Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tiểu luận cao học tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.42 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết củ đề tài

Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc. Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của toàn xã hội và của
mọi gia đình. Khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai” đã và đang trở
thành phương châm hành động của nhiều quốc gia trên thế giới và của Việt Nam.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao chất lượng giáo dục cho Trẻ em, coi đây là một trong
những nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, trực
tiếp đảm bảo nguồn nhâ lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những
thành công trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (BVCS&GD) đã
đem lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc chăm lo xây dựng thế
hệ trẻ, trong hợp tác quốc tế để thực hiện các chương trình BVCS& GD trẻ em…
Ngày nay, đời sống và dân trí của người dân ngày càng được nâng cao, các điều
kiện đã đảm bảo cho công tác BVCS & GD trẻ em ngày càng đầy đủ hơn. Tuy
nhiên, hiện nay cuộc sống của không ít trẻ em và gia đình tiếp tục bị nghèo đói đe
dọa. Khoảng cách giàu nghèo giữa các gia đình, vùng miền vẫn có xu hướng gia
tăng mà chính sách và nguồn lực của Nhà nước chưa đáp ứng được cho tất cả đối
tượng còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra do tác động của nhiều yếu tố như: áp lực
về kinh tế, tình trạng chưa thực sự coi trọng công tác BVCS & GD trẻ em ngày
càng tăng; môi trường tự nhiên ngày càng xuống cấp; môi trường xã hội chưa an
toàn…
Bên cạnh nguy cơ xâm nhập của các xu hướng “văn hóa” và lối sống phản tiến
bộ, còn có nguy cơ của các thế lực phản động, thù địch ra sức tác động nhằm “phi
cộng sản hóa” lớp trẻ để phá hoại và thực hiện mưu đồ đen tối của chúng…


Với kiến thức được học tập ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, cùng với thực


tế khách quan về công tác lãnh đạo của Đảng về vấn đề bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em ở nước ta hiện nay. Tôi mạnh dạn chọn vấn đề: "Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích nghiên cứu của đề tài: đánh giá một cách toàn diện, khách quan, khoa
học, từ đó làm sáng tỏ những quan điểm, đường lối, chủ trương cũng như quá trình
lãnh đạo, tổ chức thực hiện của Đảng trong công tác BVCS & GD trẻ em trong giai
đoạn hiện nay. Từ đó đưa ra một số giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với công tác BVCS & GD trẻ em trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghên cứu của đề tài:Trên cơ sở trình bày đặc điểm, tình hình kinh
tế- xã hội của nước ta; Đề tài có nhiệm vụ: Phân tích làm sáng tỏ thực trạng vai trò
lãnh đạo của Đảng trong công tác BVCS & GD trẻ em ở nước ta trong những năm
qua; Bước đầu đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra một số nguyên nhân cơ
bản, từ đó đưa ra giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
công tác BVCS & GD trẻ em trong thời gian tới.
3.

Cơ sở nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở nghiên cứu: Xuất phát từ cơ sở khoa học, những nguyênn lý của chủ

nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước cùng lý luận và giáo dục dạy học, đồng thời kế
thừa những công trình nghiên cứu và các kết quả có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Trong đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta. Đề tài chú
trọng phương pháp lịch sử và logic, kết hợp lịch sử với logic, những phương pháp



phân tích, tổng hợp, điều tra, thống kê,..Sử dụng phương pháp văn bản, dựa vào
các văn kiện của Đảng, các Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng, các báo cáo
của ngành, của tỉnh và của huyện, của các trường trên địa bàn cơ sở.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng về sự lãnh đạo của Đảng, kết quả sự sự
lãnh đạo của Đảng trong công tác BVCS & GD trẻ em ở nước ta.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: tập trung nghiên cứu chủ yếu thực trạng vai
trò lãnh đạo của Đảng trong công tác BVCS & GD trẻ em trong những năm qua
5. ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài sẽ làm góp phần làm sáng tỏ hơn những quan điểm cơ
bản trong hoạt động lãnh đạo của Đảng về BVCS & GD trẻ em của nước ta. Khái
quát thực trạng lãnh đạo của Đảng về BVCS & GD trẻ em ở nước ta trong những
năm gần đây. Qua đó đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với công tác BVCS & GD trẻ em trong những giai đoạn tiếp
theo.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài còn có:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về sự lãnh đạo của Đảng trong công tác bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Chương 2: Thực trạng về sự lãnh đạo của Đảng trong công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta trong giai đoạn mới.


NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CÔNG
TÁC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM

1.1.
1.1.1.

Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng
Khái niệm
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam hiện nay theo

Hiến pháp (ban sửa đổi năm 1992), đồng thời cũng là Đảng duy nhất được phép
hoạt động trong đất nước. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được công bố,
Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
kim chỉ nan cho mọi hành động của Đảng.
Đều 4- Hiến pháp Việt Nam (1992) khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng: "Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, là dại biểu trung thành cho quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
kim chỉ nan cho mọi hành động, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội."
Lãnh đạo: là khả năng thuyết phục và gây ảnh hưởng trên người khác để hoàn
thành những mục tiêu mong muốn. Nói cách khác, lãnh đạo thiên về khía cạnh
nhân bản và nhắm đến “người” để nối kết họ thành một đội ngũ và động viên họ
tiến tới mục tiêu mong muốn
1.1.2.

Vai trò lãnh đạo của Đảng
Các căn kiện Đại hội qua các thời kỳ đã đề cập một cách toàn diện các vấn

đề Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Kế thừa Đại hội X, cương lĩnh bổ sung phát
triển năm 2011 của Đại hội XI, khẳng định: Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của giai nhân dân lao



động và của dân tộc Việt Nam; là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Cương lĩnh tiếp tục khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung
và phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn về phương thức lãnh đạo của Đảng:
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng càm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng
lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương
lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát
và bằng hành động gương mẫu của Đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những Đảng viên ưu tú có đủ năng lực
và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời
phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức
trong hệ thống chính trị.
1.2.
1.2.1.

Lý luận chung về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Khái niệm

Trẻ em: là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi
nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Đó là những người chưa
trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ
và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau
khi ra đời.
Bảo vệ trẻ em: trước hết là đảm bảo cho trẻ em được thực hiện các quyền và
mình và phòng ngừa để trẻ em không bị thiệt thòi, không bị người khác vi phạm
các quyền đã được pháp luật quy định. Đồng thời, bảo vệ trẻ em là những hoạt
động nhằm ngăn ngừa, không để trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, bao gồm:
phòng người trẻ em không bị khuyết tật, mồ côi, bị xâm hại tình dục, bị trở thành

tội phạm vị thành niên, nghiện ma túy…


Chăm sóc trẻ em là các hoạt động nhằm nhận biết và đáp ứng nhu cầu về vật
chất và tinh thần để đảm bảo sự phát triển hài hòa nhân cách của trẻ em. Các hoạt
động chăm sóc trẻ em bao gồm: chăm sóc về sức khỏe, dinh dưỡng, về giáo dục,
về đời sống văn hóa tinh thần, vui chơi giải trí.
Giáo dục trẻ em là các hoạt động nhằm tạo điều kiện cho mọi trẻ em được
giáo dục đạo đức, trí tuệ, tinh thần tư tưởng, thể chất, thẩm mỹ, nghề nghiệp, giáo
dục giới tính, giáo dục pháp luật và phổ cập giáo dục ở một trình độ nhất định.
1.2.2.

Ý nghĩa của việc Đảng lãnh đạo công bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp người

kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa... Vì vậy, bảo vệ
chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, của toàn xã hội
và của mọi gia đình.
Năm 1990, Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới đồng thời là nước đầu
tiên ở châu Á ký “công ước quốc tế quyền về trẻ em”.Hiến pháp năm 1992, có 10
điều trong 147 điều đề cập đến quyền trẻ em. Trong đó, có điều 65 quy định rõ:
“Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”. Theo
tinh thần nghị quyết các Đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới, nhất là chỉ thị số 38CT/TW, ngày 30-5-1998 của Ban Bí thư (khóa VII) về tăng cường công tác bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em; Chỉ thị số 55-CT/TW, này 28-6-2000 của Bộ Chính
trị (khóa VIII) về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công
tác, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Ngoài ra có nhiều văn bản luật và dưới luật đề cập đến việc BVCS & GD trẻ
em: Luật Phổ cập giáo dục tiểu học, Luật Giáo dục, Luật Hôn nhân và Gia đình,
Luật Dân sự.. đặc biệt là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em(ban hành năm
1991 và bổ sung, sửa đổi năm 2004); Quyết định số 23 của Thủ tướng Chính



phủ(26-2-2001) vè phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam
trong giai đoạn 2001-2010; Chỉ thị số 13 của Thủ tướng chính phủ (31-5-2001) về
tổng kết 10 năm thi hành Luật Bảo vệ, căm sóc và giáo dục trẻ em..
Như vậy, sự nghiệp lãnh đạo của Đảng đối với công tác BVCS & GD trẻ em
là tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cách mạng do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo. Từ yêu cầu xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng và từ nhu cầu của bản thân sự phát triển cuả trẻ em.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG
CÔNG TÁC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

2.1.

Những thành tựu đạt được

2.1.1. Những thành tựu đạt được về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em


Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em, thể hiện qua những kết quả đạt được như sau:
Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và nước đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn
Công ước về Quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc (năm 1990), và chưa đầy một năm
sau nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (năm 1991) và
trong gần 20 năm qua nước ta đã đề ra và thực hiện hai Chương trình hành động
Quốc gia vì trẻ em giai đoạn 1991-2000 và giai đoạn 2001-2010 cùng nhiều chính
sách, văn bản hướng dẫn các tiêu chuẩn, quy chuẩn, chương trình mục tiêu, các dự
án, xây dựng tổ chức bộ máy, bố trí và đào tạo cán bộ quản lý, xây dựng và phát

triển các tổ chức, cung cấp dịch vụ liên quan nhằm mục tiêu bảo vệ, chăm sóc trẻ
em.
Theo tinh thần nghị quyết các Đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới, nhất là
chỉ thị số 38-CT/TW, ngày 30-5-1998 của Ban Bí thư (khóa VII) về tăng cường
công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Chỉ thị số 55-CT/TW, này 28-62000 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng
ở cơ sở đối với công tác, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Nhờ đó công tác bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em đã có những chuyển biến tích cực.
2.1.2. Những thành tựu đạt được về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta hiện nay
Sự quan tâm lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác
BVCS & GD trẻ en đã góp phần quan trọng đem lại những kết quả khả quan trong
việc BVCS & GD trẻ en như sau:
Về chăm sóc sức khỏe trẻ em:


Khám bệnh thường kỳ cho trẻ em

Hệ thống chăm sóc sức khỏe trẻ em ngày càng được mở rộng cả về khám,
chữa bệnh lẫn dự phòng, đặc biệt là mạng lưới y tế cơ sở và ở nông thôn được khôi
phục, củng cố và phát triển mạnh mẽ cả về nhân lực, trang thiết bị, thuốc men,
mạng lưới y tế thôn, bản cũng được khôi phục và phát triển hoạt động có hiệu quả.
Hàng triệu trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ khám, chữa bệnh miễn phí tại các y tế
công lập. Chương trình tiêm chủng được mở rộng triển khai đồng bộ trên cả nước.
Các chỉ số về tỷ lệ suy dinh dưỡng, trẻ em tử vong, bà mẹ tử vong đều giảm. Tính
đến cuối năm 2008, khoảng 10 triệu trẻ em đã được cấp phát thẻ khám chữa bệnh,
đạt trên 99% tổng số trẻ em dưới 6 tuổi trên toàn quốc; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy
dinh dưỡng giảm đáng kể hiện chỉ còn 22,7%. Nhiều chương trình được triển khai
hiệu quả, nhằm trợ giúp trẻ em khuyết tật như phẫu thuật mắt, phẫu thuật tim bẩm
sinh, hỗ trợ trẻ em nạn nhân của chất độc hóa học: 69.750 em đã được chăm sóc,
phục hồi chức năng và phẫu thuật chỉnh hình

Đến nay, Việt Nam đã thanh toán được bệnh bại liệt cho trẻ em và loại trừ
được uốn ván sơ sinh và các bệnh mù lòa, khô mắt.. Tình trạng sức khỏe trẻ em
Việt Nam có nhiều cải thiện. So với các quốc gia có mức thu nhập tương tự, tỷ suất
tử vong trẻ em dưới một tuổi của Việt Nam thuộc loại giảm nhanh nhất ở khu vực
châu Á- Thái Bình Dương.
Về chăm lo giáo dục cho trẻ em:


Công tác giáo dục trẻ em ở nước ta những năm gần đây có những tiến bộ
đáng kể, xu hướng xã hội hóa công tác giáo dục ở nước ta ngày càng phát triển.
Ngoài loại hình giáo dục công lập, các loại hình giáo dục ngoài công lập cũng phát
triển. Mạng lưới cơ sở giáo dục đã được mở rộng khắp xã, phường, từng bước
được cải thiện và đáp ứng nhu cầu học tập của trẻ em.
Kết quả hoạt động của các ngành, các cấp trong thời gian qua được ghi nhận
như sau: Đến hết năm 2000, cả nước đã hoàn thành phổ cập gió dục tiểu học; đến
cuối năm 2008 trẻ từ 3 tuổi đến 5 tuổi đi học đạt 66,6% trẻ trong độ tuổi; học sinh
tiểu học đi học đúng độ tuổi đạt 96,06%; học sinh trung học cơ sở đi học đúng độ
tuổi đạt 82,69%; tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giảm dần.
Về chăm sóc văn hóa, tinh thần, vui chơi giải trí cho trẻ em:
Hệ thống cung thiếu nhi, nhà thiếu nhi được đầu tư xây dựng; nhiều loại
hình vui chơi được tổ chức, phục vụ nhu cầu của đối tượng trẻ em; các lớp học
năng khiếu, câu lạc bộ sở thích, thi đấu thể thao…những năm gần đây được quan
tâm đầu tư và phát triển. Xuất bản phẩm văn hóa dành cho trẻ em tăng nhanh về
chủng loại và về số lượng. Đài truyền thanh, truyền hình Trung ương và của các
tỉnh, thành phố..đều có các chuyên mục dành riêng cho trẻ em.
Về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt:
Công tác BVCS & GD trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đac chuyển hướng tiếp
cận dựa trên nhu cầu và đáp ứng các quyền cơ bản của trẻ em, đồng thời chú trọng
việc phòng ngừa và bảo vệ trẻ em trước các nạn bạo lực, xâm hại, lạm dụng và bóc
lột trẻ em, cũng như quan tâm tới việc phát huy sự tham gia của trẻ em. Hệ thống

văn bản luật pháp, chính sách bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Các phương
tiện thông tin đại chúng những nắm gần đây đã được tập trung tăng cường công tác
thông tin giáo dục, truyền thông về luật pháp, chính sách nhằm ngăn ngừa và ngăn
chặn các nạn bạo lực, xâm phạm, lạm dụng và bóc lột trẻ em.


Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu tại phiên họp

Nhiều em đã được hưởng các chính sách, chế độ và nhận nuôi dưỡng. 75% số
trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được chăm sóc, dưới nhiều
hình thức. Có 6.429 trẻ em lang thang hồi gia được hỗ trợ giải quyết khó khăn;
4.673 trẻ em lang thang trở về gia đình được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm; 5.967
trẻ em lang thang được hỗ trợ đi học.
2.2.

Những hạn chế, yếu kém

Việc quan tâm, chăm sóc, bồi dưỡng thế hệ trẻ ở Việt Nam được Đảng và Nhà
nước ta chú ý từ rất sớm. Đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng đề cập tới vấn
đề này, trong đó đều thống nhất khẳng định đây là trách nhiệm to lớn của Đảng,
toàn dân, đồng thời thể hiện tính ưu việt của xã hội ta. Trên thực tế, từ khi đổi mới
tới nay, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng.
Tuy nhiên, hiện nay trong xã hội vẫn còn xảy ra nhiều hiện tượng đau lòng khi
nạn bạo hành trẻ em diễn ra ở không ít gia đình, ở một số nơi thuê mướn việc làm,
thậm chí ngay cả trong lớp học và cơ sở nuôi dạy trẻ. Một khảo sát vào tháng 32009 do Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em và tổ chức Plan tại Việt Nam thực
hiện ở 5 địa điểm: Hà Nội, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên và Quảng Bình cho


thấy có đến 58,3% số trẻ em nói rằng, người lớn dùng các phương pháp quát mắng,

chửi, sỉ nhục, đánh tát, phạt úp mặt vào tường… để răn dạy khi các em mắc lỗi,
thật là không văn hóa và không có tác dụng giáo dục trẻ thơ. Trong các năm
2008,2009, các vụ bạo lực, xâm hại đối với trẻ em được phát hiện và phản ảnh trên
các phương tiện thông tin đại chúng không ít, khiến cho xã hội không thể không
quan tâm và lo ngại.
Công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở nước ta đang đứng trước những
vấn đề bức xúc đòi hỏi cần phải giải quyết. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đối với
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể, nhà trường và
gia đình theo chức trách và khả năng của mình là phải có kế hoạch, biện pháp cụ
thể để thực hiện có kết quả các nghị quyết, luật, nghị định và chương trình hành
động của Đảng, Nhà nước về vấn đề bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; hướng sự
chú ý vào việc vận động nhân dân quan tâm hơn nữa đến công tác nuôi dưỡng,
giáo dục và chống suy dinh dưỡng đối với trẻ em. Đặc biệt quan tâm đến việc giáo
dục hình thành nhân cách tốt đẹp, phát huy trí tuệ của trẻ em mà sự phối hợp giữa
gia đình, nhà trường và xã hội luôn có ý nghĩa quyết định.
Đất nước phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, việc chăm sóc
trẻ em có điều kiện thuận lợi hơn. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ngày càng giảm,
con số trẻ em bị đói rách, thất học thu hẹp dần. Nhưng việc bảo vệ, chăm sóc trẻ
em trong tình hình mới lại nảy sinh những khó khăn, phức tạp mới. Nhiều bậc phụ
huynh gắng gỏi, tần tảo chăm chút con em có cơm ăn áo mặc, được cắp sách đến
trường nhưng cũng nơm nớp lo lắng về mối quan hệ bạn bè và xã hội của bọn trẻ.
Đã xảy ra biết bao nhiêu trường hợp trẻ em sinh hư do đua đòi, tiêm nhiễm các thứ
văn hóa xấu độc từ bên ngoài tràn vào, rồi các tệ nạn xã hội luôn luôn rình rập lôi
kéo các em. Nhiều gia đình do mải làm ăn không quan tâm chăm sóc con em mình.
Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vẫn còn một số hạn chế, yếu
kém. Hệ thống pháp luật, chính sách về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em chưa


hoàn thiện. Nhiều mục tiêu cụ thể quan trọng trong Chương trình hành động quốc
gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001-2010 thực hiện chưa đạt. Đạo đức, lối sống

xuống cấp, lệch chuẩn của một bộ phận trẻ em đang trở thành nỗi lo của gia đình
và xã hội. Tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục, bạo lực, bị lạm dụng sức lao động
có xu hướng gia tăng, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng trẻ em phạm
tội, trẻ em lang thang, bị tai nạn, bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS vẫn là những vấn đề
xã hội bức xúc. Trẻ em suy dinh dưỡng còn ở mức cao. Các điểm vui chơi và các
hình thức giải trí phù hợp với trẻ em còn thiếu. Tình trạng học sinh bỏ học còn khá
phổ biến ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Điều kiện
sống và cơ hội phát triển của trẻ em ở các vùng khó khăn, đặc biệt ở các tỉnh miền
núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ so với trẻ em ở vùng thành phố còn có
khoảng cách khá xa. Nguồn lực trong xã hội dành cho sự nghiệp chăm sóc, giáo
dục và bảo vệ trẻ em chưa đáp ứng yêu cầu. Huy động cộng đồng vào chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ trẻ em, nhất là ở nông thôn còn yếu.
2.3.

Nguyên nhân của những yếu kém, hạn chế

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên là do một số cấp ủy, chính
quyền chưa nhận thức đầy đủ về tính cấp bách và tầm quan trọng của công tác
chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em; chưa dành sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đúng
mức cho công tác này. Sự tham gia của các đoàn thể ở nhiều nơi còn mang tính
hình thức; sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường, các đoàn thể và xã hội còn thiếu
chặt chẽ. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ chương, chính
sách, pháp luật về chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em còn nhiều hạn chế


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ
EM Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
3.1.


Một số phương hướng của Đảng về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ
em trong giai đoạn mới

Chỉ thị Về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công
tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã tạo ra sự chuyển biến tốt trong lĩnh vực
công tác này:
Một là, phải đảm bảo cho trẻ em được sinh ra khỏe mạnh, được sống và phát
triển ở môi trường an toàn. Để thích ứng được với tính chất luôn thay đổi và nhịp
độ cange thẳng trong công việc, sinh hoạt và đời sống xã hội trong điều kiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước phát triển kinh tế tri thức…, phải chuẩn bị
cho trẻ em Việt Nam có sức khỏe toàn diện về thể chất , tâm thần và xã hội. sức
khỏe tốt là tài sản quan trọng hàng đầu bảo đảm hạnh phúc cho mỗi người, mỗi
gia đình và toàn xã hội.
Hai là, đảm bảo cho mọi trẻ em được đi học và ít nhất học hết bậc phổ cập.
Sau khi hoàn thành bậc phổ cập phải hình thành được những nét cơ bản về nhân
cách theo mục tiêu giáo dục đặt ra. Trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập và phát
triển hài hòa về thể chất, trí tuệ và tâm hồn.
Ba là, nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho mỗi người, mỗi
gia đình, xã hội, trở thành yêu cầu cấp bách. Chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần,
vui chơi, giải trí cho trẻ em nước ta nhằm rèn luyện nhân cách, đáp ứng những đòi
hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập với những
thuận lợi và thách thức tất yếu của nó.


Bốn là, trong xu thế toàn cầu hóa, yêu cầu chung về bảo vệ trẻ em phải được
nâng cao hơn, để phòng tránh tố đa các hiện tượng trẻ em bị rơi vào hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn. Đảng và Nhà nước cần phải có những chủ trương, chính sách nhằm
ngăn chặn, giảm thiểu các tội phạm, như: giết trẻ em, hiếp dâm trẻ em, buôn bán
trẻ em, tổ chức cho trẻ em sử dụng ma túy, tổ chức mại dâm trẻ em, bảo vệ trẻ em
không bị tai nạn thương tích…

3.2.

Một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công
tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta trong giai đoạn
mới

Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp
phần quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Làm tốt công tác này là trách
nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, gia đình, nhà trường và toàn xã
hội.
Để tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong thời gian tới,
Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể quán triệt và thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Thứ nhất, các cấp ủy đảng, chính quyền cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục và vận động để mọi người dân thấy được tính cấp bách và tầm quan trọng
của công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Kịp thời tuyên truyền các điển
hình tiên tiến, các tấm gương người tốt, việc tốt; quan tâm giáo dục pháp luật, kiến
thức, kỹ năng chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; phê phán, lên án các hành vi vi
phạm pháp luật, xâm hại, bạo lực, lôi kéo trẻ em vào hoạt động tội phạm và cản trở
việc thực hiện các quyền của trẻ em.
Thứ hai, rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách
về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em theo hướng mở rộng chính sách an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em thuộc gia đình nghèo, vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; gắn với Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam


đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai
đoạn 2012-2020; Chương trình xây dựng nông thôn mới, xây dựng trường học an
toàn, thân thiện và xây dựng cộng đồng vững mạnh.

Thứ ba, xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch hàng
năm và 5 năm về công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, của từng địa phương, từng ngành.
Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ, cần xác định các
mục tiêu chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là một trong những nội dung
trọng tâm của mục tiêu xã hội.
Thứ tư, xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án
chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Các địa phương ưu tiên bố trí quỹ đất cho
việc xây dựng các công trình phúc lợi cho trẻ em. Khi lập các dự án xây dựng khu
dân cư, khu nhà ở phải dành diện tích thích hợp để xây dựng trường học, công
trình vui chơi, giải trí cho trẻ em. Từng bước bố trí tăng nguồn ngân sách cho sự
nghiệp chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; trong đó ưu tiên kinh phí đầu tư các
công trình cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, trẻ em các gia
đình chính sách, gia đình nghèo và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Đẩy mạnh xã hội hóa công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em theo hướng
nâng cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư và các tổ chức
chính trị-xã hội. Khuyến khích sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá
nhân cho các hoạt động và công trình dành cho trẻ em.. Hàng năm, tổ chức các
hoạt động có hiệu quả thiết thực: Tháng hành động vì trẻ em từ ngày 1-30/6, Ngày
quốc tế thiếu nhi 1/6, Tết Trung thu, Ngày gia đình Việt Nam và Diễn đàn trẻ em
các cấp.


Tổ chức thực hiện tốt Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các công
ước, điều ước quốc tế khác có liên quan mà Nhà nước Việt Nam ký kết hoặc tham
gia. Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế, khu vực nhằm trao đổi kinh nghiệm, huy
động nguồn lực bên ngoài cho công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em.
Thứ năm, tăng cường quản lý nhà nước, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán
bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em các cấp. Xây dựng và thực hiện chính
sách đãi ngộ phù hợp đối với đội ngũ cộng tác viên bảo vệ, chăm sóc trẻ em và

bình đẳng giới ở thôn, ấp, bản; cơ chế phối hợp liên ngành nhằm phát huy các
nguồn lực của Nhà nước và xã hội để chăm lo, bảo vệ trẻ em phù hợp với hoàn
cảnh của đất nước và từng bước hội nhập quốc tế. Thường xuyên thanh tra, kiểm
tra, giám sát việc chấp hành pháp luật, chính sách liên quan đến trẻ em và thực
hiện các quyền của trẻ em.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng và tổ chức thực hiện phong trào “Toàn
dân chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em” gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
chỉ đạo và thực hiện tốt các hoạt động thanh thiếu niên và nhi đồng. Tăng cường
phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, giữa các ban, ngành, đoàn thể trong
hoạt động chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em; trong đó, gia đình có trách nhiệm
nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ trẻ em, cùng với nhà trường giáo dục hình thành
nhân cách và trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết cho trẻ em phát triển toàn diện.
Tăng cường giám sát và phản biện xã hội đối với việc xây dựng và thực hiện chính
sách, pháp luật liên quan đến trẻ em; phát hiện, ngăn chặn, lên án các hành vi bạo
lực, vi phạm pháp luật, vi phạm quyền trẻ em.


