Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

TIỂU LUẬN: XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.55 KB, 125 trang )






TIỂU LUẬN:

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI,
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY











Xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực con người đã trở
thành nhân tố quyết định sức mạnh của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Để
thực hiện thắng lợi công việc lớn lao này, cần phải: 1) Tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; 2) Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục –
đào tạo, khoa học – công nghệ; 3) Từng bước hoàn thiện và mở rộng dân chủ xã hội
chủ nghĩa; 4) Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy
đảng và nhà nước.


Xuất phát điểm của đổi mới là gì, nếu không phải là từ con người, bởi không có sự
đổi mới xã hội nào nếu như không có sự đổi mới từ con người. Một loạt vấn đề về
con người, nhân cách con người, trí tuệ con người, tiềm năng, nguồn lực con người,
xây dựng và phát triển con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI đòi hỏi phải tiếp tục đi
sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong phạm
vi bài viết này, chúng tôi muốn giới hạn ở vấn đề xây dựng và phát triển con người,
nâng cao chất lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay.
Thực ra, vấn đề con người không phải là vấn đề mới, không phải đến khi xây dựng
chủ nghĩa xã hội chúng ta mới bàn đến, mà ngay khi con người có ý thức và khả
năng tìm hiểu thế giới xung quanh, con người cũng đồng thời tìm cách giải đáp
những bí mật về mình. Lịch sử nhân loại, xét đến cùng, là lịch sử giải quyết vấn đề
con người và giải phóng con người từng bước thoát khỏi thần quyền và bạo quyền để
đi đến mục tiêu cuối cùng là phát triển toàn diện cá nhân trong xã hội văn minh.
Không một dân tộc nào tồn tại và phát triển lại không chú ý đến con người, chỉ có
điều là khác nhau ở mục đích và phương pháp giải quyết mà thôi. Thực tiễn đổi mới
ở Việt Nam vừa qua đã chứng minh rằng, không phải bộ máy, cũng không phải khâu


nào khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó, mà chính là con người
với phẩm chất và năng lực nhất định đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh của
đổi mới. Vì thế, đổi mới không thể thành công, nếu chúng ta không tạo ra được môi
trường xã hội thuận lợi để khơi dậy hoạt động sáng tạo của con người. Mặt khác, đổi
mới cũng chẳng đem lại kết quả gì, nếu chúng ta quay lưng lại với những vấn đề rất
cơ bản của con người.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người"; "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải có người xã hội chủ nghĩa". Tại Đại hội VII, khi xác định con người Việt Nam
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta đã khẳng
định nhiệm vụ trọng tâm của văn hoá là tập trung xây dựng con người và nguồn nhân

lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại
Đại hội VII (năm 1991) đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước;
có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện cá
nhân; công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo.
Tại Đại hội VIII, khi đưa ra các phương hướng chủ yếu phát triển trí tuệ con người
Việt Nam thể hiện trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Đảng ta đã khẳng định
giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành “quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 2 (năm 1996) và Hội nghị Trung ương 5 (năm 1998) khoá VIII đều
nhấn mạnh những phẩm chất cơ bản của con người mới mà chúng ta cần xây dựng để
phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là những
con người phát triển toàn diện cả về đức lẫn tài, trong đó đức là gốc, cả về thể lực
lẫn trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ; có kỹ năng lao động giỏi; có ý chí và bản lĩnh trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khoá IX đã khẳng định quyết tâm của toàn Đảng
là: tiếp tục triển khai trong thực tiễn quan điểm phát triển giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ với tư cách quốc sách hàng đầu; quán triệt sâu sắc hơn nữa ở các
cấp, các ngành và trong toàn xã hội về vai trò động lực của các yếu tố văn hoá, xã


hội đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Kế thừa các Đại hội trước, Đại hội X đã chỉ rõ: Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta
cần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ; phát triển nguồn nhân lực; "xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con
người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá
trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí
tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam"(1).

Như vậy, có thể nói, công cuộc đổi mới ở nước ta luôn được đặt ra trong mối quan hệ
với việc giải quyết vấn đề con người, lấy con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới. Tính chất và hiệu quả của sự nghiệp đổi mới xã hội phụ
thuộc vào tính chất và hiệu quả của việc giải quyết vấn đề con người. Song, vấn đề
phát triển con người và nguồn nhân lực, giải quyết các vấn đề xã hội bao giờ cũng là
vấn đề cơ bản, có tính chiến lược và cần phải được tiến hành một cách nghiêm túc,
thận trọng, tránh chủ quan, duy ý chí.
Trước đổi mới, với lối suy nghĩ chủ quan, phiến diện, chúng ta đã coi nhẹ vai trò con
người và khi nói đến con người, chúng ta chỉ nhấn mạnh về mặt dân số, nguồn lao
động, thành phần giai cấp , mà chưa chú ý đầy đủ đến cá nhân, nhân cách con
người. Với những quan niệm như vậy, trong hoạt động sản xuất, chúng ta chỉ quan
tâm đầu tư phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật của sản xuất, còn con người được xem
như là yếu tố lao động đương nhiên, có sẵn trong quá trình sản xuất, đòi hỏi phải
"khai thác" triệt để và có hiệu quả mà không chú ý đến việc chăm sóc, bồi dưỡng,
không chú ý đến nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Kết quả là sản xuất
không tiến lên được và con người cũng không phát triển được.
Hiện nay, mặc dù từ Đại hội VI, con người đã được coi là đối tượng, mục tiêu và
động lực của mọi hoạt động kinh tế - xã hội, nhưng nhận thức này chưa phải đã được
thấm nhuần và quán triệt ở mọi cấp trong tổ chức Đảng và chính quyền. Phần lớn
quần chúng nhân dân chưa nhận thức được đầy đủ vấn đề cấp bách và quan trọng
này. Trên thực tế, quan niệm về vấn đề con người, chất lượng nguồn lực con người
trong phát triển kinh tế - xã hội chưa rõ ràng và còn quá đơn giản. Thậm chí, nhiều
khi chúng ta chỉ coi đó là những chính sách xã hội và nhân đạo đơn thuần.


