Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG, NẾP SỐNG TRONG HỌC TẬP Ở ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.19 KB, 24 trang )

ĐỀ TÀI

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA
ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG ĐỜI
SỐNG, NẾP SỐNG TRONG HỌC TẬP Ở ĐẠI HỌC
THƯƠNG MẠI
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động chính trị
kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại mà Người còn là một nhà văn
hoá lỗi lạc, một danh nhân văn hoá thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng và
phát triển nền văn hoá mới Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nói riêng là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân

tộc

ta.

Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc theo Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, về “xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vẫn luôn là một điểm tựa tinh thần vững chắc.
Đồng thời, với sức sống mãnh liệt, tự nó, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá đã và
đang trở thành một bộ phận của nền văn hoá Việt Nam.


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đánh dấu một bước phát triển
trong tư duy của Đảng ta về văn hóa và nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội. Để thúc đẩy sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,


đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng, và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói
chung, Đảng ta đã xây dựng phương châm, giải pháp nghiên cứu, học tập tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh.

MỤC LỤC

I.Mở đầu
II.Nội dung
1.Cơ sở lý thuyết
1.Văn hóa và nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộC
2.Quan điểm của Mác-Lenin về văn hóa
3.Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
4.Vai trò của văn hóa với giáo dục


2.Thực trạng áp dụng quan điểm về văn hóa trong đại học Thương Mại
1.Thành tựu
2.Khó khăn
3.Nguyên nhân
3.Biện pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc
dân tộc trong đại học Thương Mại
1.Đối với nhà trường
2.Đối với bản thân sinh viên
III.Kết luận
IV.Tài liệu tham khảo

I.Mở đầu
Cùng với việc phát triển kinh tế, chính trị - xã hội thì văn hóa là vấn đề quan trọng
và không thể thiếu trong quá trình xây dựng phát triển đất nước. Được coi là bước
đi hàng đầu trong giai đoạn phát triển, văn hóa đã chứng tỏ vai trò của mình trong

hội nhập kinh tế. Mỗi dân tộc trên thế giới đều có những bản sắc văn hóa riêng. Và
trên thực tế, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác người ta thường nhắc tới
văn hóa. Bởi những giá trị truyền thống được hun đúc từ lâu đời đã góp phần tạo
nên nền văn hóa riêng của mỗi quốc gia và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy


luật chung ấy. Đối vớ Việt Nam, văn hóa đóng góp vào nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, đi sâu vào lòng người, góp phần đáng kể tạo ra những giá trị tinh thần
và hình thành nhân cách trong mỗi con người. Đối với sinh viên đại học Thương
Mại nói riêng và các sinh viên đại học trên cả nước nói chung - những chủ nhân
tương lai của Đất nước cần không ngừng gìn giữ, xây dựng và phát triển nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc thông qua việc hình thành nếp sống sinh hoạt cũng như
trong học tập nghiên cứu.

I.Cơ sở lý thuyết
1.Văn hóa và nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc
Chủ trương của Đảng về xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,đậm
đà bản săc dân tộc trong những năm qua.
Từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã hình thành từng bước nhận thức mới
về đặc trưng của nền văn hoá mới mà chúng ta cần xây dựng về chức năng,vai
trò,vị trí củavăn hoá trong phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập quốc tế. Cương
lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có đặc
trưng:tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền
văn hoá mới,tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp,phong phú và đa dạng,có nội dung


nhân đạo,dân chủ,tiến bộ, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt
đẹp của tất cả các dân tộc trong nước,tiếp thu những tinh hoa căn hoá của nhân
loại, chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ

nghĩa xã hội. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng, phát triển nền văn
hoá Đảng đã nêu rõ :
* Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội,vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội: Theo ý kiến của nguyên Tổng
Giám đốc UNESCO:Văn hoá phản ánh và thể hiện một tổng quát, sống động
mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) diễn ra trong quá
khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại;qua hàng bao thế kỉ nó đã cấu thành
nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự