Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nghiên cứu một số mô hình thương mại điện tử và ứng dụng cho công ty TNHH laptop 4g

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 10 trang )

                                         

MỤC LỤC

LỜI NÓI MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
             Sau một thời gian tìm hiểu về công ty TNHH LAPTOP 4G em nhận thấy 
trong quá trình kinh doanh  công ty vẫn còn kinh doanh theo phương thức truyền  
thống,chưa phát huy được điểm mạnh của công ty và công ty bán hàng theo hình 
thức là khách hàng có nhu cầu phải đến tận nơi của cửa hàng để lựa chọn chưa có 
đội ngũ chăm sóc khách hàng,những hình  ảnh quảng cáo banners bang jon còn hạn 
chế.
                   Chính vì thế, với mong muốn đưa ra những đề  xuất  như  xây dựng một 
website riêng cho công ty áp dụng marketing thương mại điện tử  đưa ra các chiến  
lược kinh doanh để  giúp công ty hoạt động tốt cũng như việc áp dụng kiến thức lý  
thuyết của mình vào thực tiễn, em quyết định chọn tên đề  tài là: “Nghiên cứu một 
số mô hình thương mại điện tử và ứng dụng cho công ty TNHH LAPTOP 4G
  2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
       ­ Đê tai nhăm nghiên c
̀ ̀
̀
ứu tông quan vê th
̉
̀ ương mai điên t
̣
̣ ử,và  một số mô hình 
thương mại điện tử  nắm được một số  mô hình thương mại điện tử,nắm được  
ngôn ngữ  lập trình và đặc biệt là  ứng dụng một số  mô hình thương mại điện tử 


như B2C cho công ty TNHH LAPTOP 4G.  
­ Đê tai giup năm v
̀ ̀ ́ ́ ững ngôn ngữ lâp trinh 
̣
̀ Joomla va Hê quan tri CSDL My SQL.
̀ ̣
̉
̣
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
         ­Đối tượng : Đề tài tập trung nghiên cứu một số mô hình thương mại điện tử 
và ứng dụng cho Công ty trách nhiệm hữu hạng laptop 4g.
­Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tổng quan về thương mại điện tử, ứng 
dụng mô hình thương mại điện tử B2C cho công ty trách nhiệm hữu hạng laptop 4g.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài.
          ­Việc  ứng dụng mô hình  B2c cho công ty TNHH LAPTOP 4G có ý nghĩa rất 
to lớn cho sự phát triển của công ty giữa doanh nghiệp với Khách hàng là hình thức 
thương mại điện tử  giao dịch giữa công ty và người tiêu dùng ,góp phấn giảm chi 
nâng cao hiệu quả  kinh doanh của công thông qua giao dịch trực tuyến tiết kiệm  

1


                                         

thời gian và chi phí cho khách hàng từ  đó góp phần thúc đẩy sự  phát triển của 
thương mại điện tử
           ­Bố cục đề tài thực tập cơ sở gồm 3 phần : phần mở đầu,phần kết luận,và 
phần nội dung bố cục như sau:
Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử và một số mô hình thương mại  
điện tử.         

Chương 2: Phân tích thiết kế hệ thống.   
Chương 3: Chương trình thực nghiệm ( y dựng một website bán máy tính,giới 
thiệu hàng hóa..)

2


                                         

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ MỘT SỐ MÔ HÌNH 
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1.Khái niệm thương mại điện tử.
                   Thương mại điện tử  (còn gọi là  thị  trường điện tử,  thị  trường  ảo,  E 
Commerce hay E Business) là quy trình mua bán  ảo thông qua việc truyền dữ liệu 
giữa các máy tính trong chính sách phân phối của tiếp thị. Tại đây một mối  quan hệ 
thương mại hay dịch vụ  trực   tiếp giữa người cung cấp và khách hàng  được tiến 
hành thông qua Internet.
1.1.1.Hiểu theo nghĩa hẹp.
          Theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử chỉ đơn thuần bó hẹp thương mại điện  
tử trong việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử,là qua  
Internet và các mạng liên thông khác.
          Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), "Thương mại điện tử bao gồm 
việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh 
toán trên mạng Internet,    nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả  các sản 
phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng Internet". 
           Theo Uỷ ban Thương mại điện tử của Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á­Thái 
Bình Dương (APEC), "Thương mại điện tử là công việc kinh doanh được tiến hành 
thông qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số".
1.1.2.Hiểu theo nghĩa rộng.

         Thương mại điện tử hiểu theo nghĩa rộng là các giao dịch tài chính và thương 
mại bằng phương tiện điện tử  như: trao đổi dữ  liệu điện tử, chuyển tiền điện tử 
và các hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng.
          Theo quan điểm này, có hai định nghĩa khái quát được đầy đủ  nhất phạm vi 
hoạt động của Thương mại điện tử:
                  Luật mẫu về  Thương mại điện tử  của Uỷ  ban Liên hợp quốc về  Luật  
Thương mại quốc tế (UNCITRAL) định nghĩa: "Thuật ngữ thương mại [commerce] 
cần được diễn giải theo nghĩa rộng để  bao quát các vấn đề  phát sinh từ  mọi quan 
hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính 
thương mại [commercial] bao gồm, nhưng không chỉ  bao gồm, các giao  dịch sau 
đây: bất cứ  giao dịch nào về  cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả 
thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, uỷ  thác hoa  hồng  (factoring), 
cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư  vấn,   kỹ  thuật công trình 
3


                                         

(engineering); đầu tư; cấp vốn, ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc tô 
nhượng,  liên doanh và  các  hình thức  về   hợp tác  công  nghiệp  hoặc  kinh  doanh; 
chuyên chở  hàng hoá hay hành khách bằng đường  biển, đường không, đường sắt 
hoặc đường bộ".
       Theo định nghĩa này, có thể thấy phạm vi hoạt động của thương mại điện tử 
rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó hoạt độngmua 
bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong thương mại điện tử.
 
        Theo Uỷ ban châu Âu: "Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt  
động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền  dữ 
liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh".
          Thương mại điện tử trong định nghĩa này gồm nhiều hành vi trong đó: hoạt 

động mua bán hàng hoá; dịch vụ; giao nhận các nội dung kỹ  thuật số  trên mạng 
chuyển tiền điện tử; mua bán cổ  phiếu điện tử, vận đơn điện tử; đấu giá thương 
mại; hợp tác thiết kế; tài nguyên trên mạng; mua sắm công cộng; tiếp thị  trực  tiếp 
với người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng; đối với thương mại hàng hoá (như 
hàng tiêu dùng, thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (như dịch vụ cung 
cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền  thống (như chăm sóc 
sức khoẻ, giáo dục) và các hoạt động mới (như siêu thị ảo)
             Theo quan điểm thứ hai nêu trên, "thương mại" (commerce) trong "thương  
mại điện tử" không chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ (trade) theo các hiểu thông 
thường, mà bao quát một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, do đó việc áp dụng thương 
mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của hầu hết nền kinh tế.
              Theo ước tính đến nay, thương mại điện tử có tới trên 1.300 lĩnh vực ứng 
dụng,
trong đó, buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực ứng dụng.
1.2 Những đặc trưng của TMDT.
            Các điểm đặc biệt của thương mại điện tử so với các kênh phân phối truyền 
thống là tính linh hoạt cao độ  về  mặt cung  ứng và giảm thiểu lớn phí tổn vận tải  
với các đối tác kinh doanh. Các phí tổn khác thí dụ như phí tổn điện thoại và đi lại 
để thu nhập khác hàng hay phí tổn trình bày giới thiệu cũng được giảm xuống. Mặc 
dầu vậy, tại các dịch vụ  vật chất cụ  thể, khoảng cách không gian  vẫn còn phải 
được khắc phục và vì thế đòi hỏi một khả năng tiếp vận phù hợp nhất định. 
             Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không tiếp xúc trực 
tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước
4


                                         

               Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ nhau trực tiếp để 
tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ  yếu theo nguyên tắc vật  lý 

như: Chuyển tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo..Các phương tiện viễn thông 
như: fax, telex.. chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh.
              Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền  
thống chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của một giao  
dịch. Từ  khi xuất hiện  trên mạng máy tính mở  toàn cầu Internet thì việc trao đổi 
thông tin không chỉ giới hạn trong quan hệ giữa các công ty và doanh nghiệp mà các  
hoạt động thương mại đa dạng đã mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới 
với số lượng tham gia ngày càng tăng. Những người tham gia là cá nhân hoặc  doanh 
nghiệp, có thể đã biết, hoặc hoàn toàn chưa biết bao giờ.
              Trong nên kinh tế số, thông tin được số hóa thành các byte, lưu giữ trong  
các máy tính và truyền qua mạng với tốc độ  ánh sáng. Điều này tạo ra những khả 
năng hoàn toàn mới làm thay đổi thói quen tiêu dùng và mua bán của con người mà 
trong đó, người bán (mua) hàng có thể  giao dịch với đối tác  ở  bất kỳ  đâu  trên thế 
giới mà không cần qua khâu trung gian hỗ trợ của bất kỳ công ty thương mại nào. 
Thương mại điện tử cho phép mọi người cùng tham  gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh 
đến các khu vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọingười ở khắp mọi nơi đều 
có cơ  hội ngang nhau tham gia vào thị  trường giao dịch toàn cầu và không đòi hỏi 
nhất thiết phải có mối quen biết lẫn nhau.
            Thương mại điện tử được thực hiện trong một thị trường không có biên giới  
(thị trường toàn cầu) và tác động trực tiếp đến môi trường cạnh tranh toàn cầu.
             Thương mại điện tử ngày càng phát triển, thì máy tính cá nhân ngày càng trở 
thành cửa sổ cho doanh nghiệp hướng ra thị trường khắp nơi trên thế giới.không chỉ 
các công ty hàng đầu thế giới mới có thể  tiếp cận những thị trường  mới, mà ngay 
cả  một công ty vừa khởi sự  cũng có một mạng lưới tiêu thụ  và   phân phối không 
biên giới ngay đầu ngón tay của mình. Với thương mại điện tử, một doanh nhân dù 
mới thành lập đã hoàn toàn có thể  kinh doanh  ở Nhật Bản, Đức, Chilê…mà không 
phải đi ra nước ngoài. 
             Trong hoạt động thương mại điện tử đều có sự tham gia của ít nhất ba chủ 
thể, trong đó một chủ thể chủ chốt đó là người cung cấp dịch vụ mạng, các cơ 
chứng thực.

             Trong thương mại điện tử, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch 
giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là 

5


                                         

nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực…Là những người tạo môi 
trường cho các giao dịch thuơng mại điện tử. 
            Nhà cung cấp dịch vụ mạng và các cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển  
đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử, đồng 
thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch thương mại điện 
tử. Đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính là thị trường.
            Thông qua thương mại điện tử, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình  
thành. Ví dụ: Các dịch vụ  giá trị  gia tăng trên mạng máy tính hình thành trên  các 
trung gian  ảo làm các dịch vụ  môi giới, trọng tài cho giới kinh doanh và tiêu  dùng, 
các siêu thị   ảo được hình thành để  cung cấp hàng hóa và dịch vụ  trên  mạng máy 
tính.
             Theo một số chuyên gia về kinh doanh trên mạng, chính những tính năng để 
sử  dụng và hình thức vui mắt, dễ  hiểu của các trang Web dành cho Thương mại 
điện tử là những yếu tố quyết định trong việc thu hút khách hàng.
             Các trang Web khá nổi tiếng như Yahoo! American online hay Alta Vista..  
đóng vai trò như các trang Web gốc khác với vô số thông tin. Các trang Web này đã 
trở thành các “khu chợ” khổng lồ trên internet. Với mỗi lần nhấn chuột,khách hàng 
có khả năng truy cập vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào 
thăm rồi mua hàng là rất cao.
                           Tính tiện lợi và dễ  sử  dụng luôn được khách hàng quan tâm. Tuy 
nhiên,trong thời gian tới khi các công ty kinh doanh trên mạng cạnh tranh khốc liệt 
hơn và cố gắng thu hút khách hàng nhất thì sự phát triển cũng sẽ không kém so với 

thị trường thực tế.
                 Tóm lại, trong thương mại điện tử  bản chất của thông tin không thay  
đổi,thương mại điện tử chỉ biến đổi cách thức khởi tạo, trao đổi bảo quản và xử lý 
thông tin, hoàn toàn không thay đổi những chức năng cơ  bản của thông tin đối với 
các bên tham gia truyền thống của hợp đồng.
1.3. Một số mô hình thương mại điện tử.
Thương mại điện tử có thể được phân loại theo tính cách của người tham gia:
Người tiêu dùng:
­ C2C (Consumer­To­Comsumer) Người tiêu dùng với người tiêu dùng
­ C2B (Consumer­To­Business) Người tiêu dùng với doanh nghiệp
­ C2G (Consumer­To­Government) Người tiêu dùng với chính phủ
Doanh nghiệp:

6


                                         

­B2C (Business­To­Consumer) Doanh nghiệp với người tiêu dùng
­B2B (Business­To­Business) Doanh nghiệp với doanh nghiệp
­B2G (Business­To­Government) Doanh nghiệp với chính phủ
­B2E (Business­To­Employee) Doanh nghiệp với nhân viên
Chính phủ:
­ G2C (Government­To­Consumer) Chính phủ với người tiêu dùng
­ G2B (Government­To­Business) Chính phủ với doanh nghiệp
­ G2G (Government­To­Government) Chính phủ với chính phủ
            Tùy thuộc vào đối tác kinh doanh người ta gọi đó là thị  trường B2B, B2C,  
C2B hay C2C. Thị trường mở là những thị trường mà tất cả mọi người có thể đăng 
ký và tham gia. Tại một thị  trường đóng chỉ  có một số  thành viên nhất  định được 
mời hay cho phép tham gia. Một thị trường ngang tập trung vào một quy trình kinh 

doanh riêng lẻ  nhất định, thí dụ  như  cung cấp: nhiều doanh  nghiệp có thể  từ  các 
ngành khác nhau tham gia như là người mua và liên hệ với  một nhóm nhà cung cấp. 
Ngược lại, thị trường dọc mô phỏng nhiều quy trình kinh doanh khác nhau của một 
ngành duy nhất hay một nhóm người dùng duy nhất.
                         Ngày nay công nghệ  thực hiện một thị  trường điện tử  đã rẻ  đi rất  
nhiều.Thêm vào đó là xu hướng kết nối nhiều thông tin chào hàng khác nhau thông  
qua các giao diện lập trình ứng dụng để thành lập một thị trường chung có mật độ 
chào hàng cao. Ngoài ra các thị  trường độc lập trước đây còn được tích hợp  ngày 
càng nhiều bằng các giải pháp phần mềm cho một cổng Web toàn diện.
              Căn cứ vào tính chất của thị trường và khách hàng, người ta thường đề cập  
đế 2 loại hình Thương mại điện tửc hinh.
                B2B (Business ­ To ­ Business): thương mại điện tử B2B chỉ bao gồm các
giao dịch thương mại trên Internet mà trong đó, đối tượng khách hàng của loại
hình này là các doanh nghiệp mua 

hàng.

                  B2C (Business ­ To ­ Customer): Thương mại điện tử  B2C là chỉ  bao
gồm các giao dịch thương mại trên Internet giữa doanh nghiệp với khách hàng,
mà trong đó, đối tượng khách hàng của loại hình này là các cá nhân mua hàng.
Loại  hình này  áp  dụng  cho  bất kỳ   doanh nghiệp  hay  tổ  chức   nào  bán các   sản
phẩm hoặc dịch vụ  của họ  cho khách hàng qua Internet, phục vụ  cho nhu cầu sử
dụng của cá nhân
Vậy điểm khác biệt giữa Thương mại điện tử B2B và B2C là gì?
 Điều thứ nhất là sự khác nhau về khách hàng:

7


                                         