Việc đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển thường còn dừng ở định
hướng chứ chưa được thể hiện rõ trong hành động cụ thể. Vì vậy, trong quá trình
phát huy và sử dụng nhân tố con người, vì hạnh phúc của con người, chúng ta vẫn
còn vấp phải những thiếu sót sau đây:
- Việc đào tạo, giáo dục và phát triển con người vẫn chưa theo kịp với đòi hỏi của

công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước. Thậm chí, có lúc chúng ta còn chưa
lấy việc làm giàu thêm tri thức và nhân cách của con người làm mục đích hoạt động,
chỉ biết chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần và do vậy, kết quả thu được chẳng là bao.
- Mục tiêu đề ra không chỉ thiếu căn cứ khoa học, mà cả cơ sở thực tiễn và hơn nữa,
còn chưa được bảo đảm bằng những chính sách, giải pháp tương ứng.
Chính vì vậy, tại Đại hội X, một lần nữa, Đảng ta đã khẳng định, cần phải coi trọng
hơn nữa chất lượng nguồn lực con người trong phát triển kinh tế – xã hội, phải thực
sự coi đó là nguồn vốn quý nhất trong tất cả các nguồn vốn của xã hội. Thiết nghĩ,
điều này phải trở thành suy nghĩ thường trực của mọi người, mà trước hết là đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đi đôi với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta
cần phải có một chiến lược phát triển con người Việt Nam đủ tầm đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đổi mới hiện nay và cả trong tương lai. Ở đây, theo chúng tôi, cần
phải giải quyết tốt các vấn đề cơ bản sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Tổng kết
20 năm đổi mới, Đảng ta đã nhấn mạnh: "Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định"(2). Thật vậy,
trong điều kiện nền kinh tế mà cho đến nay, vẫn trong tình trạng chậm phát triển, để
có được những thành công lớn trong đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu tất yếu. Chính tính hợp quy luật đó đã tạo ra địa
bàn thuận lợi cho việc phát huy tính chủ động sáng tạo của con người và thực tế hơn
20 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn đó. Song, tính biện chứng của quá
trình phát triển sản xuất hàng hoá cũng chỉ ra mặt trái của nó - đó là nạn đầu cơ, buôn
lậu, nâng giá, ép giá, làm hàng giả Chúng ta không được phép coi nhẹ, mà phải
cảnh giác với những tệ nạn này. Đồng thời, Nhà nước phải sử dụng chính sách, pháp
luật; phải có thể chế phù hợp để điều tiết có định hướng và hạn chế những hiện tượng


tiêu cực, tự phát, chú trọng hơn nữa việc chống lãng phí và tham nhũng. Đây là yêu
cầu cần thiết mà chúng ta đã làm và tiếp tục phải làm. Đảng ta đã nhấn mạnh: "Phát

triển đồng bộ các loại thị trường và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa"(3).
Thực tế cho thấy, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) hiện đang còn sức
sống và phát huy tác dụng của nó, đang là động lực cho sự phát triển xã hội. Muốn
giải quyết vấn đề con người, không thể dừng lại ở sự nỗ lực của từng cá nhân, mà
phải tạo ra một chế độ kinh tế vừa có điều kiện phát huy tối đa năng lực cá nhân, vừa
định hướng, lôi cuốn tất cả mọi người theo yêu cầu tiến bộ chung của xã hội. Vì thế,
cần phải thực hiện tốt mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh"; đồng thời “giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất,
nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân"(4).
Trong thời đại nền văn minh mới, nền văn minh thông tin, muốn nâng cao khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế, yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh lại chính là con
người. Trong cạnh tranh, mọi sự gian dối tầm thường sẽ bộc lộ, thất bại và cuối cùng,
thắng lợi chủ yếu là công nghệ mới, năng lực quản lý, điều hành có hiệu quả. Xã hội
tồn tại, phát triển đâu phải bằng lừa dối, đầu cơ, hàng giả , mà bằng trình độ sáng
tạo của con người. Đây là vấn đề có tính quy luật. Có thể nói, trong thế giới ngày nay,
ai tạo ra công nghệ mới, năng lực quản lý mới trên cơ sở phát huy tối đa khả năng sáng
tạo của con người thì người đó thắng. Đường lối "đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức"(5) mà Đảng ta đã đưa ra hoàn toàn phù hợp với
xu thế khách quan đó.
Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ngày nay, khoa học - công nghệ đang tác động mạnh mẽ vào chính cuộc sống con
người. Thế giới đang đổi thay, phát triển và cạnh tranh quyết liệt, tận dụng thời cơ và
những thách đố của thời đại không phải là công việc của riêng quốc gia nào. Nhật
Bản đã xây dựng 19 thành phố công nghệ rải rác khắp đất nước với ý định dẫn đầu



loài người vào làn sóng văn minh mới. Hoa Kỳ đang cố níu lại vị trí siêu cường quốc
về kinh tế của mình bằng mọi cách, kể cả thủ đoạn sử dụng vũ lực quân sự. Các nước
thuộc Cộng đồng kinh tế châu Âu đang cố gắng bứt lên trong cuộc cạnh tranh quyết
liệt để sánh ngang với Nhật Bản và Mỹ. Các "con rồng châu Á” tuy "đi sau", nhưng
cũng đã làm được những điều phi thường về kinh tế Tất cả những quốc gia này đã
làm nên những điều kỳ diệu trong phát triển kinh tế - xã hội nhờ sớm nhận thức được
vai trò của tri thức và triệt để khai thác kho tài nguyên vô tận này.
Triết lý kinh doanh lấy công nghệ làm trung tâm như trước đây không còn đúng nữa,
mà giờ đây đã chuyển sang một bước ngoặt mới - đó là triết lý kinh doanh coi con
người là trung tâm, quyền ưu tiên được giành cho con người ở khía cạnh tri thức,
trình độ chuyên môn và động cơ lao động của nó.
Chính vì vậy, đầu tư cho giáo dục phải được coi là đầu tư cơ bản, đầu tư cho tái sản
xuất sức lao động, đầu tư cho tương lai. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nước trong
kế hoạch phát triển đất nước đã đặt giáo dục vào hệ thống ba chiến lược: giáo dục,
khoa học và mở cửa.
Thực tiễn lịch sử, nhất là trong thời đại ngày nay, đã chứng minh rằng, trong tất cả
các yếu tố tạo nên sự thành công của các nước, không có yếu tố nào quan trọng hơn
giáo dục - đào tạo. Từ Nghị quyết Đại hội VII, Đảng ta đã coi giáo dục - đào tạo là
“quốc sách hàng đầu". Tại Đại hội Đảng VIII, Đảng đã đưa ra các phương hướng chủ
yếu để phát triển trí tuệ con người Việt Nam trên các lĩnh vực khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII, Đảng đã chỉ rõ mục tiêu của
giáo dục - đào tạo trong giai đoạn cách mạng mới. Tại Đại hội IX, Đảng tiếp tục
khẳng định đường lối phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời nhấn mạnh việc quán
triệt quan điểm coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến
cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục - đào tạo. Gần đây, tại Đại hội X, khi
khẳng định chúng ta đã "tạo được chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục và đào
tạo", "phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ", một

lần nữa, Đảng ta nhấn mạnh đường lối “đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao”, trên cơ sở “nâng cao chất lượng giáo dục toàn


diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học;
thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt
Nam”(6).
Ba là, từng bước hoàn thiện và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực.
Dân chủ là vấn đề cơ bản của hệ thống chính trị và toàn bộ hoạt động của đời sống
xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, người lao động hoạt động không phải chỉ với tư cách
người công dân, mà còn với tư cách người chủ tư liệu sản xuất. Do đó, đặc điểm dân
chủ xã hội chủ nghĩa luôn có sự thống nhất giữa quyền công dân và quyền làm chủ
xã hội của người chủ tư liệu sản xuất. "Dân là gốc", tất cả là do dân, vì dân, quyền
lực của dân là tối cao. Hoạt động của Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo là theo xu
hướng tất yếu đó. Đây là điểm xuất phát để chúng ta từng bước xây dựng hệ thống
chính trị với phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đó không phải
chỉ là hoạt động của những công dân, mà chính là hoạt động của người chủ xã hội.
Tuy nhiên, mở rộng dân chủ phải đi đôi với xây dựng kỷ cương, kỷ luật. Nhà nước sẽ
tự mình làm tan rã mình, nếu không hoạt động trên cơ sở pháp luật. Điều nguy hiểm
là các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của mình mà không có pháp luật
hoặc không thông qua pháp luật. Một thời gian trước đây, trong lãnh đạo hoạt
động xã hội cũng như trong cuộc sống từng người dân, chúng ta còn có quá
nhiều mặt không được pháp luật bảo vệ, việc vi phạm dân chủ đã trở thành hiện
tượng phổ biến. Có thể nói, người phá kỷ cương trước nhất, người vi phạm kỷ
cương lớn nhất không ai khác ngoài những người thoái hoá, biến chất trong các
cơ quan nhà nước có trách nhiệm thi hành và bảo vệ pháp luật. Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến mất lòng tin và gây nên sự công phẫn của dân với
nhiều cơ quan và không ít cán bộ nhà nước. Đổi mới là một quá trình cải biến
cách mạng nhằm khắc phục những hiện tượng trên, đồng thời từng bước phá bỏ

những lực cản trong xã hội và trong mỗi con người. Do vậy, cần phải có những
hình thức tổ chức, cơ chế hợp lý và tiến bộ góp phần vào xây dựng Nhà nước để
Nhà nước ta thật sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, để khi con người được
đặt trong cơ chế đó thì quyền tự do dân chủ của họ được thực hiện trong thực tế.
Và, chính cơ chế đó sẽ thu hút quần chúng tham gia quản lý kinh tế - xã hội,


tham gia kiểm kê, kiểm soát số lượng lao động, sản xuất và phân phối sản phẩm.
Ở đây, quan hệ lợi ích và quan hệ dân làm chủ gắn bó với nhau tạo thành quan hệ
sống còn đối với chế độ. Nếu dân không làm chủ, xa lạ chế độ, mất lòng tin, đứng
ngoài trông chờ, thì khủng hoảng là không tránh khỏi.
Bốn là, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy đảng và
nhà nước.
Việc con người có thể phát huy mạnh mẽ năng lực hành động tự do, sáng tạo đến đâu
phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội. Nhưng, trong hiện thực cụ thể, điều ấy phụ
thuộc trực tiếp, trước tiên vào tổ chức hoạt động của bộ máy chính trị. Do vậy, việc
xây dựng bộ máy chính trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Ở đây, đấu tranh chống
tham nhũng làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước đang là yêu cầu cấp bách.
Những năm gần đây, chúng ta có không ít chỉ thị, nghị quyết và các cuộc vận động
trong Đảng, trong nhân dân về đấu tranh chống tham nhũng. Thế nhưng, tình hình
chuyển biến còn chậm, nạn tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng, kéo dài gây bất
bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta.

Thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; "nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức
chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo và chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức
tạp nảy sinh"(7). Không hiếm cán bộ suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức vẫn
được "tín nhiệm", được tham gia các cơ quan lãnh đạo, quyền lực. Phần lớn những vụ
việc tiêu cực nghiêm trọng không do tự các tổ chức đảng phát hiện, phanh phui, mà do
công luận và cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện.

Đó là một nguy cơ lớn Bài học của những cuộc khủng hoảng ở các nước Đông Âu,
sự tan rã của Đảng và Nhà nước Liên Xô vừa qua cho thấy, các thế lực thù địch trong
và ngoài nước đã lợi dụng sự tha hoá của cán bộ, đảng viên, sự quan liêu của bộ máy
nhà nước để tách dân với Đảng. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu, trực
tiếp dẫn đến sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội. Phải chăng, trong bối cảnh quốc tế hiện
nay, mất nước do kẻ thù xâm lược nhiều khi khó hơn là tự ta để mất chế độ chỉ vì mất
lòng dân. Do vậy, cần phải đánh giá sâu sắc hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng chứ
không chỉ của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Cần nghiêm túc xem xét lại cơ chế
đánh giá, đề bạt cán bộ hiện nay, bởi ở đây vẫn còn có kẽ hở tạo ra tình trạng chạy chức,


chạy quyền. Phải chăng, tình trạng giảm sút sức chiến đấu một cách phổ biến là do sự
phát triển của chủ nghĩa cá nhân, do nhận thức chính trị không được nâng cao trong
Đảng.
Do vậy, để từng bước đạt được kết quả trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, làm
trong sạch bộ máy đảng, nhà nước, cần giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, phải kiên quyết làm nghiêm từ trong Đảng ra, từ trên xuống và phải xử lý
kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật các vụ việc, nhất là các vụ nghiêm trọng,
không phân biệt kẻ vi phạm ở cương vị cấp bậc nào. Cần phải "xử lý kịp thời, nghiêm
minh, công khai theo kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với những cán bộ,
công chức tham nhũng, bao che cho tham nhũng, gây thiệt hại về tài sản của Nhà
nước, của nhân dân, dù người đó ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu"(8).
Đây là khâu đột phá, có thể lâu nhưng cần phải làm và quyết tâm làm bằng được. Chỉ
có thế, chúng ta mới tạo ra hiệu quả chính trị xã hội lớn nhất và nhanh nhất.
Thứ hai, kiên quyết xóa bỏ cách thức tổ chức bộ máy khiến cho cán bộ, đảng viên trở
thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi, tách rời quần chúng. Bởi cách tổ chức bộ máy cũ
mà chủ yếu là cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp tạo điều kiện cho bất cứ
ai khi có một vị trí nào đó trong bộ máy nhà nước mà mất cảnh giác thì có thể đặc
quyền, đặc lợi. Có người đã sử dụng cương vị của mình như là của riêng "tư hữu
quyền lực" và tự ban cho mình cái quyền đứng trên tổ chức, sống ngoài vòng pháp

luật. Đặc quyền trong Đảng là tiền đề để có đặc quyền trong bộ máy nhà nước, khi mà
sự khôn ngoan trở thành âm mưu, thông minh trở thành lưu manh chính trị, chức
quyền trở thành công cụ của chủ nghĩa cá nhân. Chính đặc quyền, đặc lợi đã phá vỡ
công bằng xã hội. Nó là kẻ thù gây cho chúng ta thương vong nặng nhất trong thời
bình, làm giảm niềm tin của quần chúng. Vì thế, cần phải thay đổi cách thức tổ chức
bộ máy để xoá bỏ tệ nạn đặc quyền, đặc lợi, từ đó gắn bó mật thiết với quần chúng,
phục vụ quần chúng. Đồng thời, cần phải "xây dựng hệ thống chính sách phân phối
thu nhập xã hội và chế độ đãi ngộ công bằng, hợp lý", "tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ
chức bộ máy của Đảng và của cả hệ thống chính trị"(9). Tuy nhiên, đây là một công
việc phải được tiến hành một cách công phu, kiên trì, liên tục và quyết tâm cao. Bởi
xoá bỏ đặc quyền, đặc lợi là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp giữa cái tiến bộ và cái lạc
hậu, cái mới và cái cũ, đạo đức cách mạng và chủ nghĩa cá nhân. Kinh nghiệm cho


thấy, chiến thắng tiêu cực ở người khác, ngoài xã hội tuy đã khó, nhưng còn dễ hơn
nhiều việc chiến thắng tiêu cực của chính mình.
Thứ ba, đẩy mạnh việc giáo dục và tự giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng
viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Không phải cứ tăng trưởng kinh tế là
đạo đức cách mạng tự động được nâng lên; không phải cứ đời sống vật chất được cải
thiện thì mọi tiêu cực về mặt đạo đức, sự sa đoạ về lối sống, sự xuống cấp về đạo đức tự
nhiên được khắc phục. Do vậy, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải đẩy
mạnh việc giáo dục, cũng như tự giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Phải đổi mới nội dung và hình thức giáo dục đạo đức. Việc giáo dục phải được
thực hiện theo nhiều kênh, nhiều biện pháp, nhiều hình thức kết hợp với phương tiện
thông tin đại chúng khác nhau. Phải phát huy cao độ vai trò tích cực, chủ động của từng
cấp uỷ, từng chi bộ. Đi đôi với giáo dục đạo đức cách mạng thì mỗi cán bộ lãnh đạo, quản
lý phải luôn tự mình trau dồi, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, phải từng bước
khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Bởi chính chủ nghĩa cá nhân là một trong những nguyên
nhân trực tiếp làm nảy sinh tham nhũng, quan liêu cũng như sự sa đoạ về đạo đức và lối
sống.

Thứ tư, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng và các cơ quan thông tin đại
chúng trong giám sát và đấu tranh chống tham nhũng. "Quần chúng nhân dân là tai
mắt, là thiên la địa võng". Hầu hết các hiện tượng, các vụ tham nhũng, buôn lậu được
phát hiện và xử lý thời gian qua là do nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng
phát hiện. Công tác chống tham nhũng luôn đòi hỏi phải đổi mới, nâng cao hiệu quả
công tác thông tin, nhấn mạnh tính công khai, phát huy vai trò thanh tra nhân dân. Kết
hợp sức mạnh tổng hợp của các lực lượng chống tham nhũng, tạo điều kiện cho quần
chúng tham gia kiểm kê, giám sát tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý lao động xã hội và
phân phối sản phẩm. Không phải là ngoại lệ, tham nhũng ở nước ta hiện nay vẫn là
biểu hiện sự tha hoá của Nhà nước, cho dù chỉ là một bộ phận công chức nhà nước
tham nhũng. Tại Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh: "Hoàn thiện cơ chế, chính sách,
pháp luật, nhất là về kinh tế, tài chính; về cơ chế, giải pháp phòng ngừa; cơ chế giám
sát, phản biện của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân"(10). Vì vậy, cuộc đấu tranh
chống tham nhũng luôn mang tính chính trị trực tiếp, có ý nghĩa quyết định thành
công trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.


Tất cả vì hạnh phúc của con người - đó là mục tiêu phấn đấu của cả nhân loại từ xưa
đến nay. Nó chi phối tâm tư, khát vọng của mỗi con người và không một trào lưu triết
học nào, không một loại hình tôn giáo nào, không một xu hướng nghệ thuật nào là
không đề cập đến điều đó. Cái khác của chủ nghĩa Mác với các tư tưởng trên là ở chỗ
khẳng định hạnh phúc của con người phải do chính con người giành lấy, con người là
"thượng đế của bản thân mình". C.Mác đã khẳng định như vậy. Đổi mới ngày nay
không chỉ làm ra và đem lại cho con người những điều con người mong muốn, mà chủ
yếu là khơi dậy trong con người lòng tự hào, niềm tin, ý chí và nhiệt tình cách mạng
để con người tự mình làm ra tất cả. Đây cũng là quá trình để con người tiếp cận và
từng bước đi vào quỹ đạo của con đường tiến hoá chung của nhân loại là tiến tới sự
quay trở lại tuyệt đối, tự giác và có bảo toàn tất cả các vốn phong phú của sự phát
triển đã đạt được, sự quay trở lại của con người với chính bản thân mình.r


(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.106.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd., tr.148.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.240.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.26.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.87.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.95.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.48.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.289.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.288, 290.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.288.


QUAN NIỆM DUY VẬT VỀ LỊCH SỬ CỦA C.MÁC VÀ Ý NGHĨA THỜI Đ
ẠI
CỦA NÓ



PHẠM VĂN ĐỨC (*)
Trên cơ sở trình bày một cách khái quát những nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, trong bài viết này, tác giả đã luận chứng nhằm làm sáng tỏ, nổi bật
thêm ý nghĩa thời đại của triết học Mác; phân tích những giá trị khoa học không thể
phủ nhận trong tư tưởng của C.Mác về sự phát triển của xã hội, nhất là tư tưởng về
sự hình thành và phát triển như một tất yếu khách quan của chủ nghĩa xã hội. Theo
tác giả, nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là phải nghiên cứu sâu và cụ thể hoá hơn
nữa các nguyên lý chung của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng và phát triển sáng
tạo triết học Mác để giải quyết những vấn đề mà thời đại đặt ra cho phù hợp với điều

kiện lịch sử mới.

Trong Lễ an táng C.Mác, khi đánh giá công lao vĩ đại của C.Mác đối với sự phát
triển của nhân loại, Ph.Ăngghen đã viết: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát
triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người: cái
sự thật đơn giản đã bị những tầng tầng lớp lớp tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay là:
con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị,
khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v. được; vì vậy, việc sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định
của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các
thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan
niệm tôn giáo của con người ta, cho nên phải xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích
những cái này, chứ không phải ngược lại, như từ trước đến nay người ta đã làm.
Nhưng không phải chỉ có thế thôi. Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức
đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì lập tức một ánh
sáng đã hiện ra trong khi tất cả các công trình nghiên cứu trước đây của các nhà kinh
tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa vẫn đều mò mẫm trong
bóng tối”(1).
Ph.Ăngghen coi đó là hai phát minh vĩ đại của C.Mác - quan niệm duy vật về lịch
sử và học thuyết giá trị thặng dư (2). Vấn đề đặt ra là, nội dung của quan niệm duy


vật lịch sử gồm những gì và việc phát hiện ra quan niệm đó có ý nghĩa như thế nào
đối với sự phát triển của triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung?
Triết học Mác, như chúng ta đều biết, bao gồm 2 bộ phận có mối liên hệ hữu cơ với
nhau, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi
là quan niệm duy vật về lịch sử). Chủ nghĩa duy vật biện chứng được hiểu là khoa
học về các quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và của tư
duy con người; còn chủ nghĩa duy vật lịch sử là bộ môn khoa học nghiên cứu các

