Tải bản đầy đủ (.doc) (171 trang)

LUẬN án TIẾN sỹ ổn ĐỊNH CHÍNH TRỊ xã hội TRONG CÔNG CUỘC đổi mới ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.14 KB, 171 trang )

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH,HĐH

Chủ nghĩa tư bản

CNTB

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Chính trị - xã hội

CT-XH

Lực lượng sản xuất

LLSX

Tư bản chủ nghĩa

TBCN

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Trước sự khủng hoảng, thoái trào nghiêm trọng của các nước XHCN, đặc biệt là sau
khi các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động cho rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ biến mất vào cuối thế kỷ XX và chậm nhất là
đầu thế kỷ XXI còn chủ nghĩa tư bản thì sẽ tồn tại vĩnh hằng, chiến tranh lạnh chấm dứt
và thế giới đi vào kỷ nguyên hoà bình, các dân tộc được sống trong bình yên, hạnh
phúc. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Từ khi thế giới trở thành “thế giới một siêu
cường”, siêu cường ấy là Mỹ, thì nền hoà bình thế giới lại bị đe doạ, bị xâm phạm lớn
hơn bao giờ hết, bởi chính vì đế quốc Mỹ đã có chủ trương mang tính chiến lược mới
là : “Chớp lấy thời cơ trong thế giới một siêu cường”. Chiến tranh cục bộ giữa các dân
tộc nhỏ yếu, giữa các sắc tộc, các tôn giáo liên tục nổ ra hết nơi này đến nơi khác trên
thế giới với quy mô càng rộng lớn, với tính chất quyết liệt hơn và hầu hết đều có vai trò,
mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc nhất là Mỹ vì lợi ích của họ.
Ngay trong năm đầu tiên của thế kỷ XXI, cả thế giới tư bản hoảng loạn sau vụ
khủng bố ở nước Mỹ (11/9/2001). Sự mất ổn định chính trị - xã hội đã đến gõ cửa
“thánh đường” thiêng liêng nhất, được bảo vệ nghiêm ngặt nhất của thế giới tư bản. Sự


mất ổn định chính trị - xã hội đâu chỉ là việc riêng của các nước nghèo, bị phụ thuộc mà
có thể nói là việc đáng lo ngại của tất cả các nước trong tình hình thế giới ngày nay.
Đảng và nhân dân ta đã, đang và sẽ còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề ổn định chính
trị - xã hội . Ngay từ những ngày đầu đổi mới đất nước (1986), Đảng ta đã đề ra nhiệm
vụ giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Đảng ta xác định rõ có ổn định chính trị - xã hội
mới có điều kiện để ổn định và phát triển tất cả các lĩnh vực khác của toàn bộ chế độ xã
hội ta. Suốt 15 năm đổi mới đất nước, không khi nào Đảng ta lơi lỏng nhiệm vụ giữ
vững ổn định chính trị - xã hội . Do vậy công cuộc đổi mới của ta đã có những bước đi
rất vững chắc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thắng lợi sau to hơn thắng lợi trước.
Sau 15 năm đổi mới đất nước, tình hình chính trị - xã hội của nước ta: “Cơ bản ổn định,
quốc phòng và an ninh được tăng cường [14,tr.70]. Nước ta được đánh giá là một trong
những nước ổn định nhất trong khu vực và trên thế giới. Nhưng hiện nay nước ta cũng
còn có những nhân tố tiềm ẩn gây ra mất ổn định chính trị - xã hội. Nước ta nằm trong

khu vực Đông Nam Á, châu Á Thái Bình Dương, một khu vực có nhiều nhân tố tiềm ẩn
gây mất ổn định trong những năm tới. Ở trong nước, “bốn nguy cơ” mà Đảng ta đã chỉ
rõ vẫn đang có nhiều tác động tiêu cực có thể gây rất mất ổn định chính trị - xã hội ,
trong đó nguy cơ tham nhũng đang là một mối đe doạ đến việc sống còn của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Riêng về vấn đề tham nhũng nguyên Tổng Bí thư Đảng cộng
sản Việt Nam Đỗ Mười đã chỉ rõ:
Trong lịch sử thế giới xưa nay không ít trường hợp một Nhà nước, một chế độ mặc
dù có quá khứ vẻ vang nhưng sụp đổ mau chóng một khi thoái hoá tham nhũng, quan
liêu, xa rời nhân dân, đánh mất niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân. [47, tr.12].
Ở nước ta hiện nay cũng nổi lên một số vấn đề bức xúc mà nếu không ngăn chặn
kịp thời cũng sẽ gây ra những hậu quả khôn lường thậm chí gây mất ổn định chính trị xã hội . Vì vậy, việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội , hơn bao giờ hết, lại là vấn đề
được đặt lên hàng đầu, là một mục tiêu có ý nghĩa sống còn mà toàn Đảng, toàn dân
phải tập trung thực hiện trên thực tế đời sống xã hội nước ta.


Trong lý luận cũng như trên thực tiễn hiện nay, việc nhận thức về “ổn định chính trị
- xã hội” và hành động nhằm thực hiện giữ vững ổn định chính trị - xã hội cũng chưa
được nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống. Để thực hiện nhiệm vụ hàng đầu, sinh
tử này trước hết đòi hỏi phải có sự thống nhất nhận thức về “ổn định chính trị - xã hội”,
từ đó mới có thể có sự thống nhất hành động nhằm thực hiện thành công mục tiêu giữ
vững ổn định chính trị - xã hội tạo điều kiện cơ bản cho phát triển mọi lĩnh vực của đất
nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một yêu cầu khách quan và cấp thiết.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu một cách cơ bản, có thệ thống vấn đề ổn định
chính trị - xã hội ở nước ta là việc làm cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Các văn kiện của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới
đất nước ít hay nhiều đều đề cập đến vấn đề ổn định chính trị - xã hội . Để định ra
đường lối đúng đắn lãnh đạo đất nước, Đảng ta đều phân tích sâu sắc tình hình chính trị
- xã hội trên thế giới và trong nước, đánh giá thực trạng của việc giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, từ đó nêu ra những quyết sách chính trị lớn cho đất nước. Các chủ trương,

chính sách của Nhà nước đều hướng tới mục tiêu đảm bảo cho đất nước giữ vững ổn
định chính trị - xã hội để đất nước từng bước phát triển. Đường lối chính trị của Đảng,
chủ trương chính sách của Nhà nước, vì vậy trở thành căn cứ lý luận trong việc nghiên
cứu ổn định chính trị - xã hội .
-Trên lĩnh vực nghiên cứu, trước đây và hiện nay đã có nhiều công trình khoa học
cấp Nhà nước, cấp Bộ giành sự chú ý cần thiết để phân tích, lý giải ý nghĩa vai trò của
ổn định chính trị - xã hội đối với sự nghiệp đổi mới. Thí dụ như đề tài KX 05. “Đổi mới
và tăng cường hệ thống chính trị của nước ta trong giai đoạn mới”. Đề tài này đã nghiên
cứu một cách hệ thống lý luận về hệ thống chính trị, thực trạng của hệ thống chính trị và
những giải pháp tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Tuy không trực tiếp đặt ra
vấn đề ổn định chính trị - xã hội nhưng đề tài này cũng đưa ra sự liên quan giữa việc đổi
mới hệ thống chính trị với việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội . Đề tài KX 09-04:
“Chiến lược diễn biến hoà bình, bạo loạn, lật đổ và đối sách của ta”; đề tài KX04-14


“Đổi mới chính sách xã hội nhằm đảm bảo an ninh xã hội” đều đề cập đến mối quan hệ
giữa giữ vững ổn định chính trị - xã hội với việc chống lại chiến lược “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch, quan hệ mật thiết giữa giữ vững ổn định chính trị - xã
hội với việc thực hiện các chính sách xã hội.
Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến vấn đề ổn định chính trị - xã hội trong
các tác phẩm của mình. Chẳng hạn các tác giả như Nguyễn Đức Bách- Lê Văn YênNhị Lê đã viết: “Một số vấn đề về định hướng XHCN ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội, 1998; Phạm Xuân Nam: “Quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc
tiến bộ và công bằng”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Vũ Thị Phùng:
“Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam”,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội1999; Lương Xuân Quỳ: “Cơ cấu thành phần
kinh tế ở nước ta hiện nay, lý luận thực trạng và giải pháp”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Hà Nội, 2001; Trần Xuân Sầm: “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới”, Nhà xuất bản Chính trị- quốc gia, Hà
Nội, 1998…
Trên các tạp chí nghiên cứu, một số tác giả cũng đã đề cập đến trạng thái ổn định

chính trị - xã hội với những góc độ khác nhau. Chẳng hạn các tác giả như Lê Hữu
Nghĩa đã bàn về: “ Vai trò của chính trị trong việc đảm bảo định hướng XHCN”, Tạp
chí Cộng sản số 5/1996; Văn Tạo: “Cải cách, đổi mới và cách mạng - những phạm trù
lịch sử và biện chứng”, Tạp chí Cộng sản số 3 (2-1999); Đường Vinh Sường; “Một số
vấn đề xã hội nổi cộm, nguyên nhân và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Cộng sản số 6 (32000). Nguyễn Trọng Chuẩn; Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách kinh tế
và đổi mới chính sách xã hội”, Tạp chí Triết học, số 6/1996.
Như vậy, vấn đề ổn định chính trị - xã hội đối với sự nghiệp đổi mới đất nước đã
được nhiều tác giả nghiên cứu quan tâm. Nhưng cho đến nay chưa có một công trình
chuyên sâu nào bàn đến vấn đề ổn định chính trị - xã hội đối với công cuộc đổi mới đất
nước. Luận án “Ổn định chính trị - xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước” sẽ nghiên


cứu cơ bản, hệ thống cả về lý luận và thực tiễn vấn đề ổn định chính trị - xã hội trong
công cuộc đổi mới đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích:
Nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống vấn đề ổn định chính trị - xã hội ở nước ta
cơ bản về mặt lý luận và thực tiễn từ đó đưa ra một số giải pháp để giữ vững ổn định
chính trị - xã hội nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH trong công cuộc đổi mới đất nước ta
theo định hướng XHCN.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ các khái niệm cơ bản dưới góc độ chuyên ngành CNCSKH: chính trị, xã
hội, chính trị - xã hội , ổn định chính trị - xã hội vai trò của ổn định chính trị - xã hội
và mối quan hệ với sự phát triển xã hội trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc XHCN ở nước ta .
- Phân tích rõ những thành tựu về ổn định chính trị - xã hội ở nước ta từ khi thực
hiện đổi mới đến nay đồng thời khảo sát, phân tích những mặt hạn chế, bất cập, những
vấn đề chính trị - xã hội bức xúc đang hoặc có khả năng nảy sinh.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản để tiếp tục giữ vững ổn định về
chính trị - xã hội ở nước ta trong quá trình phát triển đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp

CNH, HĐH những năm tới.
4. đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong
công cuộc đổi mới ở nước ta .
- Phạm vi nghiên cứu: ổn định chính trị - xã hội liên quan đến nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội và trải qua nhiều giai đoạn phát triển của lịch sử. Trong phạm vi của đề
tài này, luận án chỉ nghiên cứu lĩnh vực ổn định tư tưởng chính trị, ổn định quan hệ giai
cấp, dân tộc, tôn giáo, ổn định hoạt động của hệ thống chính trị, việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá tức là giữ vững ổn định chính trị xã hội từ khi đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới đến nay.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án.


- Trình bày một cách có hệ thống quan niệm về: chính trị - xã hội , ổn định chính trị
- xã hội , phân tích vai trò ổn định chính trị - xã hội trong quan hệ với sự phát triển của
xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm về ổn định chính trị - xã hội .
- Phân tích thực trạng tình hình ổn địnhh chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay (cả
thành tựu lẫn hạn chế), đồng thời nêu ra một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm
tiếp tục củng cố sự ổn định chính trị - xã hội trong thời gian tới.
6. Cơ sở phương pháp luận của luận án.
- Luận án dựa trên những phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, lấy tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng XHCN và xã hội
XHCN ở Việt Nam; những quan điểm đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay
làm cơ sở lý luận.
- Sử dụng các tài liệu nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến ổn định chính trị xã hội (cả tài liệu quốc tế và trong nước).
7.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
- Luận án góp phần làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về các khái niệm chính trị, xã hội, chính trị - xã hội , ổn định chính trị - xã hội
; làm rõ những đặc trưng của việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nước ta ; làm rõ
thực trạng của vấn đề này ở nước ta hiện nay và luận chứng tính khả thi của các giải
pháp cơ bản để tiếp tục giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy triết học Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học và cho những ai quan tâm tới việc nghiên cứu vấn đề
ổn định chính trị - xã hội của đất nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 3
chương, 7 tiết.
CHƯƠNG 1
ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
1.1. NHỮNG CĂN CỨ DẪN ĐẾN KHÁI NIỆM GHÉP “CHÍNH TRỊ - XÃ
HỘI”


Muốn đi tới khái niệm ghép chính trị - xã hội, trước hết cần làm rõ các khái niệm có
liên quan trực tiếp.
1.1.1. Khái niệm chính trị
Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, xuất hiện khi xã hội phân chia thành các
giai cấp, khi xuất hiện Nhà nước.
Tiếp cận với chính trị từ những lập trường giai cấp khác nhau sẽ có những quan
điểm khác nhau. Có thời kỳ, giới học giả tư sản đã từng xem chính trị là một “nhà hát”.
Trong “nhà hát” này có vở diễn, nghệ sỹ, người xem, sự bài trí sân khấu và nhà phê
bình. Vì thế, chính trị có sự phụ thuộc vào nghệ thuật vốn có của nhà hát nói chung. Mặt
khác, vì là “nhà hát chính trị” nên nó còn có những điểm riêng biệt của mình. Học giả
Max Weiber xem chính trị là khát vọng tham gia vào quyền lực hay ảnh hưởng đến sự
phân chia quyền lực giữa các tập đoàn người trong một quốc gia hoặc giữa các quốc gia.
Cũng có một số học giả lại xem chính trị chỉ là thủ đoạn, chỉ là những mưu đồ nhằm đạt
tới quyền lực của cá nhân, của phe nhóm. Những quan điểm này có chứa đựng một nhân
tố có giá trị nhất định nhưng chưa làm rõ bản chất giai cấp của chính trị, tính quy định
của mối quan hệ lợi ích trước hết là lợi ích kinh tế giữa các giai cấp đối với chính trị.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã có quan niệm khoa học về chính trị. Những người mácxít
cho rằng phải xem xét chính trị trong quan hệ với kinh tế, với giai cấp, với lợi ích giai

cấp, với Nhà nước cùng thiết chế chính trị bảo đảm hiện thực hoá những nhu cầu chính
trị, kinh tế.
Xét về bản chất, chính trị có nguồn gốc từ kinh tế, là sự biểu hiện tập trung của kinh
tế, là kinh tế cô đọng lại. Đây là luận điểm mang tính duy vật về chính trị, bởi vì chính
trị không phản ánh nhu cầu kinh tế ngẫu nhiên mang tính chất đơn nhất, mà nó phản ánh
tính bản chất của nhu cầu kinh tế. Trong khi phản ánh những khuynh hướng kinh tế
khác nhau thì chính trị của giai cấp cầm quyền phản ánh khái quát những xu hướng
khác nhau đó và làm nổi bật xu hướng của kinh tế chủ đạo. Điều đó sẽ làm cho chính trị
quy tụ được sức mạnh của toàn giai cấp hay xã hội nói chung để hiện thực hoá xu
hướng kinh tế chủ đạo. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh


tế… chính trị không thể chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế” [29,tr.349]. So với kinh
tế, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu vì khi giải quyết các vấn đề kinh tế,
chính trị của giai cấp cầm quyền phải định hướng vào việc bảo vệ và phát triển quyền
lực chính trị của mình. Một khi quan điểm đúng, chính trị sẽ can thiệp tự giác vào tiến
trình kinh tế khách quan (điều chỉnh mối tương quan kinh tế). Xét về tương quan, kinh
tế tuy là điểm xuất phát và là mục tiêu của chính trị, nhưng chính trị phải có vị trí đặc
biệt quan trọng vì quyền lực chính trị là tiền đề xuất phát để đi tới giành lợi ích kinh tế,
vì quan điểm chính trị trong kinh tế có tác dụng quy định chiều hướng, khuynh hướng
phát triển kinh tế và hoạt động kinh tế phải nhằm đảm bảo và bảo vệ định hướng chính
trị, khi giải quyết các vấn đề kinh tế phải luôn luôn xuất phát từ các quan điểm chính trị.
Do vậy, cần tránh khuynh hướng tuyệt đối hoá tự do kinh tế, đồng thời cũng tránh tuyệt
đối hoá chính trị mà xa rời quyền lợi kinh tế hoặc làm thiệt hại đến lợi ích kinh tế của
cộng đồng.
Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp. Các giai cấp là chủ thể của chính trị tương
ứng bởi vì chính các giai cấp cấu thành những mặt của các quan hệ chính trị. Quan hệ
giai cấp biểu hiện bản chất của đời sống chính trị cả trong lĩnh vực kinh tế lẫn phạm vi
kiến trúc thượng tầng. Chính trị là mối quan hệ qua lại giữa các giai cấp, mối quan hệ
này quy định nội dung và tạo thành nền tảng hết sức quan trọng của chính trị. Các giai

cấp và mối quan hệ qua lại giữa các giai cấp tạo thành cơ sở trực tiếp của chính trị.
Chính trị có quan hệ hữu cơ với lợi ích giai cấp. Do vị trí khác nhau trong hệ thống
sản xuất của xã hội, các giai cấp có nhu cầu khác nhau. Các nhu cầu đó được biểu hiện
trong những lợi ích giai cấp nhất định. Giai cấp thống trị luôn quan tâm tới việc sử dụng
mọi công cụ có trong tay để duy trì, củng cố quan hệ sản xuất thống trị mà nó là đại
diện. Giai cấp bị trị lại muốn thay thế quan hệ sản xuất đó để giải phóng mình.
Ph.Ăngghen cho rằng trong xã hội có đối kháng giai cấp, các quan hệ kinh tế bao giờ
cũng được biểu hiện ra trước hết là những lợi ích. Bởi vì, trong xã hội có giai cấp, các
lợi ích kinh tế cơ bản biểu hiện tập trung và khái quát thành lợi ích chính trị. Khát vọng


lợi ích cơ bản của giai cấp làm nảy sinh đấu tranh giai cấp mà hình thức cơ bản của nó
là đấu tranh chính trị. Chính vì thế V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng lợi ích kinh tế cơ bản
của giai cấp công nhân chỉ được thoả mãn nhờ cách mạng chính trị, thay thế chuyên
chính tư sản bằng chuyên chính vô sản.
Như vậy, từ bản chất giai cấp của chính trị, chúng tôi tán thành quan điểm cho rằng:
Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa các quốc gia có
liên quan tới vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước, là biểu hiện tập trung
của kinh tế, là những phương hướng, những mục tiêu được quy định bởi những lợi ích
cơ bản của giai cấp, của đảng phái; là hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp,
các đảng phái, các nhà nước để hiện thực hoá lợi ích cơ bản của mình trong mối tương
quan với các chủ thể chính trị khác[6,tr.39]
Nhưng theo chúng tôi, không nên dùng từ “chính trị” ngay trong định nghĩa khái
niệm chính trị. Và chúng tôi bổ sung thêm là: những quan hệ, hoạt động theo phương
hướng, mục tiêu đó trước hết và chủ yếu thể hiện bản chất một chế độ xã hội khi còn
giai cấp và đấu tranh giai cấp.
1.1.2.Khái niệm xã hội
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất.
Hình thái vận động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa
người với người làm nền tảng. C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “Xã hội không phải

gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của
các cá nhân đối với nhau” [40,tr.355]. Theo C.Mác: “xã hội- cho dù nó có hình thức gì
đi nữa- là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”
[38,tr657].
Xã hội là một bộ phận đặc biệt của thế giới tự nhiên. Cùng với quá trình tiến hoá
của tự nhiên, xã hội cũng có một quá trình phát triển lịch sử của mình, thể hiện bằng sự
vận động, biến đổi và phát triển không ngừng của cơ cấu xã hội.Ở mỗi giai đoạn lịch sử
cụ thể, có một dạng cơ cấu xã hội cơ bản đặc thù (hình thái kinh tế-xã hội, được coi như
những nấc thang của sự phát triển xã hội). Nền tảng chung của các cơ cấu cụ thể này là


những mối quan hệ sản xuất vật chất, những mối quan hệ kinh tế giữa người và người,
trên đó sẽ hình thành một thượng tầng kiến trúc phù hợp. C.Mác viết:
Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những
quan hệ xã hội, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát
triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội
phong kiến, xã hội tư sản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể
đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân
loại[34,tr.553].
Khi nhấn mạnh xã hội đều được đặc trưng bởi một tổng thể quan hệ sản xuất thì chủ
nghĩa Mác- Lênin cũng chỉ ra rằng quan hệ sản xuất chỉ là cái biểu hiện bên ngoài là
hình thức xã hội của một phương thức sản xuất nhất định còn cái quyết định nội dung
của nó lại chính là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người, là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong
quá trình cải biến tự nhiên, nhằm bảo đảm sự sinh tồn và phát triển của con người và xã
hội. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hợp thành phương thức sản xuất. Quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ biện chứng, chúng luôn quy
định và chế ước nhau, trong đó lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Quan hệ
giữa con người và tự nhiên (lực lượng sản xuất) được hình thành một các khách quan và

tất yếu. Nội dung và cũng là cái quyết định một phương thức sản xuất là lực lượng sản
xuất đã mang tính khách quan tất yếu thì hình thức biểu hiện của nó - quan hệ sản xuất
nói riêng và quan hệ xã hội nói chung cũng phải mang tính khách quan và tất yếu. Do
đó:
Xã hội với tư cách là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người và người cũng
được hình thành một cách khách quan và tất yếu. Sự vận động, biến đổi và phát triển
của xã hội phải tuân theo những quy luật nội tại vốn có của nó, trước tiên là quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản


xuất. Từ đó, có thể khẳng định rằng con người không thể tuỳ tiện lựa chọn cho mình
một hình thức xã hội này hay một hình thức xã hội khác.[22, tr.401]
Như vậy, với nghĩa thông thường, có thể quan niệm về xã hội như sau:
Xã hội, theo nghĩa rộng nhất là một khái niệm phản ánh các hoạt động và các mối
quan hệ giữa con người với con người trên mọi lĩnh vực ở một giai đoạn phát triển nhất
định của lịch sử. Một xã hội xác định vận động, phát triển theo những quy luật nội tại,
trước tiên là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất, kiến trúc thợờng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Xét về ngữ nghĩa, với nội dung cơ bản nhất và với nghĩa rộng nhất thì khái niệm xã
hội rộng hơn khái niệm chính trị. Bởi vì mọi vấn đề có liên quan đến các hoạt động của
con người đều là những quan hệ và những hoạt động xã hội, trong đó có cả chính trị,
kinh tế, văn hoá v.v… Nhưng trên thực tế có nhiều quan hệ, vấn đề cụ thể không thể chỉ
diễn đạt theo nghĩa rộng nhất của xã hội, do đó mà cũng có khái niệm xã hội theo nghĩa
hẹp hơn, ngang cấp với khái niệm chính trị, kinh tế, văn hoá… đó là khái niệm xã hội
phản ánh những quan hệ những hoạt động, những mặt… cụ thể hơn của toàn xã hội đã
và đang nảy sinh một cách khách quan cùng với kinh tế, chính trị, văn hoá mà ta thường
gọi là những vấn đề xã hội để có thể có những chính sách xã hội. Ví dụ: các vấn đề thất
nghiệp và việc làm, thất học, phân hoá giàu, nghèo, phong tục và hủ tục, công bằng và
bất công, đạo lý và phi đạo lí, nhân cách và phản nhân cách, bệnh tật, rủi ro, tệ nạn
v.v… Đó là những vấn đề gắn trực tiếp hơn với nhu cầu vật chất và tinh thần của mỗi

người trên cơ sở kinh tế, chính trị, lịch sử và văn hoá xác định. Những vấn đề xã hội đó
luôn có liên quan chặt chẽ với kinh tế, chính trị nhưng lại không thể xếp vào một cách
giản đơn với các vấn đề kinh tế,chính trị.
Do vậy, hiểu quan niệm về xã hội cần phải hiểu theo nghĩa rộng (gồm nhiều lĩnh
vực như chính trị, kinh tế, văn hoá…)và cả là vấn đề xã hội theo nghĩa hẹp. Ở luận án
này, khái niệm xã hội sử dụng theo nghĩa hẹp khi đề cập đến vấn đề chính trị - xã hội và
ổn định chính trị - xã hội.
1.1.3. Khái niệm chính trị - xã hội


Nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước, nhiều bài phát biểu của những người lãnh
đạo Đảng và Nhà nước ta có nói đến thuật ngữ chính trị - xã hội. Trong cuộc sống hàng
ngày, thuật ngữ chính trị - xã hội cũng thường được sử dụng (nhất là từ những năm 80
của thế kỷ XX đến nay). Tuy nhiên cho đến nay chưa có một định nghĩa khoa học nào
về thuật ngữ này.
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, chương trình cao cấp, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội 1996 có viết:
Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu các tính quy luật chính trị - xã hội trong quá
trình vận động của xã hội tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội
khoa học nghiên cứu sự tác động của các quan hệ xã hội như giữa các lực lượng xã hội
và chính trị, giữa Nhà nước với các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tập thể, các
cá nhân v.v… Các quan hệ xã hội này trong xã hội có giai cấp đều có tính chất chính
trị nên gọi là các quan hệ chính trị - xã hội. Cần chú ý rằng việc nghiên cứu các quan hệ
chính trị - xã hội rất phức tạp về cơ cấu và có quan hệ mật thiết với các quan hệ xã hội
khác trong lĩnh vực kinh tế và đời sống tinh thần của xã hội [20,tr.15].
Ở đoạn lập luận này, tác giả của giáo trình có giải thích quan hệ chính trị - xã hội là
các quan hệ xã hội này trong xã hội có giai cấp đều có tính chất chính trị nên gọi là các
quan hệ chính trị - xã hội. Cách giải thích này đã cho chúng ta hiểu được phần nào khái
niệm ghép chính trị - xã hội. Tuy vậy, theo chúng tôi, sự phân tích rất cần thiết và khoa
học đó vẫn chưa hẳn là một định nghĩa khái niệm ghép chính trị - xã hội.

Chúng ta cần phân tích mối quan hệ giữa chính trị và xã hội.
Chính trị là một bộ phận nằm ở thượng tầng kiến trúc của một hình thái kinh tế - xã
hội. Chính trị có ảnh hưởng rất rõ đối với các yếu tố khác ở thượng tầng kiến trúc như
pháp luật, tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật và có tác động rất lớn đối với cơ sở kinh tế. V.I.
Lênin nhấn mạnh chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế do đó chính trị không
thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Chính trị tác động đến cơ sở kinh tế của
xã hội, chi phối các hoạt động và các quan hệ xã hội. Sự tác động của chính trị đến các
quan hệ xã hội có thể trực tiếp có thể gián tiếp. Trực tiếp là các chủ thể chính trị có thể


thông qua các chính sách mà điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động đến các giai cấp xã
hội. Tác động gián tiếp của chính trị là chính trị tác động đến kinh tế và kinh tế lại tác
động quyết định các quan hệ xã hội. Tác động tích cực hay tiêu cực của nhân tố chính
trị phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, cách mạng hay phản tiến bộ, phản cách mạng của
giai cấp đang thống trị xã hội. Khi giai cấp thống trị đại diện cho lực lượng sản xuất tiến
bộ, cho tư tưởng chính trị tiến bộ thì có tác dụng tích cực đến sự phát triển của xã hội.
Khi giai cấp thống trị xã hội trở thành lạc hậu thì kìm hãm sự phát triển của xã hội. Như
vậy, trong xã hội có giai cấp, nhân tố chính trị thâm nhập vào nhân tố xã hội và nhân tố
xã hội cũng thâm nhập vào nhân tố chính trị. Các quan hệ xã hội tốt đẹp sẽ làm cho
chính trị bền vững, các quan hệ xã hội rối loạn sẽ làm cho kinh tế bị kìm hãm, xã hội
mất ổn định và chính trị có thể bị lung lay. Vì vậy giữa nhân tố chính trị và nhân tố xã
hội của một hình thái kinh tế xã hội không tách rời nhau luôn có quan hệ biện chứng với
nhau.
Vậy theo chúng tôi, khái niệm chính trị - xã hội được hiểu là một khái niệm ghép
phản ánh một thực tế khách quan của xã hội có giai cấp, trong đó, mọi quan hệ xã hội
của con người, những cộng đồng người đều bị chi phối bởi một giai cấp cầm quyền
thông qua hệ tư tưởng chính trị và những thiết chế quyền lực của nó ở một chế độ xã
hội cụ thể.
Phân tích cặn kẽ hơn về khái niệm chính trị - xã hội thể hiện trên cả mặt thực tiễn và
lý luận, chúng ta có thể thấy rõ, đó là: Những định hướng chính trị, những ý nghĩa

chính trị, những tác động chính trị, do giai cấp cầm quyền tác động lên những quan hệ,
những hoạt động của con người trên các lĩnh vực cơ bản của xã hội như lĩnh vực chính
trị, lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực văn hoá. Trong lịch sử nhân loại, các chế độ xã hội khác
nhau đều có những lĩnh vực chủ yếu như trên. Nhưng ở các xã hội khác nhau thì các
lĩnh vực chủ yếu đó lại có nhiều đặc điểm, nội dung, hình thức khác nhau. Suy cho cùng
là do các giai cấp thống trị ở mỗi chế độ xã hội đã có những định hướng chính trị khác
nhau trên các lĩnh vực của xã hội. “theo hình ảnh của mình”, tức là phải phù hợp với


