Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

PHÂN TÍCH THƠ XUÂN QUỲNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.98 KB, 19 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Xuân Quỳnh được đánh giá là một trong những nhà thơ tình hàng đầu
của văn học Việt Nam. Từ những bước chân đầu tiên vào làng thơ cho đến
những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, trái tim Xuân Quỳnh luôn ngẩng cao
với những khát vọng yêu thương không ngừng nghỉ. Trong cuộc đời ngắn ngủi
của mình, Xuân Quỳnh đã đi một cách trọn vẹn trên con đường lớn của thơ ca.
Thơ Xuân Quỳnh luôn mang nặng tình cảm thiết tha, gắn bó với cuộc đời, biết
vượt lên những thử thách khó khăn để xây dựng hạnh phúc chung. Vì thế mà
hàng mấy chục năm nay, thơ Xuân Quỳnh đã đi vào trái tim của nhiều thế hệ
bạn đọc và sẽ còn tiếp tục song hành cùng với những thế hệ mai sau.
PHẦN NỘI DUNG
1. Xuân Quỳnh – cuộc đời và sự nghiệp văn học.
1.1. Cuộc đời.
Xuân Quỳnh (1942 - 1988) tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh
ngày 6 tháng 10 năm 1942, tại làng La Khê, xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh
Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, Hà Nội). Bà xuất thân trong một gia đình
công chức, mẹ mất sớm, bố thường xuyên đi công tác xa, vì vậy được bà nội
nuôi dạy từ nhỏ đến khi trưởng thành.
Xuân Quỳnh là một người đa tài, hoạt động nghệ thuật hết sức sôi nổi,
đặc biệt còn là mẫu người của tình yêu và hôn nhân gia đình. Trước khi trở
thành một nhà thơ nổi tiếng, Xuân Quỳnh đã từng là diễn viên múa và được đi
nhiều nước để biểu diễn cũng như tham dự Đại hội thanh niên sinh viên thế
giới năm 1959 tại Vienna (Áo).
Từ năm 1962 đến 1964, bà học tại Trường bồi dưỡng những người viết
văn trẻ (khoá I) của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau đó, làm việc tại báo Văn nghệ
và báo Phụ nữ Việt Nam. Từ năm 1967, bà trở thành hội viên, ủy viên Ban
chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III.



2

Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn cùng với Lưu Quang Vũ (nhà viết kịch,
nhà thơ), trước đó, bà đã kết hôn với Lưu Tuấn (một nhạc công của Đoàn Văn
công nhân dân Trung ương). Từ năm 1978 đến lúc mất, bà làm biên tập viên tại
Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao
thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương cùng với
chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ khi đó mới 13 tuổi.
1.2. Sự nghiệp văn học.
Thi sĩ Xuân Quỳnh là một người luôn khao khát yêu đương, nhịp yêu
luôn đập mạnh và thổn thức trong tim bà để rồi cất lên những vần thơ tình ngọt
ngào mà sâu lắng. Giai đoạn sáng tác chính yếu của bà từ năm 1962 đến năm
1988. Các tác phẩm chính như: “Tơ tằm – chồi biếc” (in chung, 1963), “Hoa
dọc chiến hào” (in chung, 1968), “Gió Lào cát trắng” (1974), “Lời ru trên mặt
đất” (1978), “Sân ga chiều em đi” (1984), “Tự hát” (1984), “Hoa cỏ may”
(1989), “Thơ tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ” (1994)... Ngoài ra, Xuân
Quỳnh còn viết thơ cho thiếu nhi, những vần thơ hồn nhiên và trong sáng như
“Bầu trời trong quả trứng” (1982), “Truyện Lưu Nguyễn” (truyện thơ, 1985),
“Mùa xuân trên cánh đồng” (truyện thiếu nhi, 1981), “Bến tàu trong thành phố”
(truyện thiếu nhi, 1984), “Vẫn có ông trăng khác” (truyện thiếu nhi, 1986)…
Xuân Quỳnh là thi sĩ nổi tiếng với nhiều bài thơ tình được nhiều người
biết đến như “Thuyền và Biển”, “Sóng”, “Hoa cỏ may”, “Tự hát”, “Nói cùng
anh”, “Thơ tình cuối mùa thu”... Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với những
cung bậc khác nhau, khi thì hạnh phúc đắm say, lúc thì khổ đau, suy tư của một
người phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ và làm mẹ. Đặc biệt, thơ ca của bà có
nhịp điệu du dương rất gần với âm nhạc, vì thế đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh
Điểu phổ nhạc rất thành công qua các bài thơ tình nổi tiếng như “Thuyền và
biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”... Với những cống hiến to lớn cho nghệ thuật và
thi ca, Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học và nghệ

thuật năm 2001.


3

2. Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh.
Cũng như hầu hết các nhà thơ khác, Xuân Quỳnh làm thơ cốt là để diễn
tả lại cuộc sống của chính mình trên mọi phương diện, cung bật cảm xúc khác
nhau như những rung động tình cảm, tâm tư, những khao khát, chiêm nghiệm...
Những vần thơ trữ tình ấy đầy đủ mọi cảm xúc, từ một đứa trẻ thơ ngây, đến
một người mới lớn luôn rạo rực yêu đương và hạnh phúc gia đình, rồi trở thành
một người từng trải và chiêm nghiệm lại cuộc sống.
2.1. Cái tôi tìm về ký ức tuổi thơ.
Trước hết, cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh là cái tôi tìm về ký ức
tuổi thơ. Thi sĩ có nhiều bài thơ viết về tuổi thơ, bởi lẽ tuổi thơ luôn hồn nhiên
và đầy ấp những kỷ niệm thân quen là nguồn sáng thôi thúc bước chân nhà thơ,
trong đó bài thơ “Tiếng gà trưa” là một thi phẩm nổi bật. Nhà thơ đã hòa vào
vai người chiến sĩ, đưa người đọc tìm về ký ức của tuổi thơ bằng một cuộc
hành trình phiêu lưu bên xóm nhỏ giữa những khói lửa chiến tranh. Bài thơ
được Xuân Quỳnh viết năm 1968 giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
khi đó mọi người con Việt Nam phải từ biệt gia đình, quê hương và gác lại
những ký ức tuổi thơ để lên đường ra chiến trận.
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
Cục... cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đã mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ.”
(Tiếng gà trưa)



4

Như vậy, tiếng gà trưa là âm thanh quen thuộc của làng quê vẫy gọi tuổi
thơ quay về. Nhà thơ nhớ về tuổi thơ cùng tiếng gà và hình ảnh người bà thân
thuộc. Những câu thơ trong sáng, hồn nhiên và đầy ấp những tiếng nói cười của
người cháu quây quần bên người bà thân quen đã giúp cho người đọc cảm nhận
được tuổi thơ ngay trước mắt mình. Ký ức tuổi thơ ùa về vượt cả không gian và
thời gian. Tất cả hiện lên trong niềm xúc động của người cháu khi được sống
lại trong tình yêu thương và sự chăm chút của bà. Tình cảm bà cháu, tình cảm
gia đình mộc mạc, chân thành xiết bao đã đi theo nhà thơ trong suốt cuộc đời
hòa vào những năm tháng hào hùng của dân tộc.
Bên cạnh “Tiếng gà trưa” là cả một vùng trời ký ức của người cháu đối
về người bà và tình bà cháu thân quen, thơ Xuân Quỳnh còn tìm về ký ức tuổi
thơ của mình thông qua những vần thơ viết cho con trẻ. Nhà thơ đã nhập vai từ
một người mẹ thành những người con, ru cho con mình ngủ, kể lại những kỷ
niệm, khoảnh khắc đáng nhớ khi vui vầy bên những đứa con của mình, như bài
thơ “Lời ru của mẹ” có thể xem là một khúc hát ru về tuổi thơ dành cho con.
“Lời ru ẩn nơi nào
Giữa mênh mang trời đất
Khi con vừa ra đời
Lời ru về mẹ hát...”
(Lời ru của mẹ)
Hay trong bài “Chuyện cổ tích về loài người”, Xuân Quỳnh đã mang cả
một thế giới cổ tích, một thế giới quan của tuổi thơ suy niệm về cuộc đời, về
con người. Những vần thơ rất vui tươi và hồn nhiên, những lý giải về nguồn
gốc của loài người sao mà đáng yêu quá đỗi. Như vậy, với nhà thơ, những gì
thân quen nhất là xuất phát từ tuổi thơ đẹp đẽ và mộng mơ. Cái tôi trữ tình tìm
về ký ức tuổi thơ của nhà thơ là khi ấy con người trở về với những gì gần gũi

nhất, những giá trị tinh thần từ bao đời thật đáng trân trọng biết dường nào.


5

2.2. Cái tôi nữ tính nhưng không kém phần quyết liệt trong tình yêu.
Đến với thơ Xuân Quỳnh là đến với những vần thơ thấm đẫm cái tôi nữ
tính nhưng không kém phần sôi nổi và quyết liệt trong tình yêu. Trước hết, cái
tôi ấy là tiếng lòng của người phụ nữ đang yêu đầy đằm thắm, trẻ trung và bản
lĩnh. Xuân Quỳnh ý thức rất rõ về giá trị của người phụ nữ và tự hào về vai trò
của nữ giới.
“Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng
Là bác học… hay là ai đi nữa
Vẫn là con của một người phụ nữ…”
(Thơ vui về phái yếu)
Cái tôi nữ tính của Xuân Quỳnh thể hiện rõ nét nhất trong thơ tình yêu.
Nó dịu dàng, da diết, đa cảm nhưng không yêu đuối, nhiều tâm sự nhưng
không bi quan, trái tim đập rộn ràng theo những suy nghĩ táo bạo nhưng giọng
thơ lại rất khoan thai, ngọt ngào. Có người từng nhận định đại ý rằng: Nếu tình
yêu là một thứ tôn giáo thì Xuân Quỳnh là con chiên ngoan đạo nhất. Trước
Xuân Quỳnh có lẽ chưa có nhà thơ nữ nào viết được những lời thơ tình thiết
tha, nồng nàn và cháy bỏng như thế! Hai bài thơ tình yêu quen thuộc của Xuân
Quỳnh là “Sóng” và “Thuyền và biển”. Đây là hai bài thơ tình vào loại hay
nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và của thơ hiện đại Việt Nam nói chung. Nỗi
nhớ trong tình yêu được nhà thơ diễn tả một cách cuồn cuộn, trào dâng và quay
quắt. Nỗi nhớ đó vượt lên trên giới hạn không gian và thời gian để vươn đến
khát khao tình yêu tự do mãnh liệt, vĩnh hằng.
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau rạn vỡ


6

Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố.”
(Thuyền và biển)
Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh được diễn tả ở muôn vàn cung bậc cảm
xúc. Đó là trạng thái thấp thỏm lo âu khi cách xa nhưng vẫn luôn hướng trọn
vẹn tấm lòng đến người yêu. Yêu còn là sự dâng hiến trọn vẹn và hòa hợp giữa
hai tâm hồn. Nét đẹp đáng quý nhất của người phụ nữ khi yêu là lòng chung
thủy son sắt đã được Xuân Quỳnh diễn tả rất sâu sắc và tinh tế trong những vần
thơ của mình.
“Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh.”
(Chỉ có sóng và em)
Trái tim người phụ nữ đa cảm, bao dung, tràn đầy tình yêu ấy sẽ còn đập
mãi trong những câu thơ đầy tha thiết với thời gian. Đó là một tình yêu mãnh
liệt, bất tận, trường cửu và không bao giờ tan biến kể cả khi thân xác đã không
còn nữa.
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.”
(Tự hát)



7

2.3. Cái tôi khát khao tổ ấm và hạnh phúc gia đình.
Với Xuân Quỳnh, định nghĩa về hạnh phúc chỉ đơn giản là cuộc sống
bình dị không sóng gió, được sống bên người mình yêu cùng với đàn con thơ
ngây dưới mái nhà đậm chất tình, ấm áp yêu thương. Thế nhưng, dường như
dòng đời không mỉm cười dành cho bà, từ khi sinh ra cho tới lúc già nua bà
không bao giờ thấy cuộc đời mình như mong ước. Cuộc đời nhà thơ luôn ngập
tràn sóng gió, ngay cả khi được vai chung vai với người yêu mà trong bà luôn
thấp thỏm mối âu lo, không biết anh sẽ sống với mình tới khi nào, một năm hai
năm hay thậm chí là một ngày.
Nếu như hạnh phúc với bạn là cái ôm thật chặt, những lời nói ngọt ngào,
những ánh nhìn say mê thì với Xuân Quỳnh nó chỉ là cái nắm tay thật khẽ, chỉ
cần tay trong tay với người yêu thì đó là hạnh phúc.
“Tay ta nắm lấy tay người
Dẫu qua trăm suối ngàn đồi cũng qua.”
(Hát ru)
Đơn giản vậy thôi nhưng nắm được nó lại không hề giản đơn, không hề
dễ với bà một chút nào bởi lẽ khi sinh ra bà mang trong mình hai từ “nước
mắt”. Nước mắt rơi vì ba vì mẹ, vì gia đình nhỏ chia xa mãi mãi, nước mắt rơi
khi tìm được người chồng mình thương nhưng lúc nào cũng lo âu. Tất cả
những âu lo phiền muộn ấy chỉ chứng tỏ rằng trong con người bà luôn luôn
thắp lửa cho hai từ “khao khát”. Bà khao khát được sống cùng dưới hiên nhà,
sống với đàn con thơ yêu mến, với cuộc sống đậm chất gia đình, cho nên tổ ấm
với bà được thể hiện đậm nét qua từng trang thơ khi thì là mái cây, vòm che,
căn phòng, nhà ga… dù cao sang hay bình dân không quan trọng, với bà rời xa
tổ ấm cũng là rời “nơi che chở những người thương mến nhất”, là dấn thân vào
cái bấp bênh, diệu vợi, khắc nghiệt, là phải kiếm tìm gắn bó, chở che. Và cứ
thế, cứ thế nếu đời người có thể quy vào cái dòng kế tiếp tuần hoàn giữa ra đi
và trở lại thì một phần lớn thơ Xuân Quỳnh đã được viết bằng cái tâm thế bất



8

định “Khát khao đi hồi hộp mỗi khi về” của cánh chuồn mỏng manh và mệt
nhoài này. Và tất nhiên, người đàn bà ấy chỉ tìm thấy yên ổn thật sự khi bước
chân vào tổ ấm của mình, tổ ấm bà hằng khao khát chiếm giữ nó.
“Bầu trời xanh hơn cả lúc nằm mơ
Và hạnh phúc trong bàn tay có thật.”
(Bầu trời đã trở về)
Tất cả những hiện thân khác nhau của cùng một hình hài chung nhất, và
thiêng liêng nhất: tổ ấm mà Xuân Quỳnh mơ ước. Tổ ấm đúng là nơi ai cũng
biết, ai cũng sống cùng với nó nhưng để đi vào thơ thì chỉ riêng Xuân Quỳnh
mới làm được điều này. Họa chăng chính bà luôn khát khao về một thứ bà chưa
có thật sự, đó là hạnh phúc gia đình, cho nên bà thả hồn vào trang thơ, thơ nói
đến người, nói hộ cho dòng tâm sự của mình.
2.4. Cái tôi nhạy cảm trước sự biến chuyển của không gian và trôi
chảy của thời gian.
Nếu như trong tình yêu, Xuân Quỳnh thể hiện một cái tôi mong manh và
nồng cháy thì trong cuộc sống, cái tôi ấy cũng rất đậm yêu thương. Là một
người nhạy cảm, thế nên trước sự biến chuyển của cuộc sống, giữa cái vô định
của không gian và thời gian đã làm nhà thơ không ít lần trăn trở. Có thể nói,
không gian và thời gian là hai yếu tố dịch chuyển mà trước đây không ít nhà
văn, nhà thơ đã không ngừng đề cập và thở than vì sự biến thiên của nó, Xuân
Quỳnh cũng vậy. Những hình ảnh nhỏ bé như con sóng mong manh, nhành
cây, ngọn cỏ, thậm chí cả cánh chuồn chuồn yếu ớt cũng đi vào thơ Xuân
Quỳnh một cách trữ tình. Bà nhạy cảm trước mọi sự biến chuyển và vấn vương
cho một kiếp phong trần.
“Đường sẽ vắng nếu trời bão nổi
Cánh cửa nhà sập lại trước khi mưa



9

Con chim tìm tránh bão sẽ về xa
Con kiến nhỏ cũng ẩn mình trong tổ
Không còn trời xanh chỉ mưa và gió
Những dòng sông không nhà cửa miên man
Và mây, mây khắp chốn lang thang
Chặn bốn phía những cỏ cây tội nghiệp
Cho cơn lốc dữ tợn về bẻ nát
Trái đất này sẽ nhấn chìm trong mưa
Không tìm đâu một chỗ nương nhờ!”
(Chuồn chuồn báo bão)
So với mọi sự cố gắng thì liệu đôi cánh mỏng kia có chịu được những
lần dịch chuyển của thời gian khi thời tiết dần biến hoại. Xuân Quỳnh thương
cảm cho những sinh linh bé nhỏ cũng như tiếc thương cho bản thân và thân
phận của một kiếp con người. Bên cạnh đó, Xuân Quỳnh cũng đặc biệt nhạy
cảm với những khoảnh khắc giao thời. Trong bài thơ “Tháng năm”, ta có thể
thấy rõ hình ảnh thời gian đang xoay chuyển trong khi con người lẫn thiên
nhiên như giật mình và bất lực trước sự di dời ấy.
“Giấc ngủ vừa chợp mắt
Nắng đã về trước cửa
Đêm ngắn phút gần nhau
Ngày dài như nỗi nhớ
Nước sôi ngầu bọt thau


10


Luộc mình con cá nhỏ
Con cua chín vàng mai
Ẩn vào trong cụm lá
Cỏ dại không người che
Rã rời mang sắc úa...”
(Tháng năm)
Nếu chú ý, ta có thể thấy những cặp quan hệ từ như “đã – vừa” hay sự
đối lập “cũ – nay” xuất hiện nhiều trong thơ bà. Đây là những từ chỉ trạng thái,
gợi lên sự đổi thay, biến chuyển nhanh chóng, làm tăng thêm sự gấp gáp, rượt
đuổi của cảm xúc lo âu, phập phồng. Xuân Quỳnh sống và yêu, cộng hưởng với
tuổi thơ không mấy êm đềm nên bà luôn nhạy cảm và yếu lòng trước mọi sự
thay đổi là tất yếu, dù là hiện tại hay quá khứ thì sự ám ảnh về tuổi trẻ, số phận,
lòng người luôn luôn tồn tại, bởi hết thu sang đông, sắc xanh trên cây đã ngã
vàng, thời gian đổi màu, đổi sắc và đổi cả con người. Bà hiểu rất rõ bản chất
cuộc đời là sự trôi chảy – trôi chảy của thời gian, biến chuyển của lòng người
và cả không gian của cuộc sống. Vì những sự di dời và biến chuyển ấy, nhà thơ
không khỏi bàng hoàng và giật mình trước tình yêu vì bà biết rằng không có gì
là lâu bền và mãi mãi.
“Em đâu dám nghĩ tình yêu là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi.”
(Thơ tình cho bạn trẻ)
Thế nhưng, cũng có lúc cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh đã tìm
thấy được sự đồng nhất với thời gian.
“Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm


11

Tuổi theo mùa đi mãi

Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại...”
(Thơ tình cuối mùa thu)
Thời gian và không gian vốn luôn biến chuyển và chẳng thể nào thay
đổi. Thế nên, thay gì cố gắng chống chế để thoát khỏi những quy luật bất biến
đó, Xuân Quỳnh chọn cho mình cách lắng nghe và hoà mình vào sự dịch
chuyển ấy. Bà nhìn và nghe những âm thanh quen thuộc từ đời sống, dù là âm
thanh nhỏ bé của cỏ cây xao động hay những âm thanh quen thuộc, xa xăm từ
quá khứ vọng về, những va đập của thế giới bên ngoài, kể cả những nhịp điệu
của tâm hồn nhạy cảm và đa mang của mình. Có lẽ vì thế mà đọc thơ Xuân
Quỳnh, người đọc tìm thấy những rung động hết sức tế tinh nhưng cũng hết sức
nhân bản.
3. Nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh.
3.1. Thể thơ có sự đan xen giữa chất truyền thống và chất hiện đại.
Xuân Quỳnh mang đến cho thi đàn Việt Nam những màu sắc nghệ thuật
cùng thi hứng văn chương vừa hiện đại mới mẻ, vừa tinh túy đậm chất truyền
thống dân tộc qua nhiều chủ đề sáng tác, đặc biệt là trong mảng thơ tình yêu.
Thơ Xuân Quỳnh đa dạng về phong cách và đặc điểm thi pháp, trong đó sự đan
xen giữa chất hiện đại và truyền thống là một khía cạnh nổi bật và đáng chú ý.
Chất truyền thống và chất hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh nổi bật nhất là ở thể
thơ. Vận dụng một số thể thơ truyền thống trong sáng tác cũng là một thành
công lớn trong việc đưa các giá trị truyền thống vào thơ của Xuân Quỳnh. Đối
với thể lục bát, Xuân Quỳnh có những câu thơ mang đậm âm hưởng dân gian
rất rõ rệt.