quy luật vận động và phát triển của xã hội với tư cách một chỉnh thể. Vì vậy, nếu các
môn khoa học xã hội chuyên ngành, như kinh tế học, luật học, sử học, xã hội học
nghiên cứu từng mặt khác nhau của đời sống xã hội, thì chủ nghĩa duy vật lịch sử
nghiên cứu toàn bộ xã hội như một chỉnh thể thống nhất. Các quy luật xã hội mà nó
nghiên cứu là những quy luật tác động trong tất cả hoặc trong nhiều hình thái kinh tế
– xã hội.
Các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử được C.Mác trình bày ở nhiều
tác phẩm khác nhau, nhưng tập trung nhất là trong Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị. Lời tựa. Chúng ta có thể tóm tắt lại những nguyên lý đó trong một số điểm
sau đây:
Thứ nhất, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, chứ không phải ngược lại - ý thức
xã hội quyết định tồn tại xã hội.
Thứ hai, phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt
xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
Thứ ba, trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ
nhất định, tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn của họ – tức những quan hệ sản
xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực
lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực mà trên đó, dựng lên một kiến trúc
thượng tầng pháp lý và chính trị cùng với những hình thái ý thức xã hội nhất định
tương ứng với cơ sở hiện thực ấy.
Thứ tư, tới một giai đoạn phát triển nào đó, các lực lượng sản xuất vật chất của xã
hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý
của những quan hệ sản xuất ấy - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó, từ


trước đến nay, các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát
triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các
lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội.
Thứ năm, cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng đảo lộn ít

nhiều nhanh chóng. Khi xem xét những cuộc đảo lộn ấy, bao giờ cũng cần phân biệt
cuộc đảo lộn vật chất trong những điều kiện kinh tế của sản xuất, với những hình thái
pháp lý, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học, tóm lại, với những hình thái tư
tưởng trong đó con người ý thức được cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải quyết
nó.
Thứ sáu, không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng
sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát
triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn cũng không bao giờ xuất hiện trước
khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng
bản thân xã hội cũ.
Thứ bảy, về đại thể, có thể coi phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư
sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của hình thái kinh tế - xã hội.
Thứ tám, các quan hệ sản xuất tư sản là hình thức đối kháng cuối cùng của quá trình
sản xuất xã hội, đối kháng không phải với ý nghĩa là đối kháng cá nhân, mà với ý
nghĩa là đối kháng nảy sinh từ những điều kiện sinh hoạt xã hội của các cá nhân;
nhưng những lực lượng sản xuất phát triển trong lòng xã hội tư sản đồng thời cũng
tạo ra những điều kiện vật chất để giải quyết đối kháng ấy. Cho nên, với hình thái xã
hội tư sản, thời kỳ tiền sử của xã hội loài người đang kết thúc(3).
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đem lại cho triết học một quan niệm vừa
duy vật, vừa biện chứng về lịch sử; đã kết hợp một cách hữu cơ chủ nghĩa duy vật
với phép biện chứng. Đó chính là một trong những ý nghĩa thời đại mà C.Mác đã
đóng góp cho nhân loại. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, theo cách giải thích của V.I.Lênin, chủ nghĩa duy vật lịch sử chính là sự
vận dụng triệt để những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực các
hiện tượng xã hội.
Sự vận dụng triệt để nguyên lý của chủ nghĩa duy vật được thể hiện ở chỗ, chủ nghĩa
duy vật lịch sử đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối


quan hệ giữa vật chất và ý thức để nghiên cứu và giải thích sự phát triển xã hội. Vật

chất trong lĩnh vực xã hội được chủ nghĩa duy vật lịch sử quan niệm là tồn tại xã hội,
còn ý thức trong lĩnh vực xã hội là ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, song yếu tố quan trọng nhất
là phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là yếu tố quyết định nhất trong tồn tại
xã hội, bên cạnh các yếu tố cấu thành khác làhoàn cảnh địa lý và mật độ dân số.
Trên thực tế, trong lịch sử triết học, có học thuyết nhấn mạnh quá mức vai trò của
yếu tố địa lý, đồng thời cũng có học thuyết nói đến vai trò quyết định của yếu tố dân
số đối với sự phát triển xã hội. Trái với các học thuyết đó, trong khi không coi nhẹ
vai trò của yếu tố địa lý và dân số, chủ nghĩa duy vật lịch sự khẳng địnhvai trò quyết
định của phương thức sản xuất.
Mỗi phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử là sự thống nhất biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là biểu hiện của
mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, là sự thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản
xuất và người lao động. Người lao động sử dụng tư liệu sản xuất hiện có, trước hết là
công cụ lao động, để tác động vào tự nhiên và qua đó, tạo ra toàn bộ của cải vật chất,
bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Còn quan hệ sản xuất được quan
niệm là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, được
biểu hiện trên ba phương diện: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm. Trong
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai
trò quyết định và chi phối. Chính vì vậy, trong các yếu tố cấu thành tồn tại xã hội,
phương thức sản xuất là yếu tố quan trọng nhất, còn các yếu tố khác là tiền đề và điều
kiện cho sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất.
Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội ở hai trình độ: tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng; đồng thời, nó còn được biểu hiện dưới các hình thái cơ bản khác, như ý thức
chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học và triết
học.
Nếu như chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận rằng, vật chất là cái có trước và
quyết định ý thức, còn ý thức là cái có sau và là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao
là bộ óc con người; là sự phản ánh tự giác thế giới vật chất vào trong bộ óc con
người, đồng thời có tác động tích cực trở lại đối với sự tồn tại và phát triển của thế



giới vật chất thì chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng khẳng định rằng, tồn tại xã hội có
trước và quyết định ý thức xã hội; ý thức xã hội là cái có sau và là sự phản ánh tự
giác, tích cực ít nhiều tồn tại xã hội; nó có tính độc lập tương đối và đặc biệt là,
thông qua hoạt động của con người, có tác động trở lại tồn tại xã hội. Với tính chất
này, ý thức xã hội có thể đóng vai trò đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của tồn
tại xã hội.
Song, chủ nghĩa duy vật lịch sử không dừng lại ở việc lý giải nguyên lý chung về
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, mà còn đi sâu phân tích kết cấu của
xã hội, xác định vị trí, vai trò của từng yếu tố cấu thành xã hội, đồng thời xem xét
mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố đó. Với việc ra đời của khái niệm hình thái
kinh tế - xã hội, C.Mác đã cung cấp cho khoa học xã hội cách tiếp cận mới khi
nghiên cứu về xã hội. Sự thay thế khái niệm xã hội nói chung bằng khái niệm hình
thái kinh tế - xã hội cho phép chúng ta hình dung rõ các yếu tố cấu thành xã hội, các
giai đoạn phát triển của xã hội, đồng thời thấy được nguyên nhân vận động và phát
triển của xã hội nói chung. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội là khái niệm dùng để
chỉ xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định tương ứng với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho xã hội đó và một kiểu kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy. Nhưng, kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho một xã hội bao giờ
cũng tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, do lực
lượng sản xuất đó quy định. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Trong hình thái kinh tế - xã hội, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, cơ sở
hạ tầng (bao gồm tổng thể các quan hệ sản xuất) có vai trò quyết định đối với kiến
trúc thượng tầng (bao gồm hệ tư tưởng, các thể chế và các quan hệ tương ứng - cái
được thiết lập trên cơ sở hạ tầng đó. Tuy nhiên, kiến trúc thượng tầng có tính độc lập
tương đối và có tác động ngược trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Đây chính là điểm mà
C.Mác đã nói đến khi khẳng định rằng, “cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến
trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”.

