ trương phát
triển nền giáo dục khoa học, đại chúng, hướng đến xây dựng một xã hội học tập thực
thụ, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đó là sự phát triển mới
trong những năm đầu thế kỷ XXI.
10


Luận văn tốt nghiệp

1.1.4. Đảng và nhà nước với sự phát triển thể chất
Thể dục thể thao trường học vừa là một mặt của giáo dục toàn diện, là một bộ
phận của thể dục thể thao cho một người. Nó bao gồm giáo dục thể chất bắt buộc
(giờ học chính khóa) đối với sinh viên và các hoạt động thể dục thể thao ngoài giờ
học. Nhiệm vụ và mục tiêu của thể dục thể thao trường học là nâng cao sức khỏe,
đảm bảo sự phát triển bình thường của sinh viên; phát triển các tố chất thể lực và kỹ
năng vận động cơ bản của con người; hình thành thói quen rèn luyện thân thể, giữ
gìn vệ sinh và rèn luyện đạo đức ý chí cho người học. Phát triển thể dục thể thao
trường học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tháng 10/1941, trong chương trình cứu nước của mặt trận Việt Minh đã nêu
khuyến kích, giúp đỡ nền giáo dục quốc dân, làm dân tộc ta ngày càng thêm khỏe
mạnh. Trẻ em được chính phủ đặc biệt chăm sóc về Thể dục, Trí dục và Đức dục.
Ngày 27/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 38 thiết lập Nhà thể
dục Trung ương; đồng thời Bác Hồ còn viết bài “Sức khỏe và thể dục” đăng trên báo
“Việt Nam khỏe” cơ quan vận động phổ thông của Nhà thể dục trung ương Việt Nam
số 1 ngày 30/3/1946.
Tháng 1/1955, trong lễ khai giảng Trường Đại học Nhân dân Việt Nam, Bác
Hồ đã dặn: “…Thanh niên phải chuyên tâm đi học và công tác nhưng cũng cần có
vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự linh hoạt của thanh niên.

Trong vui chơi cũng có giáo dục. Cần có nhũng thứ vui chơi văn hóa, thể thao có
tinh thần tập thể và quần chúng. Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên cần
phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ hoat động và sinh hoạt hàng ngay của
thanh niên để kịp thời khuyến kích, uốn nắn, sửa chữa…” ( Hồ Chí Minh – Bàn về
công tác giáo dục – Nhà xuất bản thật 1972).
Các sự kiện và những văn bản nói trên đã chứng minh rằng: từ Cách mạng
tháng Tám và năm 1946, khi chúng ta vừa dành được chính quyền và đã chống lại 3
thứ giặc (đói – dốt – ngoại xâm) thì Trung ương Đảng và Bác Hồ đã nêu ra quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo cho công tác thể dục thể thao đối với thế hệ trẻ. Vì đó là lực
11


Luận văn tốt nghiệp

lượng chính của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng (trong đó có sự nghiệp Giáo
dục – Đào tạo và thể dục thể thao). Về mặt tổ chức, cơ quan quản lí nhà nước đầu
tiên và cao nhất về thể dục thể thao được đặt trong Bộ quốc gia Giáo dục (trước đó
là trong Bộ thanh niên). Điều này càng thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và
Bác Hồ về công tác giáo dục thể chất và thể dục thể thao ở trường học. Từ Đó đến
nay, trong mỗi kỳ Đại hội Đảng toàn quốc hoặc trong từng nhiệm kỳ, Trung ương
Đảng đều ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị Thông trị về thể dục thể thao nó chung
và thể dục thể thao trường học nói riêng.
Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III tháng 9/1960, đã định hướng công
tác giáo dục và rèn luyện thể chất đối với tuổi trẻ học đường. Chủ trương này đã
được Hội nghị Trung ương lần thứ XIII tháng 04/1963 phát triển lên một bước mới,
phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩ Mác về phát triển con người toàn diện. Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ III đã chỉ rõ công tác giáo dục phải được phát triển theo
quy mô lớn, nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước nhà, có
giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có văn hóa và khoa học kỹ thuật, có sức khỏe nhằm phục
vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân lao

động.
Về nội dung giáo dục toàn diện, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV cũng nêu
rõ nhiệm vụ nâng cao chất lượng toàn diện của nội dung giáo dục. Hiện đại hóa
chương trình học tập khoa học và kỹ thuật, mở rộng kiến thức quản lí kinh tế, tăng
cường giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và đạo đức
Cách mạng, bồi dưỡng kỹ năng lao động và năng lực nghiên cứu khoa học kỹ thuật,
coi trọng đúng mực giáo dục dục thẩm mỹ, thể dục thể thao và tập luyện quân sự.
Bước sang thời kỳ mới, khi đất nước hoàn toàn được giải phóng, Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986, đã mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước. Về thể dục thể thao, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI cũng đã đề
cập đến những vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng trong nhiều lĩnh vực: thể dục
thể thao quần chúng, thể thao thành tích cao, giáo dục thể chất trong trường học và
phát triển lực lượng vận động viên trẻ. Nghị quyết cũng nêu rõ việc mở rộng và
12


Luận văn tốt nghiệp

nâng cao chất lượng phong trào thể dục thể thao quần chúng, từng bước đưa việc rèn
luyện thân thể thành thói quen hằng ngày của đông đảo nhân dân ta, trước hết là thế
hệ trẻ, nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong các trường học.
Nghị quyết 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tháng 06/1991
cũng đã khẳng định việc đưa vào dạy thể dục và một số môn thể thao cần vào
chương trình học tập của các trường học phổ thông, chuyên nghiệp và các trường đại
học là rất cần thiết. Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Viêt Nam lần thứ VIII năm
1996 cũng đã khẳng định: Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải
thực sự trở thành quốc sách hàng đầu.
Chỉ thị 106/CT-TW ngày 02/10/1958 của ban bí thư trung ương Đảng về công
tác thể dục thể thao đã đề cập đề vấn đề quan trọng như: vai trò và tác dụng của
công tác thể dục thể thao, về thể thao quốc phòng, phát triển thể dục thể thao quần

chúng, nhất là ở trường học.
Chỉ thị 108/ CT-TW ngày 13/01/1960 của Ban Bí thư trung ương Đảng về
công tác thể dục thể thao và chỉ thị 108/CT-TW ngày 26/08/1970 của ban bí thư
trong ương Đảng về tăng cường công tác thể dục thể thao trong các những năm tiếp
theo là một bước phát triển mới, xác định tầm quan trọng của thể dục thể thao, coi
thể dục thể thao trở thành nhu cầu của quần chúng, là một phần của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ trương trên cũng đã đề cập tới sự phát triển phong trào
thể dục thể thao trong học sinh và sinh viên.
Chỉ thị 112/CT ngày 09/05/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về công tác thể dục
thể thao trong thời gian tới có ghi: “...Đối với HSSV, trước hết nhà trường phải thực
hiện nghiêm túc việc dạy và môn học TDTT theo chương trình quy định, có biện
pháp tổ chức, hướng dẫn các hình thức tập luyện và hoạt động thể thao tự nguyện
ngoài giờ học...”
Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/03/1994 về công tác thể dục thể thao trong giai
đoạn mới, Ban Bí thư trung ương Đảng xác định mục tiêu đến năm 2000, thể dục thể
thao trường học phải đạt là “ Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả trường học.
Làm cho tập việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết
13


Luận văn tốt nghiệp

HSSV...”Muố vậy thì “... Ban cán sự Đảng Tổng cục TDTT phải phối hợp chỉ đạo
tổng kết công tác GDTC, cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân
thể, đào tạo giảng viên TDTT cho trường học các cấp, tạo điều kiện cần thiết về
CSVC thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học...”
Chỉ thị 17 CT-TW ngày 23/10/2002 về phát triển TDTT đế năm 2010, Ban
Bí thư trung ương Đảng xác định “....Đẩy mạnh hoạt động TDTT ở trường học, tiến
tới mỗi trường học điều có giáo viên thể dục chuyên trách và lớp học thể dục đúng
tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao GDTC ; xem đây là một tiêu chí công nhận

