Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận cao học QUẢN lý báo CHÍ ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.92 KB, 21 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: QUẢN LÝ BÁO CHÍ
Đề tài: QUẢN LÝ BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


HÀ NỘI – 2014

2


MỞ ĐẦU
Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với kinh tế, nền báo chí cách mạng Việt
Nam đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Báo
chí đã bám sát đời sống xã hội, cung cấp những thông tin đa chiều, sâu sắc;
tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước hiệu quả. Vai trò
của báo chí ngày càng nâng cao trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong quá
trình đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Trước tình hình đó,
ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
đã ban hành Chỉ thị 22-CT/TW về việc tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh
đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Đây chính là động lực để kỳ họp thứ
5, Quốc hội khóa X thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Báo chí ngày 12-6-1999. Điều này cho thấy, Nhà nước ta đã thể hiện sự cố
gắng trong quá trình quản lý hoạt động báo chí phù hợp với điều kiện, tình
hình mới.
Tuy nhiên, khi mà sự phát triển không đi cùng với việc nâng cao năng
lực quản lý phù hợp đã làm cho hoạt động báo chí bộc lộ nhiều bất cập, thiếu
ổn định. Đó chính là xu hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ mục đích, …
Nhiều địa phương vì lý do này hoặc lý do khác đã gây cản trở hoạt động của
phóng viên, cung cấp thông tin sai lệch v.v . Trong khi đó, dưới góc độ Nhà
nước thì các công cụ quản lý về báo chí mà chủ yếu là pháp luật chưa hoàn
thiện, không phù hợp với thực tiễn phát triển sinh động trong lĩnh vực báo chí


thời gian gần đây.
Tất cả đã đặt ra nhu cầu cần phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng
cao hiệu quả quản lý Nhà nước cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn.
Không những vậy để làm rõ hơn những kiến thức trong môn học quản lý báo
chí, em chọn đề tài tiểu luận “Quản lý Báo chí ở Việt Nam hiện nay” để làm
rõ hơn vấn đề này.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BÁO CHÍ
1. Cơ sở khoa học, thực tiễn lãnh đạo, quản lý báo chí của Đảng và
nhà nước
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi
trọng trong tác thông tin tuyên truyền đường lối , quan điểm thông qua báo
chí: “ Báo chí luôn được coi là vũ khí tư tưởng rất quan trọng” là “ Công cụ
sắc bén trong công tác tư tưởng của Đảng” là
“ Lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa”…
Theo lý luận thì Đảng “ lãnh đạo” được hiểu là Đảng “ đề ra chủ chương,
đường lối và tổ chức, động viên” hệ thống chính trị và các tầng lớp quần
chúng nhân dân.
Đảng “ lãnh đạo đất nước bằng đường lối, nghị quyết, và thể chế hóa
đường lối, nghị quyết đó bằng pháp luật, chính sách, của nhà nước, vận động
tổ chức các quần chúng nhân dân thực hiện. Theo đó, Đảng lãnh đạo báo chí
là đề ra nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác báo chí , là định hướng kế
hoạch quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống báo chí, là định hướng nội
dung thông tin, tuyên truyền cua rbáo chí, lãnh đạo công tác tổ chức của Đảng
đối với dedang viên trong cơ quan báo chí, thể chế hóa đường lối, quan điểm
của Đảng về báo chí bằng pháp luật, chính sách của Nhà nước với hoạt động

báo chí.
Theo quan điểm của Chủ Nghĩa – Mác Lê Nin: Đảng phải lãnh đạo báo
chí , đó là nguyên tắc bất di bất dịch. Sự lãnh đạo của Đảng với báo chí gắn
liền với các nguyên tắc hoạt động của báo chí cách mạng.
Nhà nước là sản phẩm của một xã hội phát triển đến một gia đoạn nhất
định, nhà nước xuất hiện một cách khách quan. Theo C Mác, và Ph.Ăngghen,
nhà nước không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là
một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội,
4


có nhiệm vụ làm dịu bớt xung đột và giữ cho cho sự xung đột đó nằm trong
vòng trật tự. Nhà nước tồn tại để điều hòa các mối quan hệ mâu thuẫn nảy
sinh trong xã hội.
Khi nhà nước xuất hiện thì phần lớn các công việc quan trọng của xã hội
do nhà nước quản lý
Quản lý nhà nước bao gồm các hoạt động lập pháp, lập quy của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đề ra các chính sách , pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi của công dân liên quan đến báo chí và
hoạt động báo chí trong bộ máy hành chính, hoạt động điều hành của nhà
nước nhằm tổ chức, phối hợp các cơ quan trong hoạt động báo chí. Quản lý
nhà nước đối với báo chí còn bao gồm cả hoạt động kiểm tra, giám sát của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Nội dung quản lý
Cùng với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với báo chí, cần nâng
cao hơn nữa hiệu lực quản lý của nhà nước với lĩnh vực trọng yếu này.
Quản lý nhà nước với hoạt động báo chí được đặt ra ngay từ khi nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa ra đời. Nội dung quản lý được thể hiện qua
một số văn bản như: Sắc lệnh số 282 ngày 24 tháng 12 năm 1956 do chủ tịch
Hồ Chí Minh ký quy định chế độ hoạt động báo chí; quy định về những điều

báo chí không được thông tin; quy định thủ tục cấp phép và điều kiện hoạt
động của báo chí và lưu chiểu; quy định hình thức kỷ luật nếu báo chí vi
phạm. Ngày 20 tháng 5 năm 1957 Quốc hội đã thông qua sắc lệnh này làm
luật báo chí đầu tiên của chế độ ta. Từ đó đến nay cùng với sự phát triển của
cách mạng Việt Nam, hệ thống văn bản pháp luật về bao chí được bổ sung,
chỉnh sửa và từng bước hoàn thiện. Cuối thập niên tám mươi của thế kỷ trước,
Quốc hội ban hành Luật báo chí năm 1989, đến năm 1999 Quốc hội tiếp tục
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí năm 1999.
Theo đó điều 17 của Luật báo chí năm 1999 quy định nội dung quản lý
nhà nước về báo chí gồm:
5


Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển sự nghiệp báo chí; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về báo chí; tổ chức thông tin cho báo chí; quản lý thông tin của báo
chí; đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiẹp vụ, đạo đức nghề
nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí; tổ chức, quản lý hoạt động khoa học ,
công nghệ trong lĩnh vực báo chí; cấp, thu giấy phép hoạt động, thẻ nhà báo;
quản lý hợp tác quốc tế về báo chí ; quản lý hoạt động của báo chí Việt Nam
liên quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí nước ngoài tại Việt Nam;
kiểm tra báo chí lưu chiểu, quản lý kho lưu chiểu báo chí; tổ chức, chỉ đạo
công tác khen thưởng trong hoạt động báo chí; hướng dẫn thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện chế độ, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển, báo chí và
việc chấp hành pháp luật về báo chí , thi hành các biện pháp ngăn chặn hoạt
động báo chí trái pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong
hoạt động báo chí…
Quản lý nhà nước đối với hoạt động ở báo chí bao gồm:
Quản lý đối với người làm công tác báo chí, nhà báo , phóng viên báo chí
Quản lý đối với cơ quan chủ quản báo chí

Quản lý đối với cơ quan nhà nước về báo chí
Về việc cấp giấy phép hoạt động báo chí
Việc quản lý thông tin trên báo chí
Quản lý việc nộp lưu chiểu
Đối với công tác phát hành
Đối với công tác thanh tra
Đối với công tác khen thưởng và xử phạt

6


Chương II: QUẢN LÝ BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Theo quy định của Luật Báo chí năm 1999 (đã sửa đổi, bổ sung), cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí gồm: cơ quan quản lý nhà nước về báo
chí ở trung ương (Bộ Thông tin và truyền thông); các bộ, cơ quan ngang
bộ; cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương (UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương)
Quản lý nhà nước về báo chí ở Trung ương Thực hiện chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn được Luật Báo chí quy định, Bộ Thông tin và truyền thông
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí trên nhiều lĩnh vực, điển
hình là các lĩnh vực sau:
2.1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
và phát triển sự nghiệp báo chí
Thời gian qua, hoạt động này được Bộ Thông tin và truyền thông thực
hiện dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Thực hiện ý kiến chỉ
đạo của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ, “Bộ đã và đang tiếp tục tiến
hành rà soát chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí, xác định những ấn
phẩm chồng chéo về tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, không phù hợp
quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1999; trình Thủ
tướng Chính phủ ký ban hành “Chiến lược phát triển thông tin đến năm

2010”... xây dựng quy hoạch hệ thống báo chí in toàn quốc” . Tuy nhiên, việc
quy hoạch làm không đều, liên tục. Thêm nữa, công tác quản lý nhà nước về
báo chí còn “thiếu chủ động trong định hướng chiến lược; chạy theo vụ việc,
lúng túng trong quy hoạch, sắp xếp” . Thực tế hoạt động báo chí hiện nay vẫn
tồn tại hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu, nhất là tình trạng có nhiều tờ báo trùng
lắp về nội dung và thiếu ở chỗ nội dung một số mảng đề tài không được đề
cập đến, nhất là mảng đề tài về các ngành khoa học. Thừa, thiếu còn thể hiện
ở việc báo được xuất bản, phát hành phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở
thành thị, còn nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, nhân dân
7


có rất ít báo hoặc không có báo để đọc. “Nhiều cơ quan báo chí chỉ coi trọng
địa bàn thành phố, thị xã vì ở đó có thể phát hành được nhiều, còn các địa bàn
khác không được quan tâm đúng mức. Tình trạng đó dẫn đến mức hưởng thụ
sách báo quá chênh lệch giữa thành phố, thị xã và vùng nông thôn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa. Hiện nay, 75% báo chí chủ yếu phát hành ở thành phố, thị
xã, vùng trung tâm, còn 25% báo chí phát hành ở vùng nông thôn” ( Tổng kết
Công tác lãnh đạo quản lý báo chí năm 2011 – Bộ Thông tin và Truyền
Thông)
2.2. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về báo chí
Từ năm 1999 đến nay, Bộ Thông tin và truyền thông đã chủ trì, phối hợp
xây dựng và trình Chính phủ ký ban hành, tự ban hành hơn 30 văn bản quy
phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí. Cùng với Luật Báo chí, các văn bản
pháp luật này bước đầu phục vụ có hiệu quả công tác quản lý báo chí. Tuy
nhiên, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự thay đổi
nhanh chóng của đời sống thì nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật
này còn thiếu đồng bộ, việc sửa đổi, bổ sung chậm được tiến hành. Với chức
năng là cơ quan quản lý cấp trung ương, Bộ Thông tin và truyền thông chưa

kịp thời, chủ động trong việc tổ chức tập huấn triển khai nội dung các văn bản
pháp luật cho cán bộ quản lý của các sở; đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản
liên quan đến báo chí còn hạn chế (4).
2.3. Thanh tra, kiểm tra hoạt động báo chí
Hoạt động thanh tra, kiểm tra báo chí đang ngày càng đi vào nề nếp. “Từ
năm 1999 đến nay, Bộ đã tiếp nhận và giải quyết hơn 1.750 đơn thư khiếu
nại, tố cáo, phản ánh về những thông tin không chính xác trên báo chí do các
cá nhân, tổ chức trong cả nước gửi tới liên quan đến gần 1.000 vụ việc” (5).
Một số nhà báo lợi dụng uy tín nghề nghiệp làm trái với đạo đức, trách nhiệm
của người làm báo, vi phạm Luật Báo chí đã bị xử lý nghiêm bằng các hình
thức: cảnh cáo, tịch thu thẻ nhà báo, phê bình, khiển trách. Những người đứng
8


đầu cơ quan báo chí có người vi phạm, do buông lỏng quản lý cũng phải chịu
những hình thức kỷ luật đúng mức.
Lưu chiểu là một khâu quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí nhằm
thực hiện chức năng kiểm tra trước khi cho lưu hành nhưng hiện nay, vẫn có
một số tạp chí không thực hiện nộp lưu chiểu hoặc lưu chiểu không đúng thời
hạn theo quy định của pháp luật. Điều đó dẫn đến việc phát hiện chậm các vi
phạm, gây không ít khó khăn cho quá trình xử lý và để lại hậu quả phức tạp.
Hơn nữa, “khối lượng công việc phải xử lý trong công tác quản lý nhà nước
về báo chí ngày càng nhiều và phức tạp, trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lý
còn thiếu và yếu, một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của công tác
quản lý trong tình hình mới” (6).
2.4 Quản lý nhà nước về báo chí ở các bộ, cơ quan ngang bộ
Các bộ, cơ quan ngang bộ - với vai trò là cơ quan chủ quản báo chí - đã
có nhiều cố gắng trong công tác chỉ đạo, quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền
trong việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch hoạt động; đồng thời
tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đảm bảo các tiêu chuẩn về

chính trị, nghiệp vụ. Nhiều cơ quan chủ quản báo chí đã chủ động xây dựng
quy chế quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền, tạo điều kiện cho cơ quan báo
chí hoạt động đúng quy định, có sự rành mạch, thống nhất trong chỉ đạo, quản
lý và trong công tác phối hợp của cơ quan báo chí với các đơn vị liên quan
thuộc Bộ Thông tin và truyền thông.
Tuy nhiên trên thực tế, mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ quan
báo chí theo luật định chưa được thực hiện một cách rõ ràng, rành mạch.
Nhiều trường hợp cơ quan chủ quản buông lỏng vai trò, trách nhiệm của
mình. Một số cơ quan chủ quản không kiên quyết sáp nhập những tờ báo có
tôn chỉ, mục đích trùng lặp, hoặc không đình chỉ những cơ quan báo chí thiếu
các điều kiện đảm bảo cho tờ báo hoạt động bình thường, gây khó khăn cho
việc quy hoạch hệ thống báo chí cả nước… Tình trạng buông lỏng chỉ đạo,
quản lý của một số cơ quan chủ quản vẫn diễn ra. Không ít tờ báo xa rời tôn
9


chỉ mục đích, chạy theo mục đích thương mại, không chấp hành nghiêm túc
sự chỉ đạo, quản lý của cấp trên. Báo thuộc lĩnh vực này lại đưa tin về lĩnh
vực khác, nhiều khi những sự kiện lớn của ngành mình, lĩnh vực mình lại
phản ánh rất mờ nhạt, nhưng cơ quan chủ quản vẫn bỏ qua hoặc có nhắc nhở
nhưng cơ quan báo chí không thực hiện thì cũng không xử lý. Tiêu chuẩn,
quy trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí của nhiều cơ quan chủ quản thực
hiện không chặt chẽ. Không ít cơ quan chủ quản phó mặc cho cơ quan báo chí
tuyển chọn phóng viên, cộng tác viên, thu nhận cả những người không đủ tư
cách đạo đức, chuyên môn vào làm báo. Có cơ quan chủ quản sau khi xin ra
số phụ đã khoán trắng cả về nội dung lẫn kinh phí.
Vẫn còn hiện tượng cơ quan chủ quản bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí
không được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ. Một số cơ quan chủ quản báo chí
không thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm, miễn nhiện cán bộ, không gửi văn
bản thỏa thuận tới cơ quan quản lý nhà nước. Một số cơ quan xin thành lập cơ

quan báo chí khi chưa đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật như: điều
kiện về trụ sở, trang thiết bị, nguồn tài chính, tổ chức bộ máy, cán bộ...
Một số cơ quan báo chí chấp hành sự chỉ đạo không nghiêm túc, thường
xuyên vi phạm hoặc có những vi phạm nghiêm trọng, Bộ Thông tin và truyền
thông đã nhắc nhở, phê bình nhiều lần nhưng cơ quan chủ quản không tích
cực chấn chỉnh, xử lý kỷ luật; hoặc xử lý không nghiêm (7).
2.5 Quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương
Trong thời gian qua, các Sở Thông tin và truyền thông đã chú trọng thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương. Các Sở cũng chú
trọng công tác tham mưu cho Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương về quy hoạch báo chí; soạn thảo mới, cụ thể hóa, hướng dẫn
việc thực hiện các văn bản pháp quy về báo chí trên cơ sở nội dung của Luật
Báo chí và Nghị định 51/2002/NĐ-CP; thực hiện tốt chức năng quản lý hoạt
động của các Văn phòng đại diện và phóng viên thường trú của báo chí trung
ương và địa phương khác trên địa bàn…
10


Tuy nhiên, công tác quản lý báo chí ở địa phương còn những mặt hạn
chế. Nhiều địa phương chưa có bộ phận, thậm chí chưa có cán bộ chuyên
trách quản lý báo chí, xuất bản. Trong công tác quản lý hoạt động phát thanh,
truyền hình, Internet - lĩnh vực có tính đặc thù, đòi hỏi phải có kiến thức về
công nghệ, kỹ thuật - trình độ, năng lực của cán bộ quản lý ở một số địa
phương còn chưa đáp ứng được yêu cầu; đa số địa phương chưa có kinh phí
đầu tư trang thiết bị đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của công
tác quản lý. UBND và Sở Thông tin và truyền thông một số tỉnh, thành phố
chưa nhận thức hết vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý các đài phát thanh,
truyền hình thuộc quyền quản lý của mình. Một số địa phương, mặc dù có
nhiều cơ quan báo chí, nhưng cho đến nay vẫn không có tổ chức bộ máy hoặc
cán bộ chuyên trách giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

báo chí. Một số địa phương thực hiện việc xử lý vi phạm của cơ quan báo chí
không nghiêm, có nơi không thực hiện đúng thẩm quyền