Thứ hai, với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nguyên lý của phép biện
chứng cũng được áp dụng triệt để vào việc xem xét và lý giải sự phát triển của xã
hội.


Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, mỗi hiện tượng, quá trình xã hội đều có
muôn vàn mối liên hệ qua lại với các hiện tượng, quá trình khác của cả tự nhiên, xã hội
lẫn tư duy con người. Đây chính là sự vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
phép biện chứng vào xem xét xã hội.
Cùng với nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển cũng được
chủ nghĩa duy vật lịch sử vận dụng để xem xét sự phát triển của xã hội. Nếu như
phép biện chứng cho rằng, tự nhiên là một quá trình (Hêghen), mọi sự vật, hiện
tượng luôn ở trong quá trình vận động và phát triển thì chủ nghĩa duy vật lịch sử
cũng khẳng định rằng, xã hội nói chung cũng như mỗi hiện tượng xã hội nói riêng
đều ở trong trạng thái vận động và phát triển không ngừng. Toàn bộ lịch sử vận động
và phát triển của xã hội loài người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế -
xã hội mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội sau bao giờ cũng là một sự phát triển cao
hơn hình thái kinh tế - xã hội trước đó. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một phương
thức sản xuất đặc trưng. Về đại thể, như C.Mác đã viết, có thể coi phương thức sản
xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần
dần của hình thái kinh tế - xã hội.
Đồng thời, chủ nghĩa duy vật lịch sử còn chỉ ra nguồn gốc sâu xa của sự phát triển xã
hội là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong lòng của xã hội, trước hết là
sự đấu tranh giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời, đang
kìm hãm sự phát triển của nó. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì sự đấu tranh
giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất cũ được thể hiện thành cuộc đấu
tranh giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới và giai cấp đại diện cho quan
hệ sản xuất cũ. Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đối kháng sẽ dẫn đến cách mạng xã
hội, tức là dẫn đến bước nhảy vọt về chất trong sự phát triển của xã hội.
Cách mạng xã hội có nhiệm vụ cải tạo một cách căn bản toàn bộ các lĩnh vực của đời

sống xã hội, trước hết là lĩnh vực kinh tế và chính trị. Trong lĩnh vực kinh tế, cách
mạng xã hội có nhiệm vụ giải quyết sự xung đột giữa lực lượng sản xuất mới và quan
hệ sản xuất cũ nhằm thay thế quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu bằng quan hệ sản xuất mới
phù hợp hơn với lực lượng sản xuất mới. Trong lĩnh vực chính trị, cách mạng xã hội
có nhiệm vụ giải quyết sự xung đột giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, thay
thế chính quyền nhà nước cũ bằng chính quyền nhà nước mới. Phương thức để thay


thế nhà nước cũ bằng nhà nước mới là cách mạng bạo lực, bởi nhà nước là sản phẩm
của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, đồng thời là công cụ, là lực
lượng trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Kết quả của các cuộc cách mạng xã hội đã dẫn đến sự thay thế hình thái kinh tế - xã
hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Tất cả các hình thái kinh tế - xã
hội đã thay thế nhau trong lịch sử tạo nên chuỗi phát triển tiến bộ của xã hội loài
người. Tuy nhiên, các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau trong lịch sử vẫn chỉ là
những nấc thang nhất thời trên con đường phát triển của xã hội loài người từ thấp
đến cao, như Ph.Ăngghen đã khẳng định mà thôi(4).
Bên cạnh ý nghĩa đối với triết học, sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử còn là cơ sở
lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong bài Các Mác (1877),
Ph.Ăngghen đã nhận xét rằng, chủ nghĩa xã hội khoa học đã được xây dựng dựa trên
hai phát minh vĩ đại của C.Mác mà một trong hai phát minh đó là quan niệm duy vật
về lịch sử (hay chủ nghĩa duy vật lịch sử).
Đánh giá về lý luận chủ nghĩa xã hội trước C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng, “chủ nghĩa
xã hội cũ không thể phù hợp với quan niệm duy vật lịch sử ấy, cũng giống như quan
niệm về tự nhiên của những nhà duy vật Pháp không thể phù hợp với phép biện
chứng và khoa học tự nhiên cận đại. Chủ nghĩa xã hội trước kia tuy có phê phán
phương thức sản xuất tư bản hiện có và những kết quả của phương thức ấy, nhưng
không thể giải thích được phương thức sản xuất ấy và vì thế cũng không đánh đổ
được phương thức sản xuất ấy; nó chỉ có thể tuyên bố một cách đơn giản rằng phương
thức ấy là vô dụng. Chủ nghĩa xã hội trước kia càng phẫn nộ đối với sự bóc lột không

thể tránh khỏi mà giai cấp công nhân phải chịu trong phương thức sản xuất ấy thì nó
lại càng không thể vạch rõ cho thấy rằng sự bóc lột ấy là ở chỗ nào và do đâu mà
có"(5).
Do đó, theo Ph.Ăngghen, vấn đề đặt ra là, một mặt, cần trình bày phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa trong mối liên hệ lịch sử của nó, trong tính tất yếu của sự sinh
thành, phát triển và tiêu vong của nó,nhưng mặt khác, cũng phải vạch trần tính chất
bên trong, vẫn còn ẩn giấu của phương thức sản xuất ấy. Cả hai điều đó chỉ có thể thực
hiện được nhờ quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ ý nghĩa của quan niệm


duy vật về lịch sử đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Theo quan niệm duy vật về lịch sử, sản xuất và trao đổi là cơ sở của mọi chế độ xã
hội; trong mọi xã hội đã từng xuất hiện trong lịch sử, sự phân phối sản phẩm và cùng
với sự phân phối ấy, - sự phân chia xã hội thành giai cấp, đẳng cấp, - bị quy định bởi
những cái được sản xuất ra, bởi cách thức sản xuất và trao đổi những vật phẩm đã
được sản xuất ra đó. Chính vì vậy, "phải tìm những nguyên nhân cuối cùng của tất cả
những biến đổi xã hội và những đảo lộn chính trị không phải trong đầu óc người ta ,
mà là trong những biến đổi của phương thức sản xuất và phương thức trao đổi; cần
phải tìm những nguyên nhân đó không phải trong triết học, mà là trong kinh tế của
thời đại tương ứng"(6) .
Có thể khẳng định rằng, trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế
- xã hội là một trong những nền tảng lý luận quan trọng của lý luận về chủ nghĩa xã
hội của C.Mác và Ph.Ăngghen. Theo học thuyết đó, sự vận động của mâu thuẫn cơ
bản của xã hội, như trên đã trình bày, bắt nguồn từ quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, thượng tầng kiến trúc phải
phù hợp với hạ tầng cơ sở; trong đó, lực lượng sản xuất là yếu tố năng động nhất,
cách mạng nhất. Sự phát triển của xã hội trước hết được thể hiện ở sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất sớm hay muộn cũng sẽ dẫn
đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Điều đó có nghĩa là, bất kỳ sự thay đổi nào

trong quan hệ sản xuất đều là kết quả tất yếu của việc quan hệ sản xuất cũ không còn
phù hợp, trở thành xiềng xích trói buộc sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đó
chính là cơ sở và quy luật khách quan để khẳng định chủ nghĩa tư bản tất yếu phải
được thay thế bằng một xã hội mới, phát triển cao hơn và tốt đẹp hơn.
Còn trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
được biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị
bóc lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đó
là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội trong các xã hội có giai cấp. Trong xã
hội tư bản, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành
mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Do đó, sự ra đời của chủ nghĩa xã
hội là kết quả của cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Đó cũng là
một tất yếu lịch sử.