KẾT LUẬN
Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài,
góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong thời gian
tới, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và vận động để
mọi người dân thấy được tính cấp bách và tầm quan trọng của công tác chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ trẻ em. Rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, chính sách về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em theo hướng mở rộng chính
sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em thuộc gia đình
nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; gắn với Chiến lược phát triển gia

đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Chương trình hành động quốc gia vì
trẻ em giai đoạn 2012-2020...
Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BVCS & GD trẻ em ở nước ta hiện
nay sẽ ngày càng đạt kết quả tốt nếu nó trở thành phong trào cách mạng sâu rộng,
thường xuyên trong nhân dân và có sự quan tâm đầy đủ của Đảng, Nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể. Để công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em
ngày càng tốt hơn cần có sự quan tâm thường xuyên của Đảng uỷ, chính quyền các
cấp, các ban, ngành, đoàn thể và toàn xã hội; tăng cường truyền thông giáo dục về
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đối với mọi tầng lớp lứa tuổi. Các ngành chức
năng tạo ra nhiều hơn nữa những sân chơi lành mạnh, diễn đàn bổ ích, góp phần
thúc đẩy phát triển kỹ năng kiến thức toàn diện cho các em. Từ đó, ngăn chặn được
hiện tượng trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực và vi phạm pháp luật; thực hiện “Vì một
xã hội không bạo lực, không xâm hại trẻ em”.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Vũ Ngọc Bình: Những điều cần biết về quyền trẻ em, Nxb. Chính trị quốc

2.

gia, Hà Nội-11997.
Công ước của liên hợp quốc về quyền trẻ em, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

3.

Nội- 2003.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,


4.

Nxb. Sự thật, Hà Nội- 1991.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

5.

VIII, IX, X, XI.
Chỉ thị số 20/CT/TW của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình

6.

mới.
Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em. “Tổng kết công tác năm 2008”.

7.

Molisa.gov.vn. 01.6.2009.
Hoàng Văn Tiến. “Về công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em”. Tạp chí cộng

8.

sàn. 9/6/2009
Nguyễn trọng Đàm. “Phát biểu tại Đại hội lần thứ nhất Hội Bảo vệ quyền trẻ

9.

em Việt Nam”. Baovequyenbtreem.vn. 01/7/09.
Tống Thị Minh. “Mục tiêu chăm sóc và bảo vệ trẻ em của Ngành lao động


Thương binh và Xã hội giai đoạn 2006 -2010”. 05.1.2007
10. PGS,TS. Trần Thị Anh Đào (chủ biên): Giáo trình chăm sóc sức khỏe cộng
đồng, Nxb. Chính trị- Hành chính quốc gia, Hà Nội- 2012.

PHỤ LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


1.
2.
3.
4.
5.
6.

Tính cấp thiết của đề tài
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Cơ sở nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Kết cấu của tiểu luận

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM
1.1.
1.1.1.
1.1.2.

1.2.
1.2.1.
1.2.2.

Đảng cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng
Khái niệm
Vai trò lãnh đạo của Đảng
Lý luận chung về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Khái niệm
Ý nghĩa của việc Đảng lãnh đạo công bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG
CÔNG TÁC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.1. Những thành tựu đạt được
2.1.1. Những thành tựu đạt được về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em
2.1.2. Những thành tựu đạt được về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta hiện nay
2.2.
2.3.

Những hạn chế, yếu kém
Nguyên nhân của những yếu kém, hạn chế


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ
EM Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
3.1.


Một số phương hướng của Đảng về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em

3.2.

trong giai đoạn mới
Một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta trong giai đoạn mới

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



×