11


CHƯƠNG 3 : YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
3.1. Yêu cầu quản lý nhà nước về báo chí
Hoạt động báo chí của nước ta trong điều kiện hiện nay chịu các tác
động: nhu cầu thông tin và được thông tin; sự phát triển nhanh về kỹ thuật và
công nghệ truyền thông; nền kinh tế theo cơ chế thị trường... Những tác động
trên đặt ra một số yêu cầu đối với quản lý nhà nước về báo chí như sau:
- Quản lý nhà nước về báo chí phải bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, có quyền được thông tin của công dân theo quy định tại Điều 69
của Hiến pháp năm 1992 và các văn bản luật có liên quan, nâng cao trách
nhiệm xã hội của báo chí, đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội tốt hơn.
- Quản lý về báo chí phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, quản lý của nhà nước và trong khuôn khổ của pháp luật.
- Phát triển báo chí phải đi đôi với quản lý chặt chẽ, có hiệu quả toàn bộ
hệ thống báo chí cũng như từng cơ quan báo chí. Thời kỳ mới đặt ra những
yêu cầu mới của hoạt động báo chí. Tuy nhiên, trước tác động của cơ chế thị
trường, mọi hoạt động của báo chí luôn đối mặt với nguy cơ tự phát. Do vậy,
lãnh đạo, quản lý báo chí phải đặc biệt quan tâm đến những đặc điểm của tình
hình mới, phòng ngừa và hạn chế tiêu cực. Bên cạnh đó, cũng cần đề phòng
khuynh hướng nhân danh sự lãnh đạo, quản lý để bóp nghẹt sức năng động,
sáng tạo của các cơ quan cũng như cá nhân nhà báo. Quản lý chặt chẽ chính là
điều kiện bảo đảm cho báo chí phát triển đúng quy hoạch, phù hợp quy mô, số
lượng, tránh lãng phí. Nhưng báo chí là một bộ phận thuộc lĩnh vực sáng tạo
văn hoá, tinh thần, rất cần những khoảng trống riêng như V.I.Lênin đã từng

nhấn mạnh. Do vậy, quản lý báo chí đòi hỏi phải vừa mềm dẻo, vừa nguyên
tắc mới có thể đạt hiệu quả mong muốn.
- Quản lý nhà nước về báo chí phải bắt kịp trình độ phát triển cao của
phương tiện kỹ thuật, công nghệ truyền thông hiện đại. Bản thân sự quản lý
phải chứa đựng hàm lượng công nghệ cao và đội ngũ cán bộ quản lý phải hiểu
12


và sử dụng được. Điều này kéo theo việc các văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành có khuôn khổ pháp lý phù hợp với nhiều yêu cầu, trong đó có
yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ truyền thông.
- Quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí phải phù hợp với cơ chế vận
hành trong điều kiện kinh tế thị trường. Pháp luật phải điều chỉnh kịp thời
những tác động của thị trường, quy luật cung cầu. Báo chí đáp ứng được nhu
cầu, thị hiếu của quần chúng nhưng điều đó không được dẫn đến khuynh
hướng thương mại hóa một cách tràn lan và sự lũng đoạn của đồng tiền đối
với báo chí. Nhu cầu thông tin và được thông tin cần có sự giao lưu quốc tế.
Sự giao lưu này ngày càng mở rộng, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên WTO. Pháp luật về báo chí phải phù hợp với các chuẩn mực
và cam kết mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí
Để góp phần khắc phục sự yếu kém về mặt quản lý nhà nước trong lĩnh
vực báo chí, chúng tôi xin nêu lên một số giải pháp sau:
3.2.1 Xây dựng quy hoạch phát triển báo chí phù hợp
Phương châm chỉ đạo quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt
động báo chí là “phát triển đi đôi với quản lý tốt”. Sự phát triển này không chỉ
đơn thuần là tăng về mặt số lượng mà còn bao gồm cả mở rộng quy mô, phạm
vi tác động và nâng cao chất lượng thông tin. Việc tiếp tục mở rộng quy mô
của báo chí trong phạm vi toàn xã hội là một yêu cầu tất yếu. Xã hội luôn phát
triển, dân trí ngày càng cao, nhu cầu thông tin, giao tiếp tăng lên. Chính thực

