Thơ Xuân Quỳnh và đôi nét về thế hệ thơ cùng thời
Xuân Quỳnh (1942-1988) là nhà thơ nữ tiêu biêu của thế hệ nhà thơ sinh ở thập kỉ 40 và "ra ràng" với những tác
phẩm thơ "trẻ" ở thập kỉ 60.
Thế hệ các nhà thơ này hoàn toàn thuộc về thời kỳ "lịch sử dân tộc vừa lật sang trang mới" (cuộc kháng chiến
chống Pháp kết thúc thắng lợi). Sau lưng họ, thời đại phong kiến thuộc địa đã bị đẩy lùi vào dĩ vãng. Trước mắt
họ là cả một chân trời vô cùng xán lạn của đất nước đang bắt đầu bước vào thời kì phục hưng. Họ là những "con
người mới" của thời đại phục hưng ấy.
Đối với họ, các thi nhân thời tiền chiến và thời kỳ khánh chiến chống Pháp là những bậc thầy, những người anh,
người chị. Nhưng có lẽ không một ai trong số họ có ý tưởng "giẫm vào vết chân" của các bậc tiền bối đáng kính
ấy. Mặt khác, do đầu óc họ còn quá trong trẻo, trí tuệ của họ lại được mở mang tương đối toàn diện, họ không
trở thành những nhà thơ "minh hoạ". Trái lại, một số lớn thơ của họ viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, ra đời trong cảnh đạn bom khốc liệt, lại đầy ắp rung cảm chân thực, đầy ắp tính nhân bản mà rất ít tính
chấtt giáo điều.
Tựa như "những mạch nước ngầm sục sôi", họ thầm lặng dồn sức lực cho một cuộc cách tân thơ trong giai đoạn
mới. Trên thực tế, những sáng tạo và cống hiến của các nhà thơ thuộc thế hệ những nǎm 60 này là không thể
phủ nhận. Đã xuất hiện những tài nǎng thơ thực thụ mà Xuân Quỳnh không phải là gương mặt duy nhất. Đã có
những dịch giả thơ cự phách. Đã có những tác phẩm thơ ưu tú. Có thể nói thế hệ các nhà thơ nhà vǎn trẻ này là
lực lượng sáng tác quan trọng của vǎn học Việt Nam suốt bốn thập kỉ qua.
Một vài người trong số họ đã là nguyên nhân gây nên "những cơn sóng gió" trên diễn đàn vǎn học, làm tốn khá
nhiều giâý mực và hơi sức của các nhà phê bình vǎn học. Chúng ta tin rằng tất cả những điều đó sẽ được lịch sử
vǎn học tổng kết đánh giá một cách thoả đáng trong một tương lai không xa.
Tuy nhiên thế hệ các nhà thơ này cũng đã phải trải qua những bước đi dò dẫm, cũng mang trong mình không ít
nhược điểm, cũng đã từng nếm mùi thất bại.
Một số người, trên thực tế chỉ được vài ba bước đầu tiên rồi chững lại, hụt hững và mất hướng.
Tại sao vậy? Bởi vì họ chưa biết khơi "một dòng thông" giữa "ào chuôm thơ" của họ với bể nguồn vô tận của thi
ca: đó là số phận hàm chứa cái đẹp của con người thời đại, của dân tộc và nhân loại.
Một số nhà thơ "nhiếp ảnh" thường chỉ phù du trên bề mặt của một cuộc sống nhỏ hẹp, đến lúc nào đó bỗng cảm
thấy bị cạn kiệt cả về đề tài và lẫn "hồn thơ".
Một số khá đông khác không hiểu thấu rằng một bài thơ hay được quyết định bởi cái "linh hồn chất đọng" trong
đó. Thiếu hụt cả ý lẫn tình, họ sa vào bệnh hình thức chủ nghĩa, thích "gây cảm giác lạ" bằng cách dùng nhiều
câu chữ kì cục.
Một số người bất cập với sự sáng tạo, quay về mô phỏng thơ xưa, nhiều nhất là mô phỏng thơ Nguyễn Bính.
Thơ lục bát nở rộ ở giai đoạn mới, tuy nhiên nội dung chưa được phong phú. Những bài thơ lục bát diễn tả
"những nỗi buồn chán" và nỗi "thất tình" chiếm tỷ lệ hơi nhiều.
Nhìn tổng quát, chúng ta có thể thấy một "cǎn bệnh nặng" của thơ giai đoạn này là: rất nhiều bài thơ không hề
được xây dựng trên một hình tượng vǎn học mang chất thơ, một dòng ý tưởng đậm đặc hoặc một luồng cảm xúc
tập trung nào. Trái lại cả bài thơ chỉ là một cuộc kể lể dài dòng những suy nghĩ tản mạn, đôi khi ngoắt ngoéo,
khiến người đọc dù kiên nhẫn đến mấy cũng phải mệt mỏi.
Chính vì vậy một yêu cầu bức xúc "nâng cao thơ" đang được đặt ra, và các nhà thơ "trẻ" cũng đang không
ngừng tu dưỡng, tự điều chỉnh, để có những bài thơ thực sự có gía trị.
Thế hệ các nhà thơ "đǎng đàn" trong những nǎm 60 chỉ là những thế hệ mở đầu của "phong trào thơ trẻ". Đỉnh
cao của thi ca Việt Nam thời đại mới hãy còn ở phía trước.
Phải trải qua nhiều thập kỉ thai nghén, lịch sử và đất nước mới sản sinh ra được những con người tài hoa và xuất
chúng như cặp Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ. * Nói như Nguyễn Công Trứ, họ chính là "khí đẹp của con sông
chung đúc lại" (dã thị giang sơn chung tú khí).
Xuân Quỳnh, một cô gái mồ côi nghèo khổ. lớn lên giữa một thời kỳ đất nước phải đương đầu với vô vàn khó
khǎn về kinh tế, về chiến tranh... nhưng Xuân Quỳnh, khác nào một cây xương rồng kiên cường và kì diệu trên
sa mạc, đã vắt kiệt mình để nở những bông hoa tuyệt quí cho cuộc đời.
Cũng giống như hầu hết các nữ sĩ Đông Tây Kim Cổ, Xuân Quỳnh làm thơ cốt để diễn tả cuộc sống của chính
mình về tất cả mọi phương diện: những khát khao, những tình cảm, những suy nghĩ, và "sự sống" của một người
phụ nữ. Vì lẽ đó hầu hết thơ của chị đều là thơ chữ tình. Đất nước, thiên nhiên, thời đại đều được phản ánh vào
thơ chị thông qua cái lǎng kính chữ tình đó. Thơ Xuân Quỳnh khác nào một cuốn nhật ký bỏ ngỏ và ai ngờ, chính
vì vậy mà thơ chị được đông đảo quần chúng - nam, phụ, lão, ấu và cả... lính nữa -ân ưuvà nồng nhiệt đón nhận.
Họ bị thu hút bởi những gì rất "Hồ Xuân Hương" nơi chị: Một người phụ nữ xinh đẹp, chân thật, đôn hậu, rất mực
yêu đời và vui tính nhưng cũng rất mực sắc sảo và... "đáo để", còn thơ thì thật là... "cực kì"!
Léc môntốp, vǎn hào Nga thế kỉ XIX, đã hóm hỉnh chia đàn bà ra làm hai hạng. Thứ nhất là hạng đàn bà "man
rợ", tức là những đàn bà "hồn nhiên, chỉ có tình cảm mà thiếu hụt về trí tuệ. Thứ hai là hạng đàn bà "trí tuệ", tức
là những đan bà khôn ngoan, trí xảo, nhưng lại thiếu hụt về tình cảm. Nhà vǎn hào Nga đã vô cùng thất vọng vì
không kiếm đâu ra một người đàn bà nào có đủ cả hai phẩm chất tình cảm và trí tuệ.
Xuân Quỳnh của chúng ta, đáng quí thay, là mẫu phụ nữ viên mãn cả về tình cảm lẫn trí tuệ. Và không chỉ thế,
chị còn là mẫu mực của người phụ nữ đức hạnh, điều mà vǎn hào Lécmôntốp hình như "không dám" đòi hỏi ở
phụ nữ quí tộc Nga thời đại ông.
Với bản chất thông minh, với trí tuệ phát triển cap, Xuân Quỳnh đã ứng xử và giải quyết, Xuân Quỳnh đã ứng xử
và giải quyết mọi vấn đề phức tạp mà cuộc sống đặt ra. Chị đã định hướng dứt khoát cho con đường sự nghiệp
của mình: đó là nghiệp thơ. Chị quyết định chấm dứt một cuộc hôn nhân mà chị biết là mình đã lạ lẫm. Chị quyết
định xây dựng tình yêu và hôn nhân với... "chú đại bàng non trẻ" Lưu Quang Vũ mà chị biết chắc trong đó có tình
yêu và hạnh phúc đích thực.
Chúng ta hãy xem chất "trí tuệ" của Xuân Quỳnh thể hiện qua thơ như thế nào:
Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng
Trái tim em, anh đã từng biết đấy
Anh là người coi thường của cải
Nên nếu cần, anh bán nó đi ngay...
(Tự hát).
Với những dòng thơ sau đây, Xuân Quỳnh thổ lộ tâm tư nhưng chính là để tự khẳng định mình trước một người
chồng mà chị biết anh ta vốn không phải là hạng "gà mờ"
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Biết khao khát những điều anh mơ ước.
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu.
Cổ nhân nói "nhất cố khuynh nhân thành, tái cổ khuynh nhân quốc" (ngó một lần nghiêng thành người, ngó lần
nữa đổ nước người), để khẳng định cái mãnh lực bất khả kháng của sắc đẹp. Riêng Xuân Quỳnh thể hiện cái
mãnh lực của những lời nói sâu sắc. Những lời nói như của Xuân Quỳnh, theo cách ví von của Vônte, có thể làm
cho những trái tim bằng đồng cũng phải mềm nhũn ra!
Giàu trí tuệ, nên cũng như Hồ Xuân Hương xưa kia, Xuân Quỳnh đã đóng vai trò tham mưu đắc lực, đã san sẻ
"cái khôn" cho chị em cùng giới, để đối đáp và xử sự với phái mày râu:
Những cái chính chúng ta thường chả nói
Mà bọn con gái mình hay nói xấu nhau
Bọn con trai nghe lỏm đôi câu...
Họ khinh chúng ta và lời cửa miệng:
"Chuyện đàn bà"
Ta yêu người con trai không phải vì mình
Mà họ yêu ta vì họ yêu chính họ
Được yêu hai lần, họ cao lên một bậc
Ta không được yêu cảm thấy thấp dần đi
Vì chính ra cũng chẳng yêu ta...
(Thơ viết cho mình và những người con gái khác)
Xuân Quỳnh nhận thức được tính bi kịch vĩnh cửu của cuộc sống: đó là sự ngắn ngủi của đời người. Hình như
chị còn tiên lượng được số phận của mình: Rất có thể Xuân Quỳnh - đoá hoa quỳnh mùa xuân - sẽ chỉ nở và toả
hương được vài giờ trong đêm tối rồi tàn lụi. Bởi thế, chị đã sống hối hả, nồng cháy, sống hết mình với cuộc đời,
với thơ và tình yêu, với hạnh phúc và gia đình, như sợ tất cả những điều quá ư tốt đẹp ấy sẽ vụt qua như ánh
chớp.
Chi chút thời gian từng phút từng giờ
Như kẻ khó tính từng hào keo kiệt
Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết
Hôm nay non, mai cỏ sẽ già ...
(Có một thời như thế)
Ngoài đạo đức cao quí và tình cảm sâu sắc, chính trí tuệ sáng suốt, lành mạnh, là ưức mạnh thần kỳ đã nâng đỡ
Xuân Quỳnh trong những bước khó khǎn, giúp chị tồn tại, chịu đựng được những chà xát của cuộc sống trần
gian, làm cho tài nǎng của chị thǎng hoa. Xuân Quỳnh là người đã chiến thắng tất cả, vượt qua tất cả để hướng
về phía hạnh phúc chói lọi và tuyệt vời của tình yêu và sự nghiệp. Chị cũng là người biết giữ gìn và biết tận
hưởng hạnh phúc cuộc sống ở mức tối đa có thể được hưởng. Xuân Quỳnh chính là đỉnh cao của những con
người "nhân bản chủ nghĩa" thời hiện đại.
Thơ tình tôi viết cho tôi
Qua cay đắng với buồn vui đã nhiều
Vẫn còn nguyên vẹn niềm yêu
Như cây tứ quí đất nghèo nở hoa.
(Thơ tình toi viết).
Mảng thơ đặc sắc nhất của Xuân Quỳnh chính là mảng thơ về tình yêu. Điều gì đã làm nên sự đặc sắc ấy?
Trước hết vì Xuân Quỳnh có một "nhân bản yêu đương" cực kì mãnh liệt, là một người con gái có thể "sống chết
vì tình". Dạng phụ nữ như Xuân Quỳnh, đã từng được như thi hào Nguyễn Du mô tả:
Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
ở không yên ổn, ngồi không vững vàng,
Ma dẫn lối, quỉ đưa đường
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi...
Xuân Quỳnh không giấu giếm bản chất ấy của mình:
... Nếu tôi yêu được một người
Tôi yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm
Tôi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng...
Xuân Quỳnh là người hành động nên chị nhất định không chấp nhận kiểu sống "đói lòng ngồi gốc cây sung". Trái
lại chị đã "đi khắp chốn tìm người tôi yêu", đồng thời gạt bỏ những gì chỉ là "mạo danh tình yêu". Và khi đã đạt
được tình yêu rồi thị chị sống với tất cả chiều sâu thǎm thẳm của trái tim:
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
(Sóng)
Khi anh nói yêu em, trái tim em đập chừng mạnh qúa.
Mạnh đến nỗi em tưởng là nghe rõ
Tiếng tim anh đang đập vì em.
Em yêu anh, yêu anh như điên ...
Khác hẳn những người đàn bà "sống trong vương quốc của tình yêu mà không biết được biên giới của vương
quốc ấy". Xuân Quỳnh là một phụ nữ không những có khát vọng mà còn có đủ khả nǎng đi đến tận cùng biên
giới và tận cùng đáy sâu của vương quốc tình yêu. Phải chǎng ở những điểm tận cùng đó mà những câu thơ
tuyệt tác đã ra đời:
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu.
Ngày nào không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau - rạn vỡ...
(Thuyền và biển).
Một điều nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh là chị không chỉ yêu say đắm mà còn đặt tình yêu ấy lên ngai vàng của sự
tôn thờ tuyệt đối. Xuân Quỳnh rất có lí: ở cõi đời này. Tình yêu chẳng phải là điều thực sự đáng tôn thờ hay sao?
Vả chǎng. Xuân quỳnh, bằng tất cả những phẩm chất hội tụ trong con người mình, chị đã đạt được một tình yêu
đáng tôn thờ. Người chồng, trong mắt Xuân Quỳnh, lúc nào cũng như một người tình mà chị yêu đắm đuối, cũng
cảm thấy như "chàng" có thể vuột khỏi tay:
Tới thǎm anh rồi em lại ra đi
Đôi mắt lo âu, lời âu yếm xẻ chia
Lúc anh đến, anh đi thành quá khứ
Anh thuộc về những người ngoài cánh cửa
(Thời gian trắng)
Anh, con đường xa ngái
Anh, bức vẽ không màu
Anh, nghìn nỗi lo âu
Anh, dòng thơ nổi gió...
Mà em người đời thường
Biết là anh có ở!
(Anh)
Cũng vì tôn thờ tình yêu thái quá, có lúc Xuân Quỳnh đã có linh cảm chẳng lành về hạnh phúc của mình. Thơ tình
của chị đã đã đẩy tình yêu lên tầm bi kịch: Tình yêu tuyệt đích có thể sẽ kết thúc cách nào đó thật bất ngờ, trước
khi tuổi già sộc đến:
Đọc bài thơ yêu em thấy sự chia xa.
Và bỗng nhiên em lại bơ vơ,
Tay vẫn vụng, trán dô ra như trước...
(Thơ viết cho mình)
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố
(Thuyền và biển)
Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh thật là nồng nàn, sâu sắc và đượm nỗi thoảng thốt lo âu, tất cả được diễn đạt
bằng một ngôn ngữ giản dị, trong sáng, hầu như không cách điệu. Đó là thứ thơ đạt tới tầm cao của nghệ thuật
nhưng vẫn dễ hiểu với đông đảo quần chúng, vẫn có thể gây được những niềm xúc động khác thường:
Em trở về đúng nghĩa
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.
Và rồi cái điều bất ngờ nhất đã xảy ra với Xuân Quỳnh. Chị đã đột ngột từ giã chúng ta ra đi vĩnh viễn cùng với
chồng và con qua một tai nạn thảm thương, để lại biết bao thương tiếc cho tất cả những ai yêu thơ chị, yêu kịch
Lưu Quang Vũ.
Thế nhưng chính sự kết thúc ấy đã khiến cho tình yêu mà chị tôn thờ trở thành bất tử, đã làm Xuân Quỳnh và
Thơ Xuân Quỳnh dường như càng đẹp ngời thêm lên bởi một vừng sáng kì diệu của huyền thoại.
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 12-1996.
Kiều Vân