Như vậy, quan niệm duy vật về lịch sử đã chỉ ra xu hướng khách quan và các động
lực phát triển của xã hội loài người, trong đó chủ nghĩa tư bản với tư cách một hình
thái kinh tế - xã hội chỉ là một giai đoạn phát triển của lịch sử và nó tất yếu sẽ bị thay
thế bởi một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn; trong đó, học thuyết giá trị thặng dư
bóc trần bí mật của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thông qua bóc lột giá trị thặng dư,
đồng thời vạch rõ địa vị và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản - người đào huyệt
chôn chủ nghĩa tư bản. Xuất phát từ hai phát hiện ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra
kết luận rằng, sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều
là tất yếu như nhau; cũng như vậy, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ phải bị thay thế bằng
chủ nghĩa cộng sản.
Kết luận trên đây là một kết luận khoa học và chính nó tạo nên cái cốt lõi của lý luận
mácxít về chủ nghĩa xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà sau này, trong Chống
Đuyrinh và trong Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học,
Ph.Ăngghen đã nhận xét rằng, "hai phát hiện vĩ đại ấy - quan niệm duy vật về lịch sử
và việc dùng giá trị thặng dư để bóc trần bí mật của sản xuất tư bản chủ nghĩa - là
công lao củaMác. Nhờ hai phát hiện ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học

mà ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối
liên hệ của nó"(7) (chúng tôi nhấn mạnh – P.V.Đ).
Nhận xét trên đây cho thấy, khi nói tới tính chất khoa học của lý luận mácxít về chủ
nghĩa xã hội, Ph.Ăngghen muốn nói trước hết tới cơ sở khoa học của lý luận ấy và
của kết luận cơ bản mà nó đi tới - kết luận về sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản
bằng chủ nghĩa cộng sản - là hai phát minh trên đây. Còn chủ nghĩa cộng sản ấy sẽ
như thế nào, “mọi chi tiết và mọi mối liên hệ” của nó, v.v. trong tương lai sẽ ra sao
thì, theo Ph.Ăngghen, đó là công việc sẽ còn phải tiếp tục nghiên cứu. Vấn đề đặt ra
là, dựa trên cơ sở nào mà C.Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu xã hội mới trong mọi
chi tiết và mối liên hệ của nó.

Ngay từ năm 1843, bản thân C.Mác đã ý thức được rất rõ ràng rằng: "Chúng ta không
cố đoán trước về tương lai một cách giáo điều, mà chỉ mong tìm ra cái thế giới mới
qua sự phê phán thế giới cũ Song nếu việc cấu tạo tương lai và tuyên bố dứt khoát
những quyết định in sẵn cho tất cả mọi thời kỳ sắp đến không phải là việc của chúng
ta, thì chúng ta càng biết rõ là mình cần phải làm gì trong hiện tại, - tôi nói đến sự phê


phán thẳng tay toàn bộ cái hiện tồn, thẳng tay theo hai nghĩa: sự phê phán này không
sợ những kết luận của mình và không lùi bước trước sự đụng độ với những cơ quan
cầm quyền"(8).
Vào năm 1917, tức 74 năm sau, V.I.Lênin cũng đặt lại vấn đề căn cứ để dự đoán về
những đặc trưng của xã hội mới. V.I. Lênin viết: "Xuất phát từ những căn cứ nào, mà
có thể đặt vấn đề sự phát triển tương lai của chủ nghĩa cộng sản tương lai?
Xuất phát từ chỗ là chủ nghĩa cộng sản hình thành từ chủ nghĩa tư bản, phát triển lên,
trong quá trình lịch sử, từ chủ nghĩa tư bản, là kết quả của sự tác động của một lực
lượng xã hội do chủ nghĩa tư bản sinh ra. Trong tài liệu của Mác, người ta không thấy
mảy may một ý định nào nhằm bịa ra những ảo tưởng, nhằm đặt ra những dự đoán vu
vơ về những điều mà người ta không thể nào biết được. Mác đặt vấn đề chủ nghĩa
cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn, vấn đề tiến hoá của một

giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó và định được rõ rệt hướng của
những biến đổi của nó"(9).
Điều đó hoàn toàn dễ hiểu. Bởi lẽ, cho đến khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, chủ
nghĩa xã hội vẫn chưa tồn tại trong hiện thực. Những điều mà các ông nói về chủ
nghĩa xã hội là kết quả rút ra từ sự nghiên cứu xã hội tư bản - một xã hội đang tồn tại,
chứ không phải là kết quả nghiên cứu được rút ra trên cơ sở phân tích chính các sự
kiện của xã hội tương lai ấy. Chính vì thế, với một thái độ khoa học, nghiêm túc, thận
trọng, khi nói tới các đặc trưng của xã hội tương lai, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ khẳng
định những đặc trưng ấy như những cái có thể xẩy ra mà thôi(10). Điều đó cũng tương
tự như nói về các giai đoạn của cách mạng xã hội chủ nghĩa và khả năng phát triển
“rút ngắn” của các nước chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Vì là những dự đoán về cái có thể xảy ra, nên lúc sinh thời, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác cũng thường xuyên điều chỉnh các dự đoán của mình. Chẳng hạn,
trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói đến 10 biện
pháp để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở riêng những nước tiên tiến nhất (chứ
không phải đối với tất cả các nước). Tuy nhiên, các ông cũng thận trọng coi đó là
những biện pháp sẽ có thể được áp dụng khá phổ biến, chứ không phải là những biện
pháp dứt khoát phải áp dụng như nhau ở mọi nơi, mọi lúc.