tiễn xã hội đòi hỏi mở rộng quy mô thông tin của từng cơ quan báo chí cũng
như sự ra đời của những tờ báo, bản tin, tạp chí, chương trình phát thanh,
truyền hình mới. Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô này phải phù hợp với quy
hoạch, chiến lược phát triển báo chí, tránh tình trạng chồng chéo, vay mượn
nội dung bài vở...
Hiện nay, chúng ta đã có Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010.
Tuy nhiên, hoạt động báo chí trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
13


trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và nhất là sự bùng nổ của
thông tin toàn cầu... đang đặt ra những yêu cầu mới về quy hoạch báo chí; đòi
hỏi chúng ta phải xây dựng chiến lược phát triển thông tin lâu dài cho đất
nước. Chiến lược này phải là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Chiến lược thông tin phải đánh giá được
thực trạng thông tin ở nước ta, đưa ra được các quan điểm chỉ đạo phát triển
thông tin và mục tiêu phát triển thông tin đến năm 2020 và những năm tiếp
theo, các giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu đó.
3.2.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí
Chất lượng, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
Vì vậy, yêu cầu về một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ trong
lĩnh vực báo chí là hết sức cần thiết.
Chúng ta cần thấu suốt quan điểm: điều chỉnh hoạt động báo chí thông
qua định hướng của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước, vừa bảo đảm
sự chặt chẽ trong quy định, chế tài, vừa bảo đảm sự thông thoáng cho nhà báo
và các cơ quan báo chí phát huy tính năng động, sáng tạo.
Qua 19 năm thi hành Luật Báo chí, một số điều quy định của Luật như
quy định về các loại hình báo chí, quảng cáo trên báo chí, lưu chiểu, cải chính
trên báo chí, tài chính báo chí... đến nay đã không còn phù hợp. Vì vậy, pháp

luật báo chí cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật báo chí cần hướng vào các nội dung
sau: Thứ nhất, cụ thể hoá, chi tiết hoá các điều khoản quy định. Thứ hai, xác
định rõ trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động báo chí. Thứ ba, rà
soát, bổ sung những vấn đề mới do thực tiễn và sự phát triển của báo chí đặt
ra. Thứ tư, bảo đảm quyền tự do báo chí của công dân.
3.2.3 Hoàn thiện chế độ chính sách và đầu tư thích hợp đối với lĩnh
vực báo chí

14


Chế độ, chính sách đối với lĩnh vực báo chí trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường là một vấn đề lớn cần được xem xét, giải quyết cả về lý luận
và thực tiễn. Thời gian qua, chúng ta đã có những bước chuyển biến nhất định
trong việc thực hiện chế độ chính sách mềm dẻo đối với báo chí. Tổng biên
tập được tự chịu trách nhiệm xây dựng giá báo phù hợp với giá thị trường, sức
tiêu thụ và yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị; các cơ quan báo chí chủ động
trả nhuận bút phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng, động viên tác giả
trong khuôn khổ quỹ nhuận bút quy định; khuyến khích mọi năng lực phát
hành báo chí, kể cả phát hành ra nước ngoài; cơ quan báo chí chủ động kêu
gọi các hình thức quảng cáo và tài trợ báo theo luật định... Tuy nhiên, các chế
độ, chính sách đối với báo chí vẫn còn lạc hậu, chưa theo kịp sự phát triển
hoạt động báo chí. Do vậy, cần khẩn trương rà soát để bổ sung, sửa đổi một
số chính sách, chế độ báo chí như: lương báo chí, thuế, nhuận bút, chính sách
tài trợ, giá, quảng cáo. Nhà nước cũng cần có kế hoạch khảo sát, nghiên cứu
các hình thức hoạt động kinh doanh của các cơ quan báo chí lớn để có chính
sách khuyến khích các hình thức kinh doanh phù hợp, tạo nguồn thu, tăng
cường cơ sở vật chất đồng thời thực hiện đúng nghĩa vụ với Nhà nước.
Hiện nay, Nhà nước vẫn đầu tư khá lớn cho báo chí với cơ cấu ngân sách

gồm: ngân sách nhà nước cho phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện tử.
Trong đó, phần đầu tư cho phát thanh, truyền hình là lớn nhất do các phương
tiện trang thiết bị ban đầu rất đắt tiền. Trong tương lai, phần đầu tư cho báo
điện tử cũng đòi hỏi lượng ngân sách khá lớn. Thực tế, đa số các báo, đài đều
hoạt động dựa vào ngân sách. Nhà nước vẫn nên cấp ngân sách nhưng cần
tính toán rõ các tiêu chí: mức trợ cấp, đối tượng, thời gian, trợ cấp không
hoàn lại hoặc cho vay ban đầu với lãi suất thấp... để báo chí hoạt động đúng
pháp luật, đúng định hướng, có hiệu quả. Tăng cường đầu tư cho các báo địa
phương vùng sâu, khó khăn; có chính sách để tăng cường xuất bản và phát
sóng thêm các đài bằng thứ tiếng của các dân tộc thiểu số để chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đến được với đồng bào các dân tộc. Tựu
15


