Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích bài thơ Việt Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.93 KB, 18 trang )

VIỆT BẮC
-TỐ HỮUI. KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1. Vài nét về tiểu sử:
Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (04/10/1920 – 09/12/2002) tại làng
Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
là một tác gia có vị trí đặc biệt quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của dòng
thơ cách mạng Việt Nam. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ
thống chính trị của Việt Namnhư Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội
đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
2. Nét nổi bật trong giá trị nội dung và nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc
của Tố Hữu:
- Ở tập thơ Việt Bắc, Tố Hữu hướng vào thể hiện con người quần chúng
kháng chiến, trước hết là công nông binh với những phẩm chất tốt đẹp mà
nhà thơ ngợi ca cảm phục. Cái tôi của nhà thơ ẩn mình đi đằng sau các hình
ảnh anh vệ quốc quân, chị nông dân, anh bộ đội, người mẹ nông dân, chị phụ
nữ, em bé liên lạc...Trên tất cả, tập trung và tiêu biểu cho mọi phẩm chất của
dân tộc, của con người kháng chiến là hình ảnh Bác Hồ.
- Việt Bắc là bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, phản ánh
những chặng đường gian lao, anh dũng và những bước đi lên của cuộc
kháng chiến cho đến ngày thăng lợi. Tập thơ kết tinh những tình cảm lớn của
con người Việt Nam, kháng chiến, mà thống nhất mà bao trùm là tình yêu
nước, một tình cảm thấm sâu vào mọi bình diện và mọi quan hệ đời sống,
được biểu hiện trong nhiều trạng thái phong phú đa dạng: tình quân dân "cá
nước", tình hậu phương tiền tuyến, miền ngược với miền xuôi, tình nghĩa
gắn bó giữa cán bộ và quần chúng, lòng kính yêu của nhân dân với lãnh tụ...
- Vào những năm cuối của cuộc kháng chiến, những sự kiện lịch sử trọng đại
như chiến thắng Điện Biên Phủ, hoà bình lập lại nửa nước được giải
phóng...đã chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu bay bổng và rộng mở trong cảm


hứng sử thi - trữ tình mang hào khí thời đại, tiếp thu nhiều giá trị văn hoá
dân gian như lối đối đáp, lối xưng hô "mình-ta"...và kế thừa những thành tựu
thơ ca dân tộc, nhất là lục bát, mang lại cho Việt Bắc một nghệ thuật thơ
nhiều tính dân tộc và đại chúng.




II. KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1, Tám dòng thơ đầu
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng,
Chính phủ, Bác Hồ từ biệt chiến khu Việt Bắc, nhân dân Việt Bắc về Hà Nội
sau gần 15 năm gắn bó.
Trong cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến bịn rịn của việt Bắc đối với người về
xuôi, khúc hát chia tay đã được bắt đầu cất lên từ chính lòng người ở lại. Tố
Hữu như muốn nói lòng người Việt Bắc thủy chung với Cách mạng biết
nhường nào. Ngay từ câu thơ mở đầu trong sáu tiếng đã có tới 2 tiếng
“mình” thân thương. Sự trở đi trở lại tiếng gọi đối với mình như để nói lòng
người Việt Bắc không nguôi nhớ người về xuôi nhưng lại cũng như xoáy sâu
vào ký ức của người về xuôi những kỷ niệm chan chứa nghĩa tình. Cũng
ngay từ câu thơ mở đầu những chữ “mình, ta” đã như quấn quýt với nhau,
như sự gắn bó không muốn chia xa giữa người ở và người về. Âm điệu của
câu thơ chủ yếu được tạo bởi thanh bằng với một chữ “ta” ở cuối làm cho
tình cảm nhớ thương vừa lắng vào lòng người trong cuộc chia tay lại lan ra
mênh mang.
Kết cấu của hai câu thơ mở đầu là kết cấu của một câu hỏi tu từ, câu hỏi
khơi gợi những kỷ niệm tha thiết mặn nồng, câu hỏi bao trùm cả không gian
của 15 năm ấy. Câu hỏi thường có tác dụng khơi sâu vào lý trí của người
nghe nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kỷ niệm đầy xúc động của 15
năm Cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc để làm nên một Việt Nam Dân Chủ

Cộng Hoà. Bởi, Tố Hữu đã sử dụng một chữ “15 năm ấy” gợi ta nhớ tới cái
“thuở ban đầu” của tình yêu đã từng được nói tới trong hơ của Lưu Trọng
Lư.
“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghin năm hồ dễ đã ai quên”.
Người về làm sao có thể quên được 15 năm ây của mối tình đầu giữa Việt
Bắc và Cách mạng. Cùng với sự khơi gợi những tình cảm trong sáng, mạnh
mẽ, những tình cảm “nghìn năm hồ dễ đã ai quên” câu thơ được tiếp tục bởi
những chữ “thiết tha, mặn nồng”. Một câu thơ viết về 15 năm của Cách
Mạng, của kháng chiến mà nồng nàn, mà tha thiết mà trữ tình biết bao.
Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cách
xưng hô hết sức tình tứ “mình” với “ta” nhưng ở hai dòng thơ tiếp theo lại là
câu hỏi bao trùm cả không gian, không gian của cuộc chia tay, không gian
của những kỉ niệm qua suốt 15 năm ấy, không gian của cả đất nước bao trùm
cả miền ngược lẫn miền xuôi, không gian của cây với núi, của sông với
nguồn. Một câu hỏi làm bâng khuâng cả núi rừng sông suối, cả đất trời trong
khung cảnh chia tay. Dường như ở đâu trong thời điểm ấy cũng có sự hòa


hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ vì sự chia tay giữa mình và ta là một sự kiện
lớn lao trong đời sống của Đất nước.
Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu của câu hỏi, qua từ
ngữ xưng hô tình tứ mà còn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể
hứng, thể phú, thể tỉ trong ca dao. Đọc câu thơ.
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Ta ngỡ như đọc câu ca dao:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Hay