trường tiêu chuẩn quốc gia.... Tăng đầu tư của Nhà nước cho việc phát triển TDTT ở
trường học nông thôn và miền núi...”
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, năm 2006 đã khẳng định “ làm tốt công tác
GDTC trong các trường học ... Khuyến khích và tạo điều kiện cho toàn xã hội tham
gia hoạt động và phát triển cho sự nghiệp TDTT”.
Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992, tại điều 41
có quy định “ Nhà nước và xã hội phát triển nền TDTT dân tộc, khoa học và nhân
dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển TDTT; quy định chế độ
GDTC bắt buộc trong trường học...” “... Đó là cái gốc của luật thể dục, thể thao và
các văn bản quy định pháp luật của Chính phủ có liên quan đến TDTT”.
Cũng trong năm 1996, Thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị 133/TT ngày
07/03/1996, về việc xây dựng hoạch phát triển ngành TDTT, về GDTC trường học
đã ghi rõ ;”.... Bộ Giáo dục – Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc GDTC trong nhà
trường, cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn
về rèn luyện thân thể cho học sinh các cấp, có quy chế bắt buộc đối với các trường
...”
Để thực hiện quan điểm đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước đối
với GDTC và thể thao trong nhà trường, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã ban hành rất
nhiều các văn bản pháp quy để hướng dẫn các trường thực hiện, cụ thể như:
Thông tư liên tịch số 08/LB-DN-DN-TDTT ngày 24/12/1986 về công tác
TDTT trong các trường dạy nghề và sư phạm.
14


Luận văn tốt nghiệp

Thông tư liên tịch số 04-93/GD-ĐT-TDTT ngày 17/04/1993 về việc xây dựng
kế hoạch đồng bộ, xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp cải tiến công tác tổ chức
quản lý TDTT và GDTC trong các trường học các cấp đến năm 2000-2005.
Thông tư số 11/TT-GDTC ngày 01/08/1994 về việc hướng dẫn thực hiện chỉ

thị 36/CT-TW.
Thông tư số 2869/GDTC ngày 04/05/1995 về việc hướng dẫn thực hiện chỉ thị
133/CT-TW.
Chương trình mục tiêu “cải tiến nâng cao chất lượng GDTC, sức khỏe, phát
triển và bồi dưỡng tài năng trẻ thể thao HSSV trong nhà trường các cấp giai đoạn
1995-2000 và đến năm 2005”, đã hoàn thiện và trình Chính phủ phê duyệt.
Quy hoạch phát triển công tác GDTC của ngành Giáo dục – Đào tạo giai đoạn
1996-2000 đến 2025 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (1996).
Trong các trường đại học, cao đẳng GDTC có công tác tích cực trong viêc hoàn
thiện cá tính, nhân cách, những phẩm chất cần thiết cho nghiệp vụ và hoàn thiện thể
chất của SV. Việc tiến hành GDTC nhằm giữ gìn sức khỏe và phát triển thể lực, tiếp
thu kiến thức và khả năng vận động cơ bản, còn có tác động chuẩn bị tốt về mặt tâm
lý và tinh thần cho người cán bộ tương lai. Đồng thời giúp họ hiệu biết phương pháp
khoa học, để tiếp tục rèn luyện thân thể, củng cố sức khỏe, góp phần xây dựng
phong trào TDTT trong nhà trường. Do vậy, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã ban hành
chương trình GDTC trong các trường đại học cao đẳng: “Chương trình GDTC trong
các trường đại học nhầm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục: Trang bị kiến thức, cung
cấp cho SV những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung và phương pháp tập luyện
TDTT, góp phần duy trì cung cấp sức khỏe của SV”.
Luật thể dục, thể thao năm 2006 quy định “ Giáo dục thể chất là môn học chính
khóa, thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ
bản cho người học trong qua các bài tập và trò chơi vận động, gớp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục toàn diện. Hoạt động thể thao trong nhà trường là hoạt động tư
nguyện của người học được tổ chức theo phương thức ngoại khóa phù hợp với sở