chung lại, Nhà nước cần có chính sách tài chính quốc gia, huy động được các
nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động phát triển thông tin; có chính sách
và đầu tư thích hợp đối với hoạt động báo chí, đầu tư đủ, đúng trọng điểm đối
với những cơ quan báo chí xứng tầm, cần thiết.
Hoạt động báo chí là một nghề vất vả và nguy hiểm. Quyết định chất
lượng nội dung của một tờ báo là tổng biên tập và các nhà báo, vì vậy, Nhà
nước cũng phải tính đến chính sách, chế độ hợp lý đối với nhà báo. Chính
sách ưu đãi phải bảo đảm các điều kiện và phương tiện để các nhà báo hiểu
biết về chủ trương, chính sách, tiếp cận với thực tiễn; tạo điều kiện cho các
nhà báo hoạt động hiệu quả, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo trong quá trình
viết báo; đề cao trách nhiệm chính trị - xã hội; có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối
với những nhà báo tài năng, có cống hiến xuất sắc cho đất nước.
3.2.4 Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
báo chí
Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội khác nhau
nên có sự khác nhau trong hoạt động và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước

về báo chí. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập toàn cầu, hoạt động báo chí cần
phải đáp ứng yêu cầu thu hẹp sự khác biệt về công nghệ, trình độ nghiệp vụ....
với các nước trong khu vực và thế giới. Sự hợp tác quốc tế về quản lý báo chí
phải bảo đảm vừa phát triển quan hệ, nhanh chóng hội nhập vừa bảo đảm chủ
quyền, độc lập dân tộc, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Trước hết, cần tổ chức
thực hiện tốt các văn bản quốc tế quan trọng có liên quan như: Công ước toàn
cầu về Luật bản quyền, Công ước Brussels về phân phối các tín hiệu mang
chương trình truyền qua vệ tinh, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn
học và nghệ thuật... Chủ động xây dựng các kế hoạch khảo sát kinh nghiệm
quản lý báo chí ở một số nước trên thế giới; tham dự các hội nghị quốc tế liên
quan đến báo chí như: Diễn đàn xã hội thông tin, Diễn đàn Liên hiệp quốc về
quản lý Internet, các hội nghị Bộ trưởng Thông tin các nước ASEAN; tham
gia các hoạt động chống khủng bố, chống tệ nạn xã hội, xoá đói giảm nghèo,

16


vì môi trường sống, vì hoà bình và trực tiếp tham gia vào các tổ chức báo chí
khu vực và quốc tế vì các mục đích trên.
3.2.5 Nâng cao chất lượng và hiệu quả bộ máy quản lý
Thứ nhất, cần xây dựng các quy định cụ thể, rõ ràng nhằm điều chỉnh tốt
hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa Bộ Thông tin và truyền thông
với các bộ, ngành có liên quan.
Thứ hai, ở địa phương, cần xây dựng các quy định mới và cụ thể hơn để
tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước cũng như để nâng cao vai trò của các Sở
Thông tin và truyền thông.
Thứ ba, triển khai áp dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ quản lý
hiện đại vào hệ thống quản lý nhà nước về báo chí. Với một đội ngũ cán bộ,
nhân viên thiếu, trình độ có hạn, đầu việc nhiều thì đẩy nhanh việc áp dụng
công nghệ thông tin, phương pháp quản lý hiện đại vào hệ thống quản lý báo

chí là việc làm cấp thiết. Điều đó vừa tinh giản được biên chế theo chủ trương
chung của Đảng, Nhà nước, vừa quán xuyến công việc một cách có hiệu quả.
Ngoài ra, về cán bộ quản lý báo chí, pháp luật cần quy định hệ thống tiêu
chuẩn chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ phù hợp với thực tiễn, bảo đảm công
tác chuyên môn của từng đối tượng. Cán bộ quản lý báo chí phải có tri thức
báo chí, tri thức về khoa học công nghệ thông tin và quản lý, tri thức pháp
luật. Cần có những quy định cụ thể về tuyển dụng cán bộ, sắp xếp và bố trí
cán bộ. Có một tình trạng tuy không phổ biến nhưng cũng cần lưu ý là các cơ
quan cấp ủy và tổ chức cấp tỉnh coi ngành nào cũng giống ngành nào, “đã là
tỉnh ủy viên thì làm gì cũng được”. Do vậy, nhiều người làm trái nghề vẫn
phải nhận vì “tổ chức phân công”. Cuối cùng, Nhà nước cần có chính sách
đào tạo và đào tạo lại những người quản lý báo chí để theo kịp tốc độ phát
triển chung của xã hội và không tụt hậu quá xa so với các nước trong khu vực
và trên thế giới.
3.2.6 Hoàn thiện cơ chế quản lý
Hiện nay, việc tổ chức thực thi pháp luật báo chí của các cơ quan nhà
nước vẫn còn chồng chéo, chưa có sự thống nhất. Vì vậy, cần bổ sung các quy
định nhằm cải tiến phương thức, lề lối làm việc, cơ chế phối hợp thống nhất
17


giữa các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí. Cụ thể: xác định rõ các nguyên
tắc làm việc và quy chế phối hợp trong sự vận hành của bộ máy quản lý nhà
nước về báo chí; định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà
nước, cơ quan chỉ đạo, cơ quan chủ quản, người đứng đầu cơ quan báo chí.
Trước mắt là quy chế làm việc rõ ràng, cụ thể giữa Bộ Thông tin và truyền
thông với các ban ngành hữu quan liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí,
giữa cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương, cơ quan quản lý
và cơ quan chủ quản. Cơ chế này phải bảo đảm sự điều hành thống nhất, có
khả năng giải quyết nhanh và dứt điểm các vụ việc, đồng thời kiểm soát được

liên tục hoạt động báo chí, tránh hiện tượng đánh trống bỏ dùi, dễ làm khó bỏ,
đùn đẩy công việc cho nhau, trách nhiệm không rõ ràng.
3.2.7 Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật báo chí
Việc tuyên truyền phổ biến pháp luật báo chí để các chủ thể tuân thủ,
thực hiện là một vấn đề quan trọng. “Trong giới phóng viên, biên tập viên,
thậm chí cả lãnh đạo một số cơ quan báo chí vẫn còn hiện tượng chưa nắm
vững nội dung hoặc nhận thức chưa đầy đủ về Luật Báo chí” (9). Vì vậy, Bộ
Thông tin và truyền thông, Hội Nhà báo và đặc biệt là các cơ quan báo chí
cần có kế hoạch tập huấn thường xuyên Luật Báo chí và các văn bản quy
phạm pháp luật mới về báo chí; cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật từ khi
soạn thảo văn bản để lấy ý kiến rộng rãi các đối tượng liên quan.
3.2.8 Tăng cường thanh tra, kiểm tra
Đây là nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí vì báo chí
có quan hệ trực tiếp tới chính trị. Báo chí không những phản ánh dư luận mà
còn tạo ra và hướng dẫn dư luận. Vì vậy, hoạt động này cần diễn ra thường
xuyên, nhanh nhạy để kịp thời ngăn chặn, xử lý những vi phạm pháp luật về
báo chí.

18


KẾT LUẬN
Báo chí tác động từng ngày, từng giờ đến đời sống xã hội. Vì vậy, mọi
chế độ chính trị đều có chủ trương và biện pháp quản lý báo chí theo hướng
có lợi nhất cho mình. Ở nước ta, mục tiêu cao nhất của báo chí cách mạng là
phục vụ cho sự phát triển của đất nước và lợi ích của nhân dân.
Bởi vậy, quản lý nhà nước về báo chí trong từng thời kỳ phát triển của
đất nước cũng phải có sự điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi
hàng ngày của thực tế đời sống.


19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2005), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lý

luận chính trị, Hà Nội.
2. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2005), 80 năm báo chí cách
mạng Việt Nam, những bài học lịch sử và định hướng phát triển, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Vũ Thanh Vân (dịch), Tác động truyền
thông
4. Bộ Thông tin và Truyền thông (2009), Thông tư quy định về việc liên kết
trong hoạt động sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình, Hà
Nội.
5. Bộ Thông tin và Truyền thông (2011), Thông tư quy định chi tiết và hướng
dẫn việc cấp giấy phép hoạt động báo chí trong lĩnh vực phát thanh,
truyền hình, Hà Nội.
6. Bộ Thông tin và Truyền thông (2009), Báo cáo tình hình báo chí 2009.

20


MỤC LỤC

21




×