“Qua cầu ngả nón trông cầu
Câu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu”
Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao,
dân ca. Bốn câu thơ như một bài ca dao vậy, chất trữ tình gắn liền với những
băn khoăn trăn trở của người ở lại, của Việt bắc vô cùng thủy chung với
Cách mạng. Tố Hữu đã chọn một cách nói để khơi nguồn cho cảm xúc
xuyên suốt văn bản hết sức đặc sắc.
Mạch thơ từ những câu thơ mở đầu này cứ thế tuôn chảy dào dạt.
Nằm trong mạch hát đối đáp bài thơ đã dành đúng 4 dòng thơ diễn tả tâm
trạng người về xuôi, tạo nên sự cân đối với 4 dòng thơ mở đầu, tạo nên sự
tương xứng với sự thủy chung của Việt Bắc. Ở 4 dòng thơ này như có sự
nhớ thương đáp lại nhớ thương, tha thiết đáp lại với tha thiết cái bịn rịn
không nỡ rời chân đáp lại cái mặn nồng của người ở lại. Nằm trong mạch
cảm xúc như của tiếng hát giữa đôi lứa yêu nhau, Tố Hữu buông một câu thơ
rất tình tứ.
“Tiếng ai tha thiết bên cồn”
Chỉ cáo một chữ “ai” đâu phải để hỏi vì muốn biết “ai”. Chữ “ai” đâu cũng
còn là đại từ phiếm chỉ để chỉ chung, chỉ một đối tượng không xác định bởi
đây cả “ta” lẫn “mình” đang lên tiếng hát cho cuộc chia tây đầy lưu luyến.
Chữ “ai” chỉ là một cách nói để làm tăng thêm tình cảm yêu thương, để câu
nói trở nên tình tứ mà thôi. Người về xuôi trong nỗi niềm xúc động như mở
rộng tâm hồn, mở rộng nỗi lòng của mình để đón nhận cái thiết tha của
những tình cảm thủy chung kia để rồi bày tỏ tình cảm của mình. Đó là trạng
thái:
“Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Những chữ “bâng khuâng” “bồn chồn” diễn tả rất chính xác trạng thái tình
cảm của người về xuôi. “Bâng khuâng” chính là nỗi niềm thương nhớ đối
với cảnh, đối với người, đối với cuộc sống đã trở thành kỉ niệm của những



ngày kháng chiến, những kỷ niệm còn vương vấn, còn dâng đầy trong tâm
trí người về xuôi.
Bước chân về xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương với Việt Bắc, còn
“bồn chồn” là một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi, những
bước đi không nỡ rời mảnh đất yêu thương qua 15 năm ấy. Mỗi bước đi lại
mỗi nhớ nhung, mỗi bước đi mỗi bước không yên bởi nỗi niềm thương nhớ
ấy.
Với câu thơ thứ 3 ở khổ thơ này Tố Hữu đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa lịch
sử của cuộc chia tay. Bởi với những dòng thơ mở đầu trước đó, tiếng hát đối
đáp như chỉ của mình với ta, của đôi lứa yêu nhau, đột nhiên cuộc chia tay
ấy trở thành cuộc chia tay lớn của cả Việt Bắc đối với cuộc kháng chiến. Từ
một hình ảnh hoán dụ.
“Áo chàm đưa buổi phân li”
Cả Việt Bắc như ngẩn ngơ trong cuộc chia tay lịch sử ấy, Hình ảnh “áo
chàm” dùng để chỉ hình ảnh của Việt Bắc trong thủ pháp hoán dụ. Cái ngẩn
ngơ của VB hiện ra ở những chữ “đưa buổi phân li”. Trong khi đó câu thơ:
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Không chỉ thể hiện cái lặng đi trong giấy phút xúc động của người về xuôi
mà còn diễn tả cái ngập ngừng, bịn rịn, lưu luyến trong bước chân của người
về xuôi qua sự đột biến của nhịp điệu câu thơ. Bởi, câu thơ lục bát vốn có
kết cấu của những nhịp chẵn đều đặn, mang cái dìu dặt của khúc hát chia tay
đã chuyển thành nhịp lẻ 3/3/2:
“Cầm tay nhau/biết nói gì/hôm nay”
Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ
“Bước đi một bước giây giây lại dừng”
Sự thay đổi nhịp điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ có sự đổi mới đối
với cảm xúc của người đọc câu thơ đã làm cho người đọc không rơi vào cái
tiết tấu quá đều đặn qua suốt 8 dòng thơ mà trở nên mòn, chán.
2, Đoạn thơ: “Mình đi có nhớ những ngày...Tân Trào, Hồng Thái, mái
đình, cây đa”.