Hơn hai mươi năm sau, trong Lời tựa viết cho lần xuất bản bằng tiếng Đức (năm
1872) Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhắc lại và nhấn
mạnh rằng, không nên quá câu nệ vào những biện pháp đó và nếu ngày nay được viết
lại đoạn nói về 10 biện pháp ấy thì về nhiều mặt, phải được viết khác đi.
Vậy, cái đảm bảo cho tính khoa học, cho độ tin cậy của các kết luận và các tiên đoán
của C.Mác về xã hội tương lai là gì? Từ sự phân tích nội dung của chủ nghĩa duy vật
lịch sử và ý nghĩa của nó, chúng ta có thể khẳng định rằng, cái đảm bảo cho tính khoa
học và độ tin cậy của các dự đoán của C.Mác và Ph.Ăngghen về xã hội tương lai
chính là việc phân tích sự vận động và phát triển của xã hội loài người nói chung và
xã hội tư bản nói riêng để từ đó, suy ra kết quả tác động của các quy luật đang chi

phối sự vận động và phát triển của xã hội tư bản đương thời.
Tuy nhiên, vì là những tiên đoán về tương lai, dựa trên xu hướng phát triển của sự vật,
về cái sẽ có trong tương lai nên những nội dung cụ thể đó của nó sẽ như thế nào còn
tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và sự biến đổi của hoàn cảnh trong tương lai. Do vậy, tính
chân lý của của những dự đoán về các nội dung cụ thể của xã hội tương lai vẫn phải
được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Bởi vì, xét đến cùng, thực tiễn, theo quan điểm của
triết học Mác, là tiêu chuẩn cơ bản để kiểm nghiệm chân lý.
Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu những năm 90 của thế kỷ
trước, không ít người vốn tin theo triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung
đã đi đến nghi ngờ tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trực tiếp là học thuyết
về hình thái kinh tế - xã hội.
Thực tiễn những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI không hề phủ nhận tính khoa
học của chủ nghĩa duy vật lịch sử; trái lại, càng khẳng định tính đúng đắn và khoa học
của nó. Theo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử mà chúng tôi đã
trình bày ở trên, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu những năm 90
của thế kỷ XX là một tất yếu. Đó là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể về chủ nghĩa xã
hội. Thay vì cần tạo ra một phương thức sản xuất tiên tiến hơn so với phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, mô hình đó lại chứa nhiều khuyết tật; hơn nữa, các khuyết tật
này lại không sớm được nhận thức và khắc phục kịp thời. Sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra rộng khắp trên toàn thế giới đang chứng
minh luận điểm của C.Mác coi sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự


nhiên, trong đó giai đoạn phát triển sau bao giờ cũng tiến bộ hơn giai đoạn phát triển
trước; chứng minh các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử vẫn còn nguyên giá trị
và chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ được thay thế bằng một xã hội mới phát triển cao hơn,
tiến bộ hơn.
Bên cạnh đó, sự thành công của công cuộc cải cách, mở cửa, đổi mới ở Trung Quốc
và Việt Nam cũng bổ sung thêm những chi tiết mới vào con đường, cách thức xây
dựng chủ nghĩa xã hội đối với những nước thực hiện bước quá độ “rút ngắn”, không

qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; đồng thời, khẳng định kiên trì chủ nghĩa
Mác không có nghĩa là áp dụng một cách nguyên xi, máy móc, mà là vận dụng một
cách khoa học và sáng tạo những tư tưởng của các ông trong điều kiện lịch sử mới.
Chính sự sáng tạo trong vận dụng, sự bổ sung và hoàn thiện những nguyên lý chủ
nghĩa Mác cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới của thời đại là con đường đúng đắn
để bảo vệ chủ nghĩa Mác, để kiên trì đi theo chủ nghĩa Mác. Đó cũng là một nhiệm vụ
cấp bách đang đặt ra cho những người làm công tác lý luận ở nước ta hiện nay.
Liên quan đến nhiệm vụ này, vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước, cùng với sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều học giả đã nhắc tới học
thuyết về các nền văn hoá và văn minh. Trong số đó, một số người đã coi nó là một lý
thuyết khoa học và có thể thay thế cho cách tiếp cận hình thái kinh tế – xã hội của
C.Mác. Công bằng mà nói, học thuyết về các nền văn hóa, văn minh có nhiều điểm
đáng được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ cách tiếp cận hình thái
kinh tế - xã hội, chúng ta có thể thấy, trong khi coi trọng vai trò quyết định của nhân
tố kinh tế, C.Mác không hề bỏ qua yếu tố văn hoá trong sự phát triển xã hội. Nhưng
theo quan điểm của C.Mác, yếu tố văn hóa luôn chịu sự quy định và phụ thuộc vào
yếu tố vật chất. Đồng thời với việc khẳng định sự thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, trong đó hình thái kinh tế – xã hội
phát triển sau luôn tiến bộ hơn hình thái kinh tế – xã hội trước đó, học thuyết hình thái
kinh tế – xã hội còn thừa nhận sự kế thừa và phát triển của các nền văn minh nhân
loại, coi sự thay thế các hình thái kinh tế – xã hội cũng chính là sự thay thế các nền
văn minh.
Trong khi khẳng định tính đúng đắn, tính nguyên giá trị của những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhiệm vụ của những người làm công tác nghiên cứu


triết học là phải cụ thể hóa và nghiên cứu sâu thêm các nguyên lý chung đó. Điều
quan trọng trước hết, theo chúng tôi, cần làm rõ hàng loạt vấn đề về mối quan hệ giữa
cái đóng vai trò quyết định (tồn tại xã hội, lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng, v.v.) và
cái bị quyết định (ý thức xã hội, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng, v.v.). Sinh

thời, V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Đương nhiên, sự đối lập giữa vật chất và ý thức
chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này,
chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và
cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập
đó là tương đối”(11). Áp dụng tư tưởng trên đây của V.I.Lênin về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, chúng ta có thể đặt vấn đề rằng, phải chăng các yếu tố quyết định
đã được nhắc đến ở trên luôn đóng vai trò quyết định trong mọi hoàn cảnh, mọi điều
kiện lịch sử hay chỉ đóng vai trò quyết định khi xét đến cùng? Nếu các yếu tố quyết
định chỉ đóng vai trò quyết định khi xét đến cùng thì trong trường hợp và điều kiện
nào, nhân tố bị quyết định trở thành cái có vai trò quyết định? Điều này rất quan trọng
trong hoạt động thực tiễn khi muốn phát huy vai trò của nhân tố chủ quan nhưng lại
tránh được chủ nghĩa chủ quan duy ý chí cũng như chủ nghĩa giáo điều. Chẳng hạn,
chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng, còn kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh của cơ sở hạ tầng và có tác động ngược
trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Nhưng, sự tác động ngược trở lại cần được hiểu như thế
nào và đến mức độ nào, có khi nào kiến trúc thượng tầng làm thay đổi cơ sở hạ tầng
không hay nó chỉ luôn là yếu tố chịu sự tác động, bị động trong quan hệ với cơ sở hạ
tầng? Hoặc, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội cũng cần được lý giải thấu
đáo về mặt triết học. Văn hóa, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, bị quy
định bởi những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Vậy, cần lý giải như thế
nào vai trò của văn hóa với tư cách động lực của sự phát triển xã hội, v.v
Tất cả những điều trình bày trên đây đã khẳng định những đóng góp vĩ đại của C.Mác
đối với thời đại của ông và cả với thời đại chúng ta đang sống. Trách nhiệm của chúng
ta là phải vận dụng và phát triển sáng tạo triết học của C.Mác để giải quyết những vấn
đề mà thời đại đang đặt ra cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Thành công hay thất
bại trong thực tiễn đều phụ thuộc vào thế hệ chúng ta và do chính chúng ta quyết
định.r

×