              Khách hàng của các giao dịch B2B (giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh  
nghiệp) là các công ty còn khách hàng của B2C là các cá nhân. Tuy nhiên cần  phải 
xem xét chữ  C trong B2C là người tiêu dùng cuối cùng (End­user). Nghĩa là C còn 
bao gồm cả những doanh nghiệp mua sắm hàng hóa về để tiêu dùng.
                Chẳng hạn như doanh nghiệp mua bàn ghế  phục vụ  cho công việc văn 
phòng. Xét về tổng thể, các giao dịch B2B phức tạp hơn và đòi hỏi tính an toàn cao 
hơn.
               Khác biệt về đàm phán, giao dịch:
               Việc bán hàng cho các doanh nghiệp (B2B) phải bao gồm cả các yếu tố 
như đàm phán về giá cả, việc giao nhận hàng và xác định quy cách, các đặc tính kỹ 
thuật của sản phẩm. Bán hàng cho người tiêu dùng (B2C) không nhất thiết phải  bao 
gồm tất cả  các yếu tố  như  vậy. Điều này khiến cho các nhà bán lẻ  dễ  dàng hơn 
trong việc đưa lên mạng catalog sản phẩm dịch vụ của họ để mở một siêu  thị trực 
tuyến. Đó cũng chính là lý do tại sao những  ứng dụng Thương mại điện  tử  B2B 
đầu tiên được phát triển chỉ cho những hàng hóa và sản phẩm hoàn  chỉnh, đơn giản 
trong khâu mô tả đặc tính và định giá.
                Khác biệt về vấn đề tích hợp:
               Các công ty trong Thương mại điện tử B2C không phải tích hợp hệ thống 
của họ  với hệ  thống của khách hàng. Trái lại các công ty khi bán hàng cho các  
doanh nghiệp (B2B) cần phải đảm bảo rằng các hệ  thống của họ có thể  giao tiếp 
được với nhau mà không cần sự can thiệp trực tiếp của con người dẫn đến nhu  cầu 
phải tích hợp hệ thống của doanh nghiệp bán hàng và doanh nghiệp mua hàng
1.3. Những tác động của thương mại điện tử:
              Giao dịch thương mại qua các phương tiện điện tử, trong đó mọi dữ  liệu 
(kể cả chữ ký) đều ở dạng số hoá, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về tính bảo mật, an  
toàn, tránh mất tiền, lừa gạt, thay đổi thông tin, xâm nhập dữ liệu, v.v... là các  rủi ro 
ngày một lớn, không chỉ  với người buôn bán, mà cả  với người quản lý,  với từng 
quốc gia, vì các hệ  thống điện tử  có thể  bị  kẻ  xấu (thường gọi là  "hacker") xâm 
nhập, đòi hỏi phải có các hệ  thống bảo mật, an toàn được thiết kế trên cơ  sở  kỹ 

thuật mã hóa hiện đại, và một cơ  chế  an ninh hữu hiệu (nhất là đối  với các hệ 
thống có liên quan tới an ninh quốc gia). Ngoài ra, còn có nhu cầu  ngày càng tăng vì 
giữ gìn bí mật riêng tư. 
            Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện thực tế và có hiệu quả khi đã tồn  
tại  một hệ  thống thanh toán tài chính  ở  mức độ  phát triển đủ  cao, cho phép tiến  
8


                                         

hành thanh toán tự  động (trong đó "thẻ  thông minh") có vai trò đặc biệt quan trọng 
trong kinh doanh bán lẻ; khi chưa có hệ thống này, thì thương mại điện tử chỉ giới 
hạn trong khâu trao đổi tin tức, còn việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ vẫn phải kết 
thúc bằng trả tiền trực tiếp hoặc qua các phương tiện thanh toán truyền thông; hiệu 
quả  sẽ thấp, rất có thể  không đủ  bù đắp chi phí trang bị phương tiện thương mại 
điện tử.
             Mỗi một quốc gia, thương mại điện tử chỉ có thể tiến hành khi tính pháp lý  
của nó được thừa nhận (biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của  các 
giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chữ ký số hóa, các thanh toán điện tử, các  dữ liệu 
có xuất xứ  từ  các cơ  quan nhà nước, sở  hữu trí tuệ  hàm chứa trong thông  tin trên 
Website, bí mật đời tư, và bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin chống  tội phạm 
xâm nhập), và có các cơ  quan xác thực hoặc chứng nhận chữ  ký điện  tử, v.v...; 
Ngoài ra, còn đòi hỏi mọi doanh nghiệp, hàng hóa và dịch vụ  đều đã được mã hóa 
thống nhất; một hệ thống thuế thích hợp để  xử  lý các dữ  liệu và các dịch vụ  mua 
bán qua mạng; nói cách khác, đòi hỏi phải có một  môi trường. kinh tế đã tiêu chuẩn 
hóa ở  mức cao, với các khía cạnh của thương mại điện tử  được phản ánh đầy đủ 
trong quan hệ nội luật. Trên bình diện quốc tế, vấn đề môi trường pháp lý còn phức 
tạp hơn nữa, vì các trao đổi là xuyên quốc gia, đòi hỏi phải có sự  hài hòa giữa các 
hệ thống pháp luật và hệ thống chính trị khác nhau.
             Tác động văn hóa xã hội của thương mại điện tử  xuất hiện khi sử  dụng  