Nhắc đến Tố Hữu thì ai cũng biết ông là một trong những nhà thơ trữ tình
Cách Mạng hàng đầu của nền văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu là tiếng thơ
của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và
cuộc sống Cách Mạng. Bài “Việt Bắc” là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác
thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung.Có thế
nói, “Việt Bắc” là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca, thế hiện ân tình sâu
nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứđịa Cách Mạng cả nước. Điều
này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ:
“Mình đi,có nhớ những ngày
…………….........


Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
“Việt Bắc” là tác phẩm trường thiên,dài 150 dòng,được Tố Hữu viết vào
tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hổ và cán bộ từ giã
“Thủ đô gió ngàn” để về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình” .Bao trùm
đoạn thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến
khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở
người đi – người miền ngược và người đi kháng chiến.
Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mưa
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ “có nhớ”, điều này gợi cho ta cảm
nhận được tâm trạng của người ở lại – một tâm trạng quan tâm, lo lắng
không biết: “Cán Bộ về xuôi, Cán Bộ có còn nhớ chiến khu Việt Bắc nữa
không ?”. Để cho Việt Bắc hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày
kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc “mưa nguồn suối lũ, những
mây cùng mù” , câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết

khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng
vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Ngoài
việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt,khó khăn của thiên nhiên, “mình và ta”
còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn,đầy gian khổ “miếng cơm chấm
muối”. Hình ảnh hoán dụ “mối thù nặng vai”, gợi liên tưởng đến “mối thù”
sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán
nước ta cho giặc. Đồng thờ còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về
một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau
tiêu điệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc
sống hạnh phúc, ấm no. Ngệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm
tha thiết.
Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng ẩn chứa trong
vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của
người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ “rừng núi nhớ ai” – “rừng núi” chính
là hình ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” là chỉ người cán bộ về xuôi – nhằm
nhấm mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân Việt Bắc
đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ...Thiên nhiên và


con người Việt Bắc nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức “trám bùi để rụng,
măng mai để già” – “trám bùi và măng mai” là hai món ăn thường nhật của
bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là “đặc sản” của thiên nhiên
Việt Bắc. “Mình về” khiến núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng, buồn
bã đến lạ thường, ngay cả khi “trám bùi – măng mai” mà cũng không ai thu
hái. Người ở lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật chân thành và tha thiết.
Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn
mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: “Cán Bộ về xuôi có nhớ cảnh vật

Việt Bắc, con người Việt Bắc, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến
hay không ?”
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”
Cụm từ “nhớ những nhà” – biện pháp hoán dụ - gợi cho ta cảm nhận được
tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân Việt Bắc
hay không ?Chứ nhân dân Việt Bắc nhớ cán bộ nhiều lắm,nhớ đến nỗi ”hắt
hiu lau xám”.Từ láy “hắt hiu” kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên
nhiên Việt Bắc “lau xám” càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng,đơn
sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là “tấm lòng
son”, tấm lòng ấm áp và chân thành của con người Việt Bắc. Ngoài ra, nhân
dân Việt Bắc còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ “núi non”,
nhớ thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng
nhau “kháng Nhật”, “thuở còn làm Việt Minh” hay không? Chính nghĩa tình
của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm cùng
san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn
làm cho Việt Bắc – quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho
Cách Mạng – càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng và trong
lòng người đọc nói chung. Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh
lịch sử:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Chỉ với hai câu thơ,nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất
nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào
nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được
dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo
nhiều cách. Nếuhiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc – đại từ nhân xưng
ngôi thứ hai – thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không

biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không?”.
Ở nghĩa hẹp


hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất –
khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác: Cán bộ về xuôi, cán bộ có
nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân, nhớ
những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp,vì độc lập tự do của
dân tộc hay không?”.
Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự,
sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng
của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố
Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến
thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.
“Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Ở câu thơ cuối trong khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn
liền với hai sự kiện quan trọng đã từng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ
nhất: sự kiện “cây đa Tân Trào” (12/1944), đây là nơi đội Việt Namtuyên
truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát, lúc đầu chỉ với mấy chục thành
viên nhưng sau đó trở thành đội quân Việt Nam- lực lượng chủ chốt đã làm
nên chiến thắng ngày hôm nay. CÒn địa điểm thứ hai là tại đình “Hồng
Thái” nơi Bác đã chủ trì cuộc họp (8/1945) quyết định làm cuộc Cách Mạng
Tháng 8; chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống
Pháp đã thành công vang dội,có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Tố
Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi
của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng
cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng Việt Bắc chính là cái nôi của Cách mạng, là
nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có
còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi
dạ?”

Chỉ với 12 câu thơ trong khổ 3 của bài Việt Bắc, Tố Hữu đã đưa ta vào thế
giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương
của tình nghĩa Cách Mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tố Hữu đã
sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập “mình đi – mình
về”.Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong
khổ thơ này thì “mình đi – mình về” đều chỉ một hướng là về xuôi,về Hà
Nội.Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 - 4/4 đều đận, khiến cho âm
điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong
đưa, rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình –chính trị của Tố Hữu.“Giọng
thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc”
của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài Việt Bắc. Những chi
tiết về ánh sáng và tình người, từ “miếng cơm chấm muối, trám bùi,măng
mai, mái nhà hắt hiu lau xám...” đến “mối thù” hai vai chung gánh, những


“tấm lòng son” sẽ không bao giờ phai nhạt,sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ
và trong tâm trí của người dân Việt Bắc,của những cán bộ về xuôi.
3. Đoạn thơ:
“Ta với mình, mình với ta
....................
Chày đêm, nên cối đều đều suối xa”.
a. Người ra đi khẳng định lòng chung thủy và tình cảm thiết tha với cội
nguồn cách mạng:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
- Ở đoạn đầu của bài thơ, người Việt bắc trong nỗi niềm của người ở lại: Sợ
người ra đi trở về thành thị sẽ quên mất mình (Sáng đèn có nhớ mảnh trăng
giữa rừng). Niềm phấp phỏng ấy được diễn tả bằng một câu hỏi: “Mình về

mình có nhớ ...”, “Mình đi có nhớ ... “. Vì vậy 4 câu thơ trên là câu trả lời,
sự khẳng định của người ra đi.
- Lời thơ óng ả, dịu dàng, tình tứ với lối xưng hô thân mật, ngọt ngào của ca
dao, dân ca “ta - mình”. Nỗi nhớ của người cách mạng về quê hương Biệt
Bắc giống như nỗi nhớ của những đôi lứa yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền đôi,
thành cặp trong câu đã có đảo trật tự từ “Ta với mình, mình với ta” vừa gợi
ra sự bịn rịn, lưu luyến, quấn quýt không muốn rời xa của “ta” và “mình”,
vừa khéo léo khẳng định tấm lòng của “ta” cũng giống như “mình”.
- Những từ ngữ chỉ thời gian mãi mãi “sau, trước” chỉ tình cảm trước sau
như một, không nhạt phai, đinh ninh “mặn mà” xuất hiện liên tiếp trong một
câu thơ đã khẳng định một cách chắc chắn lòng son sắt của những người
kháng chiến về xuôi. Câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà” đinh ninh vừa là
lời an ủi, vỗ về vừa là lời thề thủy chung sâu nặng.
- Mượn cách so sánh, ví von quen thuộc của ca dao để giãi bày nỗi nhớ da
diết, không vơi cạn:
“Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
b. Nỗi nhớ thiên nhiên, con người Việt Bắc được diễn tả cụ thể qua nhiều kỉ
niệm:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
..................
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
* Nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc:


- Hàng loạt hình ảnh liệt kê, cụ thể, gần gũi, gợi cảm: trăng, núi, nắng, khói,
sương, rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê ... làm hiện lên một
thiên nhiên thơ mộng, trữ tình và mang đậm nét đặc trưng của Việt Bắc.
- Nỗi nhớ có hình ảnh, có thời gian và không gian. Đó là một nỗi nhớ sâu
đậm và quá đỗi chân thành.
* Nỗi nhớ con người Việt Bắc:

- Nét đặc sắc cao quí của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình,
rộng mở, son sắt, thủy chung với cách mạng:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
- Thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng, trầm tĩnh, thâm u, con người Việt Bắc
giản dị, mộc mạc, dù cuộc sống lao động gian khổ nhưng họ lạc quan yêu
đời.
+ Hình ảnh người mẹ vất vả, nhọc nhằm nhưng ấm áp cảm động, địu con
trên lưng dưới cái nắng cháy da để bẻ bắp nuôi bộ đội:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”.
+ Trong kí ức của Tố Hữu, Việt Bắc không chỉ kiên cường trong kháng
chiến chống giặc ngoại xâm mà còn nhẫn nại, cương quyết đương đầu với
giặc dốt. Đêm rừng Việt Bắc bập bùng đuốc sáng của những lớp học i tờ.
Niềm vui, sự lạc quan chiến thắng sự gian nan, người Việt Bắc vẫn ca vang
núi đèo:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sớm những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.
- Việt Bắc trở thành quê hương của những người kháng chiến - tình yêu đã
“làm đất lạ hóa quê hương” (Chế Lan Viên). Cả những âm thanh của đời
thường cũng đi vào nỗi nhớ của người ra đi: đó là tiếng mõ gọi trâu về làng,
tiếng chày giã gạo đêm đêm:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nên cối đều đều suối xa”.
- Nỗi nhớ dội vào nỗi nhớ, điệp từ “nhớ” và kiểu câu bắt đầu bằng “Nhớ
sao” khiến nỗi nhớ như trải dài vô tận.
c. Kết luận:
- Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ của người cách mạng về xuôi với quê hương Việt

Bắc. Không chỉ nhớ thiên nhiên, nhớ những ngày kháng chiến gian khổ mà
nhớ người Việt Bắc ân tình, thủy chung.
- Ngôn ngữ thơ bình dị, giọng điệu ngọt ngào tha thiết mang đậm chất trữ
tình, chính trị, tính dân tộc.


- Tóm lại, đoạn thơ là bốn bức tranh, bốn cảnh sắc, bốn dáng điệu. Tố Hữu
đã thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Tất
cả đều hiện lên trong điệp khúc nhớ thương, mặn mà, da diết.
- Ngôn ngữ giản dị, ngọt ngào, giàu tính dân tộc ...
4. Bức tranh tứ bình:
Đã đến với bài thơ, độc giả khó mà quên được đoạn gợi lên phong vị bốn
mùa rất riêng của Việt Bắc. Bút pháp tả cảnh, tả tình ở đây đã đạt tới mức
tinh luyện, biểu thị độ viên mãn của một phong cách nghệ thuật luôn hướng
tới sự hài hoà giữa tình cảm cách mạng và nhận thức cách mạng.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”
Dòng đầu tiên là một câu hỏi hướng về người ở lại. Tất nhiên, câu hỏi này
không cần phải trả lời. Đó là một câu hỏi tu từ có chức năng đưa đẩy hoặc
gắn kết những lời đối thoại vào trong một mối thống nhất.
Ảnh hưởng của thơ ca dân gian được thể hiện ở đây rất rõ. Thơ ca dân gian
thường có lối thể hiện tình tứ và duyên dáng như vậy. Có thể nghĩ thêm
rằng: chính câu hỏi này đã làm nổi bật tính chất hai chiều của nỗi nhớ cùng
sự thiết tha của tình cảm mà người đi đã dành cho Việt Bắc, nhằm đáp lại ân
tình sâu nặng mà quê hương cách mạng đã dành cho mình. Từ hoa được
dùng trong dòng thơ thứ hai thật cô đọng mà gợi cảm. Đầu tiên, có lẽ nó
muốn chỉ những loài hoa quen thuộc thường gặp ở núi rừng Việt Bắc. Trong
nỗi nhớ nhung trìu mến của người đi, Việt Bắc như đã trở thành một xứ hoa.
Có thể nói cảm xúc của người đi đã được lắng lọc trong suốt, để còn lại
trong kí ức là những cái gì đẹp đẽ nhất, lung linh, tươi tắn nhất. Nhưng từ

hoa cũng cần được hiểu theo nghĩa rộng. Hoachính là thiên nhiên làm say
đắm lòng người của Việt Bắc, không thể tách nó ra khỏi hình ảnh con người.
Nhớ hoa cũng chính là nhớ người và ngược lại.
Trong tám dòng thơ tiếp theo, Tố Hữu đã tạo nên được một bộ tranh tứ bình
độc đáo về Việt Bắc theo chủ đề Xuân - Hạ - Thu - Đông. Mỗi bức tranh thơ
có giá trị độc lập của nó nhưng điều này không phá vỡ sự hài hoà chung của
cả bộ tranh. Trái lại, vẻ đẹp của mỗi bức chỉ bộc lộ hết trong mối quan hệ
chỉnh thể với những bức còn lại. Khi lần lượt vẽ các bức tranh này, Tố Hữu
đã nhất quán sử dụng bút pháp cứ câu trên tả cảnh thì câu dưới tả người.
Dụng ý của tác giả là khẳng định sự thống nhất giữa cảnh và người đã nói ở
trên.
Nhìn chung, bộ tứ bình thơ ở đây đậm đà màu sắc cổ điển với tính chất cân
xứng hoàn mỹ của nó. Như là một sự ngẫu nhiên, bức tranh thứ nhất vẽ ra
cảnh tạm quy ước là cảnh mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”


Tuy nói về rừng xanh – một đối tượng từng được nhắc tới trong thành ngữ
rừng xanh núi đỏ – mà câu thơ - nét vẽ không hề gợi cảm giác buồn vắng,
hiu hắt. Ta thấy hiện lên ở đây hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi giống
như những đốm lửa đang bập bùng cháy giữa nền xanh trầm tịch của rừng
già. Nhà thơ đã khéo tạo nên sự tương phản giữa màu đỏ và màu xanh để
làm tăng cường lực thị giác của màu đỏ, tức là màu có thể gợi lên cảm giác
ấm áp, hưng phấn. Tiếp sau, nhà thơ tạo hình một dáng người đi trên đèo
cao.
Trong tỉ lệ chung của bức tranh, cái chấm tả người ấy thật bé nhỏ, tuy vậy, ta
không hề có ấn tượng hình ảnh con người bị lấn át. Tất cả là nhờ ở con dao
được tác giả “gài” một cách tự nhiên, đầy “nghệ thuật” ngang thắt lưng
người. Cái ánh nắng được phản chiếu trên lưỡi dao trần đã biến con người

trở thành một điểm sáng di động thu hút cái nhìn của chúng ta. Phải chăng
điều tác giả muốn nói ở đây là thiên nhiên không che lấp mà thực sự đang
tôn lên vẻ đẹp của con người?
Trong bức tranh thứ hai - Xuân - gam màu chủ đạo là gam màu trắng:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”
Đó là một màu trắng trong trẻo rất phù hợp với việc diễn tả vẻ đẹp tinh
khôi, trinh bạch, huyền hoặc đến khó tin của rừng hoa mơ lúc xuân về. Âm
điệu mạnh của cụm từ trắng rừng cuối dòng lục đã thể hiện được cảm giác
choáng ngợp vì hạnh phúc của nhà thơ khi tâm trí bị màu trắng hoa mơ cùng
vẻ xuân dâng ngập đất trời nơi núi rừng Việt Bắc thôi miên, phong toả. Trên
cái nền phong cảnh đẹp đẽ ấy, hình ảnh con người cũng không kém phần
quyến rũ với động tác chuốt từng sợi giang thật khoan thai, thật uyển
chuyển.
Quả thực, giữa người và cảnh có sự hoà hợp tuyệt đối. Ta hiểu con người
được nói tới ở đây chính là chủ nhân của mùa xuân, là kẻ đang tô điểm cho
sắc xuân vốn có của đất trời thêm thơ mộng, lãng mạn. Hướng cái nhìn vào
bức tranh thứ ba - Hạ - ta thấy lênh láng một sắc vàng rực rỡ:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”
Câu lục xôn xao “tiếng nói” của cả màu sắc lẫn âm thanh. Trong tiếng ve
kêu (hoặc có thể nghĩ là nghe tiếng ve kêu), ngàn lá phách hối hả thay màu .
Âm thanh đanh sắc của tiếng ve như làm cho màu vàng của rừng phách rung
thành tiếng. Ngược lại, màu vàng của rừng phách như đã thị giác hoá tiếng
ve, khiến nó chói chang trước mắt nhìn. Từ kêu, từ đổ đã thể hiện thật đắt
cái không khí rộn rực rất đặc trưng của mùa hạ. Có thể hiểu đổ vàng là đồng
loạt ngả vàng. Cũng có thể hiểu rừng phách đổ vàng là ào ào trút lá vàng
theo một nhịp điệu dứt khoát và mạnh mẽ. Sau những nét tả đầy kích thích



đối với giác quan ở dòng lục, sang dòng bát, một hình ảnh đằm dịu hơn được
vẽ ra như để làm cân bằng lại trạng thái cảm xúc của độc giả. Cái vẻ lẻ loi
của cô gái hái măng một mình đã khơi dậy trong ta những rung động ngọt
ngào, sâulắng. Bức tranh mùa hè thật hoành tráng mà cũng thật đậm tính trữ
tình. Nó dung hợp được vừa những quệt bút mạnh mẽ đầy hứng khởi vừa
những nét vẽ mảnh mai, tinh tế, có thể gợi ra cả một trường liên tưởng mênh
mông.
Trong câu lục bát cuối cùng của đoạn thơ, tác giả tái hiện một cảnh thu
mang đặc tính “ý niệm” nhiều hơn là đặc tính cụ thể, cá biệt:
“Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Cũng như nhiều nhà thơ khác, khi nói về mùa thu, tác giả không quên nhắc
tới ánh trăng. Ánh trăng xanh mát đã toả lên cảnh vật một không khí thanh
bình, yên ả. Từ hoà bình tuy có hơi chung chung, hơi “cứng”, nhưng không
phải không có ý nghĩa. Nó vừa nói được cái dịu dàng của ánh trăng giữa
rừng khuya, vừa phản ánh được ước vọng hoà bình của những người kháng
chiến, lại vừa gợi cho người đọc nghĩ tới bối cảnh khá yên tĩnh của An toàn
khu. Trên cái nền thiên nhiên rất mực nên thơ ấy, tiếng hát ân tình thuỷ
chung cất lên nghe thật ấm lòng. Có cần gì phải phân định xem tiếng hát này
là của ai. Trong âm điệu của nó ta nghe rung lên nỗi niềm của cả người đi
lẫn kẻ ở. Từ ngày qua vọng về, tiếng hát đó đã khéo nói được những tâm
tình đang dạt dào trong thì hiện tại...
5. Đoạn thơ: “Nhớ khi giặc đến giặc lùng” đến “Vui lên Việt Bắc,đèo De,
núi Hồng”
a. Việt Bắc được viết ra sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã hoàn toàn
thắng lợi. Có lẽ trong ý đồ sáng
tạo, Tố Hữu muốn nó phải trở thành “bản tổng kết lịch sử” một thời kỳ (điều
này đã được đề cập ở trên).
Thật tự nhiên khi ta bắt gặp ở đây những đoạn miêu tả hết sức sống động về
các giai đoạn khác nhau của cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, anh dũng.

b. Trong muôn vàn nỗi nhớ người cán bộ về xuôi sao có thể quên những kỉ
niệm về cuộc kháng chiến dân tộc trong những ngày đầu gian nan
" Nhớ khi giặc đến giặc lùng"
- Nỗi nhớ được chạm khắc vào thời điểm ác liệt, cam go nhất của cuộc chiến
tranh, đó là thời kì giặc tới, giặc đốt phá và bắn giết những người đồng bào
ta, không một miền đất nào là không có bóng giặc và cũng không một miền
đất nào không có sự đau thương.
- Chính trong thời điểm ác liệt ấy nhà thơ mới cảm nhận sâu sắc hơn bao giờ
hết về sức mạnh của dân tộc,


cả dân tộc cùng đứng lên đánh giặc: " Rừng cây .... Rừng che....Đất trời ta cả
chiến khu..."
Bằng nghệ thuật nhân hóa núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên như có linh hồn,
có trái tim yêu nước như một người chiến sĩ thì thiên nhiên ấy nghĩa tình biết
bao đối với bộ đội, mở rộng vòng tay sông núi chở che. Đối với kẻ thù thiên
nhiên trở thành chiến lũy thép để "giăng", "vây" chặn đứng bước chân của
kẻ thù.
=> thế đất quan hòa hiểm trở, mảnh đất địa linh quý báu góp một phần sức
mạnh vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
- Với sức mạnh ấy từng bước cuộc kháng chiến của dân tộc ta vượt qua
những chặng đường nước sôi lửa bỏng "Ai về có nhớ ai ......Ta về ta nhớ....
nhớ ... Nhớ ... Nhị Hà "
- Nhớ về cuộc kháng chiến là nhớ về những trận đánh của dân tộc nhà thơ
chỉ gợi lên bằng một câu hỏi tu
từ:"ai về..?"
- Điệp từ "nhớ" cứ lặp lại 5 lần như một điệp khúc điệp trùng về nỗi nhớ
đang trào dâng trong trái tim nhà thơ, những nỗi nhớ cứ trở đi trở lại trong
không bao giớ có thể quên được. Dường như nỗi nhớ ngập tràn trong lòng
nhà thơ về những kỷ niệm đầy ắp , những trận đánh với chiến công chói lọi,

rồi cả những địa danh gắn với kỷ niệm kháng chiến cứ nhấn lên một giai
điệu trong khúc ca chiến trận hào hùng.
=> Trên nẻo đường nào kháng chiến cũng có cái đáng nhớ trải dài, lan tỏa,
mênh mông. Nỗi nhớ luôn gắn với những miền địa danh, địa điểm nối tiếp
nhau như những trang kí sự chiến trường đã trở thành những
mốc sơn chói lọi trong chiều dài lịch sử dân tộc.
c. Đoạn nằm gần cuối phần một của bài thơ, từ dòng: “Những đường Việt
Bắc của ta...” đến “Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” tập trung tái hiện
không khí hào hùng của cuộc kháng chiến lúc “sức ta đã mạnh, người ta đã
đông”. Giọng điệu dìu dặt, thiết tha ở những đoạn thơ trước đến đây đã đổi
thành giọng điệu rắn rỏi, gân guốc, đầy hưng phấn. Tài năng tạo dựng những
bối cảnh lớn của Tố Hữu cũng được bộc lộ một cách hết sức rõ nét tại điểm
này.
Trong tám dòng đầu, nhà thơ vẽ lại vô cùng linh hoạt hình ảnh những đêm
Việt Bắc trong mùa chiến dịch:
“Những đường Việt Bắc của ta
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ duốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nhìn đêm thăm thẳm sương dày


Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Tại sao lại đêm? Cần nhớ lại hoàn cảnh cuộc kháng chiến khi đó: ban ngày
máy bay địch hoành hành đánh phá nhưng ban đêm thì chúng đành bất lực,
nhường lại ưu thế cho chúng ta. Màn đêm bao la đã trở
thành bạn đồng minh tin cậy của những người kháng chiến. Không phải
ngẫu nhiên mà thơ chống Pháp 1946-1954 nói nhiều về đêm: Những đêm
dài hành quân nung nấu (Nguyễn Đình Thi), Đêm buông xuống dòng sông

Đuống (Hoàng Cầm)... Trong cảnh sống bình thường, đêm là lúc vạn vật say
chìm trong giấc ngủ, là thời điểm nghỉ ngơi yên tĩnh. Nhưng trong thời chiến
tranh, đêm thường là điểm khởi đầu của những hoạt động chuẩn bị cho ngày
mai thắng lợi.
Hai từ của ta nằm cuối dòng đầu rất có ý nghĩa. Chúng thể hiện rõ ý thức
làm chủ của người kháng chiến đối với đất nước mình cũng như niềm tự hào
về sự bất khả xâm phạm của vùng căn cứ địa. Đây cũng là một ý thức và
niềm tự hào từng được thể hiện khá sâu trong thơ ca kháng chiến nói chung.
Như để minh họa thêm cho hai từ của ta, nhà thơ kể lại khí thế bừng bừng
trên những con đường hướng về các nơi sẽ diễn ra các trận đánh lớn. Ở đó ta
thấy những dòng người vô tận, có bộ đội, có dân công, có súng đạn, có gánh
gồng, có đuốc sáng, có ánh đèn pha... Các từ tượng thanh và tượng hình như
rầm rập, điệp điệp, trùng trùng được đưa vào rất đắt, diễn tả hết sức chính
xác không khí tự tin, hồ hởi bao trùm cả dòng người và sức mạnh cuộn trào
như thác lũ của quân ta. Sự so sánh tiếng chân đi rầm rập như tiếng đất rung
có tác dụng tô đậm qui mô và tầm vóc lớn lao của những sự kiện đang diễn
ra. Ta tưởng như nơiđây đang xảy ra một cơn địa chấn mạnh. Cần nói thêm
rằng nhờ so sánh này, tác giả còn diễn tả được rất hay về sự thống nhất, cộng
hưởng giữa con người và thiên nhiên, trời đất trong một thời điểm lịch sử vô
cùng oanh liệt.
Bên cạnh những nét vẽ trải ra theo chiều rộng, trong bức tranh thơ này cũng
có những nét vẽ phát triển theo chiều cao. Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ
nan là một “nét vẽ” như thế. Ánh sao trước hết là một hình ảnh tả thực gợi
bối cảnh đêm Việt Bắc ra trận, nhưng nó còn là hình ảnh thấm đẫm tính
tượng trưng. Ta có thể hiểuánh sao như ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của
lý tưởng soi đường, dẫn lối cho ta hành động. Ba sự vật ánh sao, mũi súng,
mũ nan hợp thành một hình tượng đẹp, khoẻ khoắn, vững chãi về mặt tạo
hình, đã cho thấy tính chất cao cả của cuộc kháng chiến cũng như tinh thần
lãng mạn chưa bao giờ thiếu trong đời sống chúng ta. Khi viết câu thơ này,
hẳn Tố Hữu đã nhớ tới câu thơ Đầu súng trăng treo mà Chính Hữu viết trước

đó vào năm 1948 trong bài Đồng chí.
Tuy mô tả cảnh ban đêm nhưng bức tranh thơ của Tố Hữu vẫn đầy ắp các
chi tiết nói về ánh sáng. Bên cạnh ánh sáng của sao trời là ánh sáng của lửa


đuốc, của đèn pha, của muôn tàn lửa bay. Hai câu thơ “Dân công đỏ đuốc
từng đoàn - Bước chân nát đá”, muôn tàn lửa bay vẽ ra một cảnh tượng rực
rỡ và hừng hực khí thế bằng những nét bút gân guốc, mạnh mẽ. Lửa dưới đất
và sao trên trời như hoà cùng giọng ca trong một dàn đại hợp xướng hùng
tráng. Cách nói thậm xưng bước chân nát đá đã diễn tả rất có ấn tượng sức
mạnh đạp bằng mọi gian khó của những đoàn người đi chiến dịch. Với bước
chân ấy của họ, núi rừng như bừng thức. Màn sương dày thăm thẳm tưởng
vùi sâu Việt Bắc trong sự lặng lẽ, u tịch bỗng bị xé rách bởi ánh đèn pha
sáng quắc. Nhìn ánh đèn pha, những người kháng chiến tưởng như thấy
chiến thắng đã gần kề trước mặt. Sự so sánh trong câu Đèn pha bật sáng như
ngày mai lên thoạt nhìn có vẻ cường điệu. Xét đến cùng, phải so sánh như
thế nhà thơ mới nói hết được niềm phấn chấn tràn ngập lòng người trước sự
lớn mạnh vượt bậc của quân ta lúc cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn
cuối cùng.
Bốn dòng cuối của đoạn thơ nói tới những tin thắng trận dồn dập đổ về Việt
Bắc từ khắp các chiến trường trong cả nước:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Những cụm từ vui về, vui từ, vui lên vừa tạo được không khí phấn chấn, rộn
ràng, tíu tít lại vừa diễn tả được ý: Việt Bắc chính là đầu não của cuộc kháng
chiến và niềm vui khắp nơi dồn tụ về đó để rồi từ đó lại toả đi trăm ngả.
Rất đáng chú ý trong đoạn thơ này là sự xuất hiện của hàng loạt địa danh.
Nền thơ kháng chiến của chúng ta có không ít bài cho thấy tài năng của các

tác giả khi đưa địa danh vào thơ, chẳng hạn bài Tây Tiến của Quang Dũng,
bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Cách đưa địa danh vào thơ của Tố
Hữu có phần khác với một số nhà thơ khác. Nếu Quang Dũng chú ý tới
những tên đất có thể gợi ấn tượng về một cái gì hung hiểm, hoang sơ, kì bí
và Hoàng Cầm chú ý tới những tên đất có thể gợi lên những sắc màu truyền
thống thì Tố Hữu lại quan tâm tới những địa danh lừng lẫy chiến công mà
tên gọi của chúng luôn làm nức lòng người. Có thể nói ít khi những từ chỉ
tên đầy tính chất hành chính lại chan chứa chất thơ và vang vọng như thế.
Nhìn chung, đoạn thơ vừa tìm hiểu trên đậm đà tính chất sử ca và thể hiện
rất rõ khả năng tạo dựng những bức tranh hoành tráng về cách mạng của Tố
Hữu. Đọc nó, ta tưởng như được sống lại thực sự với không khí của một thời
đã qua - cái thời của những sự tích lớn và niềm tin lớn.
III, Tư Liệu Đọc Thêm:
Tự bạch của nhà thơ Tố Hữu:


Thơ tôi thuộc loại “trần trụi”, nghĩ sao nói thế, không có gì “bay bướm”.
Cũng không có gì “bí hiểm”. Tuy vậy cũng không phải là không có gì đằng
sau những câu chữ... Tôi muốn thơ phải đọng lại một cái gì, phải thật là gan
ruột của mình, thật là một “lời nhắn gửi”. Thể thơ lục bát truyền thống của
Việt Nam ta có nhiều ưu thế về cấu trúc, về âm thanh, vừa có sức gợi cảm,
vừa dễ nghe, dễ nhớ, dễ thuộc, lại thích hợp với cả trí thức lẫn người ít học
nên tôi hay dùng... Thể lục bát tưởng như dễ làm, thật ra lại dễ rơi vào tầm
thường, vô duyên. Phải biết “chuyển hóa” thế nào cho phong phú, luôn luôn
mới về mọi mặt giống như dùng hai cánh tay có vẻ đơn giản ấy thế nào để
thành những điệu múa đẹp không bao giờ chán. Người làm thơ lại cần biết
sử dụng nhiều thể thơ và cần kết hợp hoặc sáng tạo hoàn toàn mới. Thơ có
ưu thế dễ nhớ vì thơ có tiết tấu, có vần điệu. Vần là một sáng tạo tuyệt vời
của nghệ thuật thơ...
Theo tôi, vần chính là một điểm huyệt nhạy cảm, nếu biết “bấm” đúng thì có

hiệu quả lớn cho sự truyền cảm. Cứ đọc Truyện Kiều thì thấy Nguyễn Du
gieo vần đắt thế nào.



×