mục tiêu và lợi ích của mình. Thí dụ cùng trên lĩnh vực kinh tế nhưng lĩnh vực kinh tế
tư bản chủ nghĩa là đem lại lợi ích kinh tế nhiều nhất cho giai cấp tư sản còn lĩnh vực
kinh tế chủ nghĩa xã hội mang lợi ích cho toàn dân, đặc biệt là cho đại đa số người lao
động. Thí dụ như cùng là sử dụng thành tựu khoa học như lý thuyết về nguyên tử, la
de… nhưng chủ nghĩa đế quốc dùng những thành tựu này để xâm lược các dân tộc khác.
Chủ nghĩa xã hội dùng những thành tựu này để bảo vệ hoà bình. Thí dụ, cùng là vấn đề
giúp đỡ người thất nghiệp, người nghèo, nhưng ở chủ nghĩa tư bản, Chính phủ tư sản
chủ yếu là trợ cấp, phát chẩn, bằng nguồn chính từ ngân sách Nhà nước. Suốt mấy thế
kỷ qua (dù có thể có mức trợ cấp rất cao) nhưng họ không đặt ra mục đích giải quyết
triệt để vấn đề thất nghiệp, đói nghèo vì nếu xã hội thực sự có bình đẳng tư sản - vô sản
thì không còn giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Trong chủ nghĩa xã hội, dù bước đầu
sản xuất, đời sống còn thấp nhưng Đảng của giai cấp công nhân và Nhà nước XHCN
chủ trương xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ người nghèo để người nghèo tự vươn lên chủ
yếu bằng sản xuất để giàu có như những người khác. Rõ ràng là cùng một vấn đề,
nhưng giai cấp tư sản và giai cấp công nhân đã có định hướng chính trị - xã hội khác
nhau theo mục đích, lợi ích của mình.
Với cách hiểu này thì các xã hội có giai cấp khác nhau như xã hội chiếm hữu nô lệ,
xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội XHCN đều có mặt chính trị - xã hội
khác nhau. Mặt chính trị - xã hội về cơ bản bị chi phối bởi giai cấp đang thống trị xã
hội. Các học giả tư sản tuy thừa nhận mặt chính trị - xã hội của xã hội tư sản (không
ngừng củng cố tăng cường các tổ chức bạo lực nhằm duy trì xã hội theo trật tự tư sản)

nhưng vẫn cố tình che giấu bản chất giai cấp tư sản. Còn những người mác xít thì quan
niệm chính trị - xã hội phải bao hàm tính giai cấp. Chính trị - xã hội của xã hội XHCN
mang bản chất giai cấp công nhân. Việc công khai bản chất chính trị của giai cấp công
nhân, của chủ nghĩa xã hội là cần thiết để nhân dân hiểu, tin ở đường lối cách mạng của
Đảng cộng sản vì lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của quần chúng lao
động, phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.


1.2.QUAN NIỆM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ
HỘI
1.2.1Quan niệm về ổn định.
Hiện nay, thuật ngữ ổn định được dùng khá phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Thí dụ như ổn định đời sống, ổn định thu nhập, ổn định gia đình… chỉ một
trạng thái của sự vật trong một hoàn cảnh xác định. Về mặt triết học, thuật ngữ ổn định
chỉ một trạng thái trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Thế giới vật chất luôn
vận động không ngừng nhưng không loại trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng
im tương đối. Không có hiện tượng đứng im tương đối: “không có sự vật nào tồn tại
được” [22, tr.189] Ph.Ănggen cho rằng:
Trong vận động của các thiên thể, có vận động trong cân bằng và có cân bằng trong
vận động (một cách tương đối). Nhưng bất kỳ vận động tương đối riêng biệt nào (…)
cũng đều có xu hướng khôi phục lại sự đứng yên tương đối, sự cân bằng. Khả năng
đứng yên tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ
yếu của sự phân hoá của vật chất [36,tr.740].
Ph.Ăng ghen còn chỉ rõ: Mọi sự cân bằng chỉ là “tương đối” và “tạm thời” trong sự
vận động tuyệt đối và vĩnh viễn của thế giới vật chất.
Ổn định phải được xem là mặt “nhất thời” của trạng thái vận động, phát triển.
C.Mác nhấn mạnh:
Trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời bao
hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó về sự diệt vong tất yếu của
nó, về mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động,

tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó. [37, tr.35]
Trạng thái ổn định nhất thời của sự vật có 2 mặt, mặt khẳng định và phủ định. Hai
mặt này có sự tác động qua lại với nhau. Đó là mối quan hệ biện chứng của sự vật, làm
cho sự vật tồn tại trong thể “vừa là nó” lại “không phải là nó”. Nói đến ổn định là nói
đến trạng thái đối lập với rối loạn, khủng hoảng… đồng thời trạng thái này cũng xa lạ
với sự tĩnh lặng hoàn toàn hay bất biến, cố định tuyệt đối. Ổn định không làm triệt tiêu
hay kìm hãm sự vận động, phát triển mà có quan hệ mật thiết với vận động, phát triển.


Mặt ổn định của sự vật là điều kiện để sự vật tự khẳng định, tự định hình, đồng thời là
môi trường tốt cho các thuộc tính, các mặt bên trong sự vật tiến hành quá trình chuyển
hoá biến đổi. Nhờ có trạng thái ổn định, sự vật trong quá trình vận động sẽ biến đổi từ
trình độ thấp lên trình độ cao, từ mức độ bấp bênh, không chắc chắn đến mức độ vững
bền hơn. Với ý nghĩa đó, ổn định là một dạng đặc biệt của vận động, phát triển và vận
động, phát triển là quá trình thay đổi các trạng thái ổn định của sự vật. Không có ổn
định thì không có phát triển nhưng “không phát triển thì cũng khó duy trì được ổn định
lâu dài và vững chắc” [51,tr.353]. Ổn định và biến đổi vừa là tiền đề là điều kiện cho
nhau, vừa là nhân, vừa là quả của nhau, là sự thể hiện của mối quan hệ giữa vận động và
đứng im.
Tóm lại, ổn định chỉ một trạng thái của tự nhiên, xã hội, tư duy trong quá trình vận
động phát triển của sự vật đó. Do vậy, xét cả trên thực tiễn lẫn trong sự khái quát triết
học thì ổn định mang tính tương đối, vì nó chính là sự vận động trong những mâu
thuẫn, trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập và cũng là sự thống nhất tương đối- xét
về mặt triết học.
1.2.2.Nội dung cơ bản về ổn định chính trị - xã hội
Trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước, trong các tác phẩm nghiên cứu lý luận, các
bài báo của nhiều tác giả, trong ngôn ngữ thường dùng, chúng ta thường gặp thuật ngữ
ổn định chính trị - xã hội. Cách hiểu thuật ngữ này rất khác nhau. Vì thế cho đến nay
cũng chưa có một định nghĩa đầy đủ nào về thuật ngữ: ổn định chính trị - xã hội. Để có
thể đi đến một định nghĩa về thuật ngữ ổn định chính trị - xã hội cần phải xem xét vấn

đề này trên những khía cạnh sau:
*Ổn định chính trị - xã hội là trạng thái xã hội mà ở đó có sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với tính chất, trình dộ của lực lượng sản xuất; giữa kiến trúc thượng
tầng và cơ sở hạ tầng của xã hội.
Khi nghiên cứu xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, C.Mác - Ph.Ăng ghen đã
đưa ra khái niệm hình thái kinh tế - xã hội.


Theo C.Mác - Ph.Ăng ghen, xã hội là một chỉnh thể các yếu tố hợp thành bao gồm
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng, các yếu tố
này có mối quan hệ biện chứng với nhau.
C.Mác - Ph.Ăng ghen đã nêu ra quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là : “một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là
“hình thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng thái mà ở đó các
yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất “tạo thành địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất p
hát triển”.
C.Mác - Ph.Ăngghen còn chỉ rõ sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ
kinh tế của xã hội và các quan hệ chính trị tinh thần hình thành trên các quan hệ kinh tế
đó qua mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. C.Mác viết:
Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội; tức là cái
cơ sở hiện thực trên đó dựng lêm một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và
những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó [35,tr.15].
Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ biện chứng.
Chúng tôi nhận thấy sự phân tích sau đây về mối quan hệ đó là khoa học và sát thực
tiễn. Đó là: cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có thể “phù hợp với nhau và cũng có
thể mâu thuẫn với nhau. Nếu sự thống nhất, sự phù hợp giữa chúng tạo nên sự ổn định,
sự phát triển của xã hội thì sự không phù hợp giữa chúng lại tạo nên sự bất ổn định, sự
trì trệ thậm chí là sự rối loạn đối với xã hội” [62, tr.4].
Sự phù hợp giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng sẽ tạo ra sự phù hợp của

nhân tố chính trị và nhân tố kinh tế. Lịch sử chứng minh, không có nền kinh tế nào
trong xã hội có giai cấp mà lại không chịu sự chi phối điều tiết của chính trị, không trực
tiếp thì cũng gián tiếp, không biểu hiện bên ngoài thì cũng ẩn dấu bên trong. Trong thực
tiễn, sự tác động của chính trị với kinh tế theo các hướng:
Một là, cùng với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị có vai trò tích cực đối với sự
phát triển kinh tế.


Hai là, ngược chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị là vật cản, kìm hãm sự
phát triển kinh tế.
Ba là, chính trị có khả năng hạn chế phần nào phạm vi tác dụng những khuynh
hướng phát triển này hoặc có thể đẩy mạnh tác dụng của những khuynh hướng phát
triển khác trong một chế độ kinh tế nhất định.
Sự tác động cùng chiều của chính trị với phát triển kinh tế sẽ làm cho cả chính trị và
kinh tế đều ổn định và phát triển. Lúc đó, chính trị sẽ mở đường cho sự phát triển của
kinh tế và mỗi bước tiến của kinh tế sẽ góp phần củng cố hoàn thiện các yếu tố chính trị.
Ở trạng thái có sự phù hợp giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, xã hội cũng
thường xuất hiện sự phát triển cùng chiều của chính trị và văn hoá. Chính trị phát triển
cùng chiều với văn hoá sẽ mở đường cho sự phát triển của văn hoá. Mỗi bước phát triển
của văn hoá lúc đó cũng sẽ góp phần thúc đẩy cả chính trị, kinh tế phát triển.
Như vậy, tổng hợp của sự phù hợp và phát triển cùng chiều của các nhân tố chính
trị, kinh tế, văn hoá sẽ tạo ra trạng thái ổn định chính trị - xã hội.
*Ổn định chính trị - xã hội trên lĩnh vực tư tưởng chính trị của xã hội.
Ổn định tư tưởng chính trị của xã hội thực chất là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị
giữ vị trí chủ đạo trong xã hội. Các hệ tư tưởng, tư tưởng của các giai cấp tầng lớp khác
trong xã hội phải tuân theo hệ tư tưởng chủ đạo của giai cấp thống trị. Có thể có sự
xung đột về mặt tư tưởng, hệ tư tưởng giữa các giai cấp, tầng lớp với nhau và giữa các
giai cấp với giai cấp thống trị. Nhưng những xung đột này vẫn nằm trong khuôn khổ của
luật pháp, không phá vỡ được hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong lịch sử, nếu hệ
tư tưởng của giai cấp thống trị nào đại diện cho lợi ích của đại đa số giai cấp, tầng lớp

trong xã hội thì hệ tư tưởng ấy được toàn xã hội chấp nhận, trở thành nền tảng tư tưởng,
tinh thần của xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị chỉ đại diện cho lợi
ích của một nhóm người thống trị thì dù giai cấp thống trị có dùng cả hệ thống bạo lực
để bảo vệ hệ tư tưởng của mình, hệ tư tưởng ấy cũng không thể giữ được vị trí chủ đạo
trong xã hội. Hệ tư tưởng đó sẽ bị xã hội lên án. Các cuộc đấu tranh tư tưởng chống lại
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị sẽ xảy ra, đẩy xã hội vào tình trạng rối loạn tư tưởng.
Thông thường, khi giai cấp thống trị đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, thì hệ tư


tưởng của giai cấp này cũng mang tính cách mạng tiên tiến. Vì vậy sự hấp dẫn, sức
mạnh chinh phục của hệ tư tưởng tiên tiến đó sẽ tạo ra cho xã hội sự ổn định về tư
tưởng, chính trị. Nhưng cũng có một thực tế là, khi giai cấp thống trị xã hội không còn
là giai cấp cách mạng nữa, hệ tư tưởng thống trị bị chỉ trích, công phá, giai cấp thống trị
đã biết điều chỉnh hệ tư tưởng của mình phù hợp với một số đòi hỏi về lợi ích của nhân
dân. Sự điều chỉnh này cũng đã làm giảm đi xung đột về tư tưởng trong xã hội và cũng
vẫn giữ được sự ổn định tạm thời về tư tưởng chính trị của xã hội.
*Ổn định chính trị - xã hội trong lĩnh vực quan hệ chính trị của xã hội:
Quan hệ chính trị là một loại quan hệ xã hội đặc biệt mang tính khách quan. Đó là
quan hệ giữa công dân với Nhà nước, quan hệ giữa các tập đoàn, giai cấp khác nhau với
vấn đề nhà nước; quan hệ giữa các thành phần dân tộc khác nhau trong một quốc gia với
Nhà nước; quan hệ giữa Nhà nước (của một quốc gia) với một quốc gia khác, quan hệ
của nhà nước với các tôn giáo trong một quốc gia. Đồng thời, về bản chất cũng là quan
hệ với giai cấp cầm quyền xã hội thông qua Đảng chính trị của nó. Bởi vì, về thực chất,
mọi hiến pháp, pháp luật, chính sách và hoạt động của Nhà nước đều là thể chế hoá và
thực thi đường lối chính trị và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Chỉ có điều khác về bản
chất giai cấp cầm quyền là: lợi ích, quyền lực của giai cấp công nhân và Đảng cộng sản
lại thống nhất cơ bản về lợi ích, quyền lực của toàn thể nhân dân lao động các dân tộc.
Ổn định chính trị - xã hội là trạng thái ổn định của các quan hệ chính trị đặc biệt đó.
Quan hệ giữa các cá nhân con người (ở xã hội tư bản và xã hội ngày nay gọi là công
dân) với Nhà nước là một quan hệ chính trị cơ bản của tất cả các chế độ chính trị - xã

hội từ xưa cho đến nay. Ở xã hội chiếm hữu nô lệ, đó là quan hệ giữa các thành viên của
xã hội với nhà nước chủ nô. Ở xã hội phong kiến là mối quan hệ giữa thân dân và vua.
Ở xã hội tư bản và XHCN là mối quan hệ giữa công dân và Nhà nước. Trong mối quan
hệ này, các thành viên của xã hội phải có nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội như phải
lao động đóng góp tiền của cho Nhà nước, phải chiến đấu bảo vệ Nhà nước… Ngược lại
Nhà nước phải đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong xã hội như quyền được
sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và một số quyền chính trị, kinh tế, văn hoá khác…


Quyền và nghĩa vụ của các thành viên của mỗi một xã hội do trình độ phát triển kinh tế
- xã hội ở xã hội đó quy định. Nếu Nhà nước đảm bảo được sự thống nhất hài hoà giữa
nghĩa vụ và quyền lợi của các thành viên xã hội với Nhà nước. Còn nếu như Nhà nước
chỉ chú trọng mặt nghĩa vụ mà xem nhẹ mặt quyền lợi hoặc chỉ giải quyết mặt quyền
lợi mà không giải quyết mặt nghĩa vụ đều tạo ra sự mất ổn định trong mối quan hệ giữa
các thành viên xã hội với Nhà nước. Cho nên ổn định quan hệ giữa các thành viên xã
hội với Nhà nước thực chất là ổn định mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi của các
thành viên xã hội đối với Nhà nước. Nhà nước nào giải quyết thoả đáng mối quan hệ
giữa nghĩa vụ và quyền lợi của các thành viên xã hội với Nhà nước thì sẽ tạo ra được
điều kiện thuận lợi cho việc ổn định chính trị - xã hội, giải quyết không thoả đáng mối
quan hệ này sẽ tạo ra những nhân tố làm mất ổn định chính trị - xã hội.
Từ khi giai cấp và Nhà nước xuất hiện đến nay, mối quan hệ giữa các giai cấp với
Nhà nước luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các Nhà nước. Giải quyết thành công
hay không thành công mối quan hệ này quyết định đến sự còn- mất của một Nhà nước
của một chế độ chính trị - xã hội. Ở xã hội có giai cấp, các giai cấp đều có những lợi ích
riêng, thậm chí có lợi ích đối lập nhau. Các giai cấp thường có sự xung đột với nhau về
lợi ích dẫn đến các cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử. C.Mác cho rằng: “Lịch sử các
xã hội từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp” [33,tr.596]. Nhà nước là
tổ chức đại diện cho lợi ích của giai cấp thống trị. Để duy trì lợi ích lâu dài của mình, dù
muốn hay không muốn, giai cấp thống trị bắt buộc phải bảo đảm một số lợi ích cơ bản
của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, giữ cho các lợi ích này ở trạng thái không

xung đột quyết liệt với lợi ích của giai cấp thống trị. Thông qua Nhà nước, giai cấp
thống trị có thể điều chỉnh một phần quan hệ lợi ích của các giai cấp và các tầng lớp xã
hội đặc biệt là hạn chế ở mức độ nào đó sự bóc lột giai cấp thống trị khi có những bất
đồng xảy ra. Trong lịch sử, ngay chế độ phong kiến đã có những thời kỳ phải thực hiện
chính sách hạn điền, hạn nô. Trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản phải xã hội hoá


quan hệ sản xuất ở một số lĩnh vực. Đó là những biện pháp để duy trì trật tự xã hội trong
khuôn khổ pháp luật của các xã hội này.
Mối quan hệ giữa các dân tộc khác nhau trong một quốc gia với Nhà nước cũng là
một quan hệ chính trị phức tạp đòi hỏi các Nhà nước phải giải quyết đúng đắn. Ở các
quốc gia đa dân tộc, sắc tộc, mỗi dân tộc, sắc tộc tuy có những điểm chung như sự cố
kết cộng đồng quốc gia, liên kết kinh tế… Nhưng cũng có rất nhiều điểm khác biệt về
văn hoá, tín ngưỡng, lợi ích… Trong quá trình phát triển của các quốc gia đa dân tộc,
sắc tộc, các dân tộc, sắc tộc thường xung đột với nhau mà nguyên nhân có thể là do sự
bất bình đẳng dân tộc gây ra. Cho nên Nhà nước phải giải quyết vấn đề quan hệ giữa các
dân tộc (chủ yếu là việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa các dân tộc). Nhà nước phải có
chính sách cụ thể về dân tộc, đoàn kết dân tộc trên cơ sở đặt lợi ích của quốc gia dân tộc
lên trên hết. Nhà nước của bất cứ chế độ chính trị - xã hội nào nếu có được các chính
sách dân tộc phù hợp đều có thể tạo ra sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Quan hệ giữa Nhà nước (của một quốc gia) với các quốc gia khác là một quan hệ
chính trị rất phức tạp. Sự ổn định hay không ổn định của quan hệ này đều có ảnh hưởng
đến tình hình chính trị - xã hội của cả các bên tham gia. Trong khu vực cũng như trên
trường quốc tế, mỗi quốc gia đều có những lợi ích riêng. Quan hệ giữa các quốc gia
thực chất cũng là mối quan hệ về lợi ích của các quốc gia. Trong mỗi quan hệ này, Nhà
nước (đại diện cho quốc gia) phải bảo vệ được lợi ích của quốc gia mình. Nhưng việc
bảo vệ lợi ích của quốc gia là rất khó. Lịch sử cho thấy, từ xưa đến này, các quốc gia
lớn luôn có xu hướng xâm lược các quốc gia nhỏ, chà đạp lên lợi ích của các quốc gia
nhỏ. Các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia gây ra sự mất ổn định chính trị - xã hội của
khu vực và trên thế giới. Để giữ lợi ích quốc gia của mình, Nhà nước phải có đường lối

đối ngoại phù hợp. Đường lối đối ngoại này phải dựa trên nguyên tắc: giữ vững chủ
quyền dân tộc, tôn trọng lợi ích của quốc gia khác, hợp tác với quốc gia khác để cùng
phát triển. Chỉ trên cơ sở đó mới tạo ra sự ổn định trong quan hệ giữa các quốc gia, góp


phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở quốc gia mình cũng như ổn định chính trị - xã
hội ở các quốc gia khác.
Quan hệ của Nhà nước với các tôn giáo trong một quốc gia. Tôn giáo là một vấn đề
xã hội nhưng nếu giải quyết không thoả đáng sẽ trở thành vấn đề chính trị rất phức tạp.
Hiện nay trên thế giới, nước nào cũng có nhiều tôn giáo tồn tại. Hoạt động của các tôn
giáo ở các nước nhìn chung đang có xu hướng chuyển thành các hoạt động mang tính
chính trị. Những cuộc xung đột giữa các tôn giáo ở một số quốc gia dần mang màu sắc
chính trị đã đẩy xã hội lâm vào tình trạng mất ổn định chính trị - xã hội. Vì thế, Nhà
nước của nhiều quốc gia phải đặt ra và giải quyết vấn đề tôn giáo sao cho vấn đề tôn
giáo không biến thành những vấn đề chính trị. Để giữ cho các hoạt động tôn giáo diễn ra
bình thường. Nhà nước (của một quốc gia) phải có chính sách tôn giáo phù hợp. Chính
sách tôn giáo phải đảm bảo lợi ích chính đáng cho những người theo tôn giáo, đảm bảo
tự do tín ngưỡng của họ, đồng thời trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động
chính trị. Đảm bảo cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo khuôn khổ của luật
pháp cũng góp phần tạo ra sự ổn định của xã hội.
*Ổn định chính trị - xã hội trong hoạt động hệ thống chính trị của xã hội.
Hệ thống chính trị của xã hội bao gồm: các chính đảng, nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội của quần chúng. Ổn định hoạt động của hệ thống chính trị là ổn định vị trí
chính trị của các tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị và ổn định cơ chế hoạt động
của hệ thống chính trị.
Thứ nhất là ổn định hoạt động của các chính đảng.
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới đều có hiện tượng mỗi nước ít nhất phải
có một vài đảng phái và có thể đến hàng trăm đảng phái. Các đảng phái chính trị này
đại diện cho các giai cấp, tầng lớp của xã hội. Hoạt động của các đảng phái chính trị tạo
ra bức tranh chính trị về các đảng phái. Các đảng phái chính trị trong một quốc gia có

thể liên minh với nhau và có thể xung đột với nhau. Sự xung đột giữa các đảng phái
chính trị có thể gây ra sự mất ổn định xã hội của quốc gia. Thông thường, một hoặc hai
đảng phái sẽ vươn lên giữ vị trí là Đảng cầm quyền. Hoạt động của đảng cầm quyền sẽ


khống chế hoạt động của các chính đảng còn lại. Các chính đảng không cầm quyền sẽ
chỉ được hoạt động trong khuôn khổ phápluật. Vì thế thực chất của việc ổn định hoạt
động của các chính đảng là việc ổn định hoạt động của Đảng cầm quyền. Nếu Đảng cầm
quyền mạnh, hoạt động có hiệu quả thì có thể giữ được sự ổn định chính trị - xã hội,
không cho các chính Đảng khác gây ra mất ổn định chính trị - xã hội. Ở nước Mỹ gần
200 năm qua chỉ có hai đảng: Dân chủ, Cộng hoà thay nhau cầm quyền. Hai đảng này
đều đại diện cho tầng lớp đại tư sản Mỹ. Hai đảng này tuy có những điểm bất đồng
nhưng về cơ bản là giống nhau. Cả hai đảng đều liên minh với nhau để không cho một
đảng thứ ba ngoi lên cầm quyền nước Mỹ. Hoạt động ổn định của hai đảng này là nhân
tố rất quan trọng tạo ra sự ổn định của nước Mỹ.
Ở các nước XHCN có thể chỉ có một Đảng cộng sản hoặc có thể có nhiều đảng
chính trị nhưng đảng cầm quyền duy nhất chỉ là Đảng cộng sản. Hoạt động của Đảng
cộng sản cầm quyền là nhân tố quyết định đến sự ổn định hay mất ổn định chính trị - xã
hội ở các nước XHCN. Nếu Đảng cộng sản giữ được vị trí lãnh đạo của mình, hoạt động
lãnh đạo có hiệu quả thì sẽ giữ được ổn định chính trị - xã hội. Nếu hoạt động lãnh đạo
không có hiệu quả thì sẽ gây ra mất ổn định chính trị - xã hội. Đảng cộng sản Liên Xô
trong cuộc cải tổ đã từ bỏ vị trí lãnh đạo của mình, các hoạt động lãnh đạo của Đảng
cộng sản Liên Xô đều kém hiệu lực và hiệu quả, dẫn đến sự khủng hoảng chính trị - xã
hội ở Liên Xô làm cho chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ.
Thứ hai là ổn định hoạt động của Nhà nước.
Nhà nước có vai trò rất to lớn trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội của xã
hội. Nếu Nhà nước mạnh, hoạt động có hiệu quả thì mới giữ được xã hội ổn định phát
triển. Nếu Nhà nước hoạt động không có hiệu quả sẽ gây ra sự mất ổn định chính trị - xã
hội. Ổn định hoạt động của Nhà nước là ổn định các yếu tố sau:
- Giữ vững bản chất giai cấp của Nhà nước.

- Thực hiện tốt các chức năng, các nhiệm vụ của Nhà nước, không chỉ chức năng
giai cấp và cả chức năng xã hội của nhà nước.
- Giữ vững nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước.


- Xây dựng đội ngũ cán bộ có khả năng hoàn thành các công việc trong bộ máy Nhà
nước.
- Luôn điều chỉnh chế độ, chính sách cho phù hợp đáp ứng sự vận động, biến đổi
của xã hội.
Trong quá trình hoạt động của Nhà nước, chỉ một yếu tố trên không giữ được ổn
định đều có thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự suy yếu của Nhà nước, dẫn đến sự
mất ổn định chính trị - xã hội của xã hội.
- Giữ vững bản chất giai cấp của Nhà nước. Nhà nước tư sản mang bản chất của giai
cấp tư sản. Từ khi ra đời đến nay, các Nhà nước tư sản không hề thay đổi bản chất giai
cấp của mình. Nhà nước tư sản ở các nước tư bản phát triển hiện nay vẫn là Nhà nước
của tầng lớp đại tư sản. Để bảo vệ lợi ích tư sản, giai cấp tư sản không ngừng hoàn bị
Nhà nước tư sản. Vì thế các Nhà nước tư sản ở các nước tư bản phát triển hiện nay vẫn
được xem là những Nhà nước có tiềm lực mạnh, vẫn đủ sức giữ yên được sự ổn định
của xã hội. Nhà nước XHCN luôn luôn là Nhà nước mang bản chất của giai cấp công
nhân gắn liền với tinh thần nhân dân rộng rãi - tức Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Bản chất đó không bao giờ thay đổi cho đến khi nó “tự tiêu vong” (nếu không mắc
những sai lầm có tính nguyên tắc, cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học). Một số nước
XHCN luôn giữ được bản chất của Nhà nước XHCN trong hoạt động của mình, vì vậy,
những nước này đã giữ vững được sự ổn định chính trị - xã hội. Còn các nước XHCN,
trong quá trình phát triển đã thay đổi bản chất của Nhà nước XHCN thí dụ như Liên Xô,
các nước XHCN Đông Âu thì đều dẫn đến sự rối loạn chính trị - xã hội, dẫn đến tan rã.
- Thực hiện tốt các chức năng, các nhiệm vụ của Nhà nước. Thể hiện ở chỗ là Nhà
nước có chức năng chính trị và chức năng xã hội, chức năng đối nội và chức năng đối
ngoại ngay trong quá trình quản lý xã hội. Trong hoạt động của Nhà nước nếu Nhà nước
thường xuyên thực hiện đầy đủ các chức năng trên thì mới giữ được ổn định của đất

nước. Trong các chức năng đó ổn định chức năng xã hội trực tiếp ảnh hưởng đến sự ổn
định chính trị - xã hội. Nếu Nhà nước nào quản lý tốt những hoạt động chung vì tồn tại


của xã hội, lo tới công việc chung của toàn xã hội, thoả mãn một số nhu cầu chung của
cộng đồng dân cư chứ không phải chủ yếu về một thiểu số người thì Nhà nước đó giữ
được ổn định chính trị - xã hội. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, Nhà nước đều có nhiệm vụ cụ
thể nhất định mà bao quát nhất là: nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc về chế độ xã hội, nhiệm vụ
tổ chức, quản lý, xây dựng xã hội phtá triển theo mục tiêu xác định. Nếu Nhà nước thực
hiện thành công các nhiệm vụ đó, không tự tiện thay đổi các nhiệm vụ về lợi ích riêng
của một thiểu số thì nmới giữ được sự ổn định chính trị - xã hội.
- Giữ vững nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Mỗi Nhà nước
đều có nguyên tắc tổ chức hoạt động nhằm đảm bảo việc quản lý của Nhà nước đạt hiệu
quả cao nhất. Ở nhà nước tư sản có nguyên tắc tổ chức Nhà nước theo cơ cấu tự cân
bằng và kiểm soát quyền lực… Nhà nước XHCN có nguyên tắc thống nhất quyền lực,
nguyên tắc tập trung dân chủ. Tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước phải đảm bảo
được sự ổn định của các nguyên tắc đó. Nếu phá vỡ sự ổn định của các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động, bộ máy Nhà nước sẽ rối loạn, ảnh hưởng trực tiếp đến việc giữ vững
ổn định chính trị - xã hội.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước. Mỗi một Nhà nước trong từng giai
đoạn phát triển đều định ra tiêu chuẩn cho đội ngũ công chức. Nếu đối ngũ công chức
đảm bảo được tiêu chuẩn phù hợp thì sẽ hoàn thành chức trách của mình. Nếu tiêu
chuẩn không phù hợp và đặc biệt là đội ngũ công chức bị tha hoá, quan liêu, tham
nhũng đều là nguyên nhân dẫn đến sự mất ổn định chính trị - xã hội.
- Điều chỉnh chế độ, chính sách phù hợp với biến đổi của xã hội. Trong thời đại
ngày nay, Nhà nước quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật. Nếu như luật pháp của Nhà
nước liên tục thay đổi một cách tuỳ tiện thì sẽ không giữ được sự ổn định chính trị - xã
hội. Sự ổn định của luật pháp thể hiện ở sự ổn định của Hiến pháp và các đạo luật lớn và
sau đó là các chính sách và các công vụ của Nhà nước. Việc thực thi hiến pháp và các
đạo luật lớn được duy trì thường xuyên thì mới bảo đảm cho xã hội giữ được sự ổn định

chính trị - xã hội. Tất nhiên khi đạo luật đã lạc hậu thì Nhà nước cần phải xoá bỏ và đề
ra những đạo luật mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Ổn định luật pháp là ổn định


×