15


Luận văn tốt nghiệp


thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe nhằm tạo điệu kiện cho người học quyền vui
choi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao”.
Do đó, muốn giáo dục con người phát triển toàn diện phải “kết hợp hài hòa sự
phong phú về tinh thần, sự trong sáng về đạo đức, sự toàn diện về thể chất”. Sự
cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý tạo
ra sản phẩm trí tuệ và vật chất cho xã hội. Vì vậy, chăm lo con người về thể chất là
trách nhiệm của toàn xã hội nói chung của Bộ Giáo dục – Đào tạo và ngành TDTT
nói riêng. Đó là mục tiêu cơ bản, quan trọng nhất của nền giáo dục TDTT nước ta
mà Đảng, Nhà nước và Bác Hồ luôn coi trọng, quan tâm và nhắc nhở.
Ngày 01/12/2011, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị Quyết số 8-NQ/TW về việc
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể thao, Thể
thao đến năm 2020.
Mục tiêu của Nghị Quyết này là nhằm tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức, đổi
mới quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thể dục, thể thao; tăng cường
CSVC, đẩy mạnh NCKH, công nghệ làm nền tảng phát triển mạnh mẽ và vững chắc
sự nghiệp TDTT; đến năm 2020, phấn đấu 90% học sinh, sinh viên đạt tiêu chuẩn
rèn luyện thân thể; các trường học, xã, phường, thị trấn, khu công nghiệp có đủ
CSVC thể dục, thể thao phục vụ việc tập luyện của nhân dân; trình độ của một số
môn thể thao trọng điểm được nâng cao ngang tầm Châu Á và thế giới; đảm bảo các
điều kiện để sẵn sàng đăng cai tổ chức thành công các sự kiện thể thao lớn của Châu
Á và thế giới.
Trong đó, Nghị Quyết đưa ra 6 nhiệm vụ, giải pháp như: Nâng cao chất lượng,
hiệu quả GDTC và hoạt động thể thao trong trường học; mơ rộng và nâng cao chất
lượng hoạt động TDTT quần chúng; Nâng cao hiệu quả đào tạo tài năng thể thao;
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và
công nghệ; đổi mới tổ chức quản lý; nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát
triển các tổ chức xã hội về TDTT; tăng cường hợp tác quốc tế; tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền.

16



Luận văn tốt nghiệp

1.2. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ GIÁO DỤC THỂ CHẤT
GDTC ở nước ta thường được gọi là TDTT trường học, nó là một bộ phận
quan trọng cấu thành nên TDTT ở trường học, đồng thời nó cũng là nền tảng TDTT
toàn dân.
GDTC cũng như các hình thức giáo dục khác, về bản chất là một quá trình sư
phạm với đầy đủ các đặc trưng cơ bản của nó. Sừ khác biệt chủ yếu của GDTC với
các hình thức giáo dục khác ở chổ GDTC là quá trình hướng đến việc hoàng thành
kỹ năng kỹ xảo vận động, phát triển các TCTL, hoàn thiện về hình thái và chức năng
của cơ thể, qua đó trang bị kiến thức về mó liên quan của chúng. Như vậy GDTC
như một hình thức độc lập tương đối của quá trình giáo dục, có quan hệ khách quan
với các hình thức giáo dục khác: đạo đức , trí thức, thẩm mỹ, lao động... trong giáo
dục con người toàn diện.
C.Mác quan điểm giáo dục có ba điều: Một là giáo dục trí óc, hai là GDTC và
ba là giáo dục kỹ thuật. Về vị trí của TDTT trong tương lai, C.Mác đã nhấn mạnh:
“Trong nền giáo dục của xã hội tương lai, lao động và khoa học sẽ chiếm địa vị
ngang nhau, TDTT, lao động chân tay và lao động trí óc sẽ phải bổ trợ cho nhau bởi
vì đó là phương pháp duy nhất để phát triển con người toàn diện và cũng là biện
pháp đáng tin cậy nhất để tăng sản xuất của xã hội”.
V.I.Lê Nin quan niệm: “Trong các trường học cần phải tiến hành theo dõi sự
phát triển thể lực và trí lực của trẻ em và tiến hành tập TDTT, trò chơi, du lịch...”
GDTC trong hệ thông quan điểm của Đảng và Nhà nước ta.
GDTC là một trong những mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước
ta, và nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. GDTC được hiểu là: “Quá trình sư
phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất va nhân cách, nâng
cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ cho con người”.
Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của vai trò sức khỏe đối với vận mệnh đất

nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn luôn chú trọng
đến việc tăng cường và mơ rộng các hoạt động TDTT, đặc biệt là GDTC cho thanh
thiếu niên.
17


×