Internet làm công cụ giao tiếp, như khi tiến hành thương mại điện tử  qua biên giới 
(với nước khác), hoặc nếu trong một quốc gia nhưng sử dụng Iternet, Web làm công  
cụ  mạng. Internet có thể  trở  thành "hộp thư" giao dịch mua bán dâm, ma tuý, và 
buôn lậu; các lực lượng phản xã hội đưa lên Internet phim con heo, các tuyên truyền  
kích dục có mục đích đối với trẻ em, các hướng dẫn làm bom thư, làm chất nổ phá 
hoại, các loại tuyên truyền kích động bạo lực, phân biệt chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, 
v.v...; Internet cũng có thể  trở  thành một phương tiện thuận lợi cho các lực lượng 
chống đối sử dụng để tuyên truyền, kích động lật đổ
                Chính phủ và hoặc gây rối làm loạn trật tự xã hội; ngoài ra phải tính tới 
tác động về cuốn hút thanh niên theo các lối sống không phù hợp với bản sắc văn  
hoá dân tộc (nếu chỉ làm thương mại điện tử  trong nước, thông qua nối mạng các 
doanh nghiệp, sử  dụng mạng quốc gia, mà không dùng Internet, thì không cần tính 
tới tác động tiêu cực này; nhưng nếu không lợi dụng Internet làm công cụ giao tiếp 

9


                                         

chung, mà thiết lập các mạng riêng thì không có tính kinh tế, và việc làm thương  
mại điện tử với nước ngoài sẽ bị hạn chế).
                Thương mại điện tử bao trùm một phạm vị rộng lớn các hoạt động kinh 
tế  xã hội, và hạ  tầng cơ  sở của nó là một tổng hòa phức hợp của hàng chục mặt 
vấn đề; cho nên, tuyệt đối không nên nhìn nhận thương mại điện tử đơn thuần chỉ 
là   việc   dùng   phương   tiện   điện   tử   để   thực   hiện   các   hành   vi   buôn   bán   truyền 
thống,mà nên hiểu rằng một khi chấp nhận và áp dụng thương mại điện tử thì toàn 
bộ hình thái hoạt động của một đất nước sẽ thay đổi, cả hệ thống giáo dục, cả tập 
quán làm việc và sinh hoạt hàng ngày.
1.4.Tổng quan về ngôn ngữ lập trình
1.4.1.Giới thiệu mã nguồn mở Joomla.

           Joomla là một hệ quản trị nội dung mã nguồn mở CMS. Joomla! được viết 
bằng ngôn ngữ PHP và kết nối tới cơ sở dữ liệu MySQL. Bài hôm nay chúng ta sẽ 
tìm hiểu cơ  bản về  các khái niệm trong joomla, tạo tiền đề  cho một chuổi bài 
viết hướng dẫn về joomla sau này.
Front End:
           Là các trang Web mà mọi người sẽ được thấy khi truy cập vào Web Site của 
bạn. Phần này ngoài việc hiển thị nội dung của trang Web còn là nơi mọi người có 
thể đăng ký thành viên và tham gia quản lý, viết bài đăng trên trang Web.
Back­end:
            Là phần quản lý Web Site dành cho các Quản trị, chủ nhân của Web Site.  
Phần này bạn nào học thiết kế  web cũng phải biết qua, nó cho phép cấu hình các 
thông số  về  hoạt động, nội dung, hình thức và quản lý các thành phần, bộ  phận 
được tích hợp thêm cho Joomla! Phần back­end được truyậ thông 

qua 

đường dẫn:
 http://your_domain/administrator.

10



×