12

“Nào là hoa bưởi hoa chanh

Nào câu quan họ mái đình cây đa
Xin đừng bắt chước câu ca
Đi về dối mẹ để mà yêu nhau…”
(Mẹ của anh)
Đến với thể thơ 5 chữ, ngòi bút Xuân Quỳnh đạt được những thành công
vang dội qua các bài “Sóng”, “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”…
được xem như những tuyệt tác văn chương bởi cái chất mượt mà, nửa tả thực,
nửa tâm tình không những trong cảm xúc gửi gắm trong bài thơ mà còn bởi sự
vận dụng nhuần nhuyễn bút pháp độc đáo. Xuân Quỳnh đã khai thác và sử
dụng nhuần nhuyễn những thể thơ đậm màu sắc dân tộc để làm chất liệu sáng
tác của mình thêm đa dạng và phong phú. Tuy nhiên đó là sự tiếp thu mang
tính chất kế thừa và phát huy trên nền tảng những giá trị đã có. Ngoài ra, Xuân
Quỳnh có những sáng tạo trong thể thơ 7 chữ hoặc 8 chữ.
“Cây dù nhỏ, gió dù có dữ
Hết mùa này cây lại lên xanh
Sao không cài khuy áo lại anh
Trời lạnh đấy hôm nay trời trở rét…”
(Trời trở rét)
Xuân Quỳnh cho phép cảm xúc được tự do trong thế giới thơ, vì vậy mà
bà không quá chú trọng luật thơ bằng trắc, gieo vần hay ngắt câu. Tuy nhiên,
điều đó chẳng gây ra một sự trúc trắc nào trong âm điệu, thơ vẫn êm ái như một
lời thầm thì, thỏ thẻ. Bên cạnh đó, có những câu thơ hết sức dài, cũng có câu
chỉ vẹn vẹn 2 hoặc 3 từ. Đó là sự phá cách trong thể thơ theo khuynh hướng
hiện đại.


13

“Những người đàn ông các anh có bao nhiêu điều to lớn
Vượt qua ô cửa con, văn phòng hẹp hàng ngày

Các anh nghĩ ra tàu ngầm, tên lửa, máy bay
Tới thăm dò những hành tinh mới lạ”
(Thơ vui cho phái yếu)
3.2. Ngôn từ đơn giản nhưng có tính biểu cảm cao.
Bên cạnh những thành công về nghệ thuật xây dựng thể thơ trong các
sáng tác của mình, về phương diện ngôn ngữ, Xuân Quỳnh cũng có được
những nét cá tính riêng, đặc sắc, ghi lại dấu ấn đặc biệt trong lòng độc giả. Nhà
thơ ưu tiên sử dụng những từ ngữ đơn giản, gần gũi với ngôn ngữ đời thường
nhưng biết cách đặt chúng vào vị trí phù hợp nhất vì vậy mà ngôn từ trong thơ
bà có tính biểu cảm cao.
“Chắt chiu từ những ngày xưa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em.”
(Mẹ của anh)
Từ láy “chắt chiu” nghe chừng rất giản dị, thôn quê và quen thuộc
nhưng chính nó lại mang giá trị liên thông tư tưởng trong toàn bài thơ. Chỉ cần
đọc một từ đó thôi cũng đủ để người nghe hình dung ra đầy đủ về hình ảnh một
bà mẹ thôn quê tần tảo, lam lũ vì con, hết mực hi sinh và có một tấm lòng bao
dung vô cùng. Người đó chính là mẹ chồng của thi sĩ – người mà bà hết mực
kính trọng và yêu thương. Có được điều đặc biệt này cũng là nhờ tài năng sử
dụng ngôn từ của mình. Xuân Quỳnh luôn luôn biết cách sử dụng những từ ngữ
có giá trị biểu cảm đặc biệt, đặt vào đúng chỗ, đúng thời điểm và phù hợp với
cảm xúc, vì thế từng câu thơ tình của bà đi vào lòng người đọc như những vần
thơ đẹp không bao giờ quên.


14

“Thành phố ngợp ngày nao chiều gió dậy
Gương mặt ấy người yêu thuở ấy
Màu hoa vàng vẫn cháy ở trong em.”

(Hoa cúc)
“Con chuồn ngô hay làm dáng
Chao mình soi mặt ao trong
Đốt cháy lòng một nét chờ mong.”
(Chuồn chuồn báo bão)
Cả hai từ “cháy” trong hai bài thơ tiêu biểu trên đây đều xuất hiện ở mỗi
câu thơ cuối đoạn, được coi như từ khóa đóng lại tứ thơ, cũng là một lơi kết
khẳng định tình yêu, sự chờ đợi, lòng khát khao như ngọn lửa luôn luôn cháy
bỏng trong tâm hồn nữ sĩ.
Ngôn ngữ trong thơ Xuân Quỳnh như tiếng gọi nhau, như say như tỉnh,
biến hóa thông minh, như bản chất những đồng dao xưa cổ nhất. Quả thật ngôn
ngữ của Xuân Quỳnh trở nên mềm mại duyên dáng hẳn khi kế thừa và phát
triển những vẻ đẹp của ngôn ngữ ca dao dân tộc. Cách dùng từ giản dị mà gần
gũi đã tạo nên được sức hút rất riêng. Ta như được nhớ lại âm điệu của câu hát
quan họ, của những màu sắc sặc sỡ trong hội chèo làng quê Việt Nam trong
từng câu thơ của bà.
“Mẹ lại hát ru con bài ca đất nước
Vợ cấy chồng cày đồng cạn đồng sâu
Và yêu nhau cởi áo cho nhau.”
(Lời ru)


15

3.3. Giọng điệu thơ tự nhiên và phóng khoáng.
Xuân Quỳnh giờ đây đã đi hết đường biên cuộc đời, thế nhưng đường
biên của câu chữ, giọng điệu trong thơ Xuân Quỳnh luôn còn trường tồn mãi
với thời gian. Chính sự khác biệt ấy đã làm nên tên tuổi, phong cách riêng
trong những tứ thơ của người mang danh hiệu “khí đẹp của non sông chung
đúc lại” (Nguyễn Công Trứ).

Giọng điệu thơ tự nhiên và phóng khoáng là một trong những phương
diện nghệ thuật góp phần quan trọng vào việc chắp cánh, xây dựng hồn thơ thi
sĩ. Giọng điệu ở đây không phải là cách nói mà là cảm xúc, là giọng điệu của
tâm hồn. Đi sâu vào phong cách này người đọc có thể nhận thấy, ở mỗi bài thơ
của mình, Xuân Quỳnh không tự chế tạo ra ngôn từ, câu chữ mà ngược lại,
chính hiện thực cuộc sống với những điều đã sống, đã trải mới là nguồn cảm
hứng, lăng kính chủ đạo. Giọng điệu thơ trong sáng, tự nhiên được thể hiện
trước hết ở những bài thơ nói về tình yêu. Chính tình yêu nồng nàn, sâu sắc ấy
được Xuân Quỳnh diễn đạt bằng tất cả con tim của mình với một hệ thống
ngôn ngữ giản dị, nhẹ nhàng, phóng khoáng và hầu như không cách điệu. Lời
thơ tự nhiên, mộc mạc nhưng vẫn đạt tới tầm cao nghệ thuật, tạo nguồn cảm
hứng lớn lao cho người đọc.
“Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng
Trái tim em anh đã từng biết đấy
Anh là người coi thường của cải
Nên nếu cần anh bán nó đi ngay.”
(Tự hát)
Cũng nằm trong xu hướng vận động ấy, những bài thơ viết cho thiếu
nhi, đặc biệt là những vần thơ viết tặng con mang đậm tâm hồn trong phần đời
của bà. Cuộc đời nhà thơ tuy ngắn ngủi nhưng đời thơ thì lại không ngắn ngủi
chút nào. Chất thơ tự nhiên phóng khoáng ấy được Xuân Quỳnh “thổi” trọn


16

vẹn trong “Bầu trời trong quả trứng”. Tập thơ tiêu biểu cho lối cấu trúc đối
thoại, hỏi đáp thú vị về cuộc sống, nhưng ẩn sâu trong đó là tình yêu con vô bờ
bến của người mẹ, là sự ngộ nghĩnh, hồn nhiên, trong trẻo tiếng cười của con
thơ.
“Con yêu mẹ bằng ông trời

Rộng lắm không bao giờ hết
Thế thì làm sao con biết
Là trời ở những đâu đâu
Trời rất rộng lại rất cao
Mẹ mong, con bao giờ tới.”
(Con yêu mẹ)
Ngôn từ tự nhiên, chân thật ấy đã cộng hưởng lại làm thành một cuộc
đối thoại sâu sắc trong thơ và đối thoại trong cuộc sống với những gam màu
đáng yêu, trở thành mạch nguồn đi vào thế giới cuộc sống trẻ thơ. Cũng chính
vì giọng thơ phóng khoáng nên trong thơ Xuân Quỳnh người đọc còn bắt gặp
sự chủ đạo của gam màu sáng rực rỡ và tươi mới của cuộc sống hiện thực. Nhẹ
nhàng, mộc mạc, giản dị nhưng chính giọng thơ ấy lại là những “mạch nước
ngầm sục sôi” mang lại nguồn cảm hứng lớn lao cho Xuân Quỳnh làm nên
những vần thơ có giá trị trường tồn cùng thời gian, góp phần làm nên thế giới
nghệ thuật phong phú và đa dạng trong làng thơ đất Việt.
“Hàng bí ngô bên cạnh hàng bầu
Xanh mườn mượt màu xanh rau muống
Những bắp cải tròn vo đẫm nước
Lớp rau cần óng ả xếp đầy quang.”


17

(Rau)
3.4. Xây dựng được những hình ảnh thơ độc đáo.
Một đặc trưng nghệ thuật khác còn được tìm thấy trong những câu thơ
của Xuân Quỳnh đó là những hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ độc đáo. Bà thường
lấy những hình ảnh vốn có trong tự nhiên để thổi vào chúng linh hồn và nếp
nghĩ của con người. Những biểu tượng thường thấy trong thơ Xuân Quỳnh là
sóng, thuyền, biển, mùa thu, hoa cúc, bàn tay, con đường, chuồn chuồn trong

giông bão… Các biểu tượng này thường sóng đôi thành từng cặp và đặt trong
thế song hành nhằm thể hiện góc nhìn của nhà thơ về tình yêu, thời gian, tương
quan bản thể và vũ trụ.
Sóng là một hình ảnh quen thuộc được vẽ nên bằng âm nhạc của ngôn từ
thơ ca. Đó chính là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng của người phụ nữ đang yêu, là
hình tượng trung tâm, là linh hồn của bài thơ. “Sóng” luôn gắn liền với “em”
tạo ra hình tượng kép song hành làm cơ sở cho tình yêu mãnh liệt. Những hình
ảnh xuất hiện tự nhiên, dễ dàng, không có chút gò bó được tạo nên từ chính sự
trải nghiệm của bà chứ không có bất kỳ sự gượng ép nào đã làm tăng tính biểu
cảm và giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Một hình ảnh đẹp khác xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh là hoa cúc. Đóa
hoa cúc đi qua những mùa thu chính là cơ sở khiến cho nhà thơ liên tưởng đến
thân phận của mình. Lại một lần nữa, hình tượng “em” lại được đặt trong thế
tương quan với hình tượng “hoa cúc” để thấy được sự đổi thay của con người.
Bao mùa thu đi qua, hoa vẫn vàng, chỉ là em giờ đã khác trước. Bông hoa ấy
cũng chẳng khác nào thân phận của một người phụ nữ. Xuân Quỳnh đã mượn
hoa cúc để ca ngợi vẻ đẹp của tình người và lấy mùa hoa cúc nở làm đơn vị đo
thời gian. Bà không quan trọng việc miêu tả hoa cúc mà chỉ lấy hình ảnh thơ đó
làm chất xúc tác khơi gợi kỷ niệm yêu thương một thời cháy bỏng trong tâm tư
của chính mình.
“Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế


18

Chỉ em là đã khác với em xưa
Nắng nhạt vàng, ngày đã quá trưa
Nào đâu những biển chờ nơi cuối đất
Bao ngày tháng đi về trên mái tóc
Chỉ em là đã khác với em thôi!

Nhưng màu hoa đâu dễ quên nguôi
Thành phố ngợp ngày nao chiều gió dậy
Gương mặt ấy lời yêu thưở ấy
Màu hoa vẫn cháy ở trong em.”
(Hoa cúc)
Và còn rất nhiều, rất nhiều nữa những hình ảnh thơ đẹp mà độc đáo xuất
hiện trong thơ ca Xuân Quỳnh. Với một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của
thiên nhiên và đời sống, Xuân Quỳnh luôn có sự chắt lọc những hình ảnh cần
thiết để đưa vào lời thơ một cách tự nhiên, giản dị và gần gũi. Chính nhờ những
hình ảnh đó, cùng với lời thơ, giọng điệu, cái tình được gửi gắm, đã làm cho
những tác phẩm của bà sống mãi với thời gian và mãi không thôi rạo rực tâm
hồn của những con người say mê yêu và sống.
PHẦN KẾT LUẬN
Với chất thơ đậm nữ tính, mang cái nét đẹp thanh thuần dung dị nhưng
vẫn cháy hết mình vì tình yêu, thơ Xuân Quỳnh là những cung bậc cảm xúc
đan cài vào nhau thành một bản giao hưởng của trái tim ít ai thể hiện được.
Những bài thơ của Xuân Quỳnh luôn mang cảm giác gần gũi vì được viết với
sự đằm thắm của một người phụ nữ, viết ra như để thỏa nỗi lòng, giãi bày tâm
tư tình cảm, không hướng đến cộng đồng mà chỉ hướng đến những đối tượng


19

cụ thể và đã trở thành một giá trị vững chắc trong kho tàng văn học Việt Nam
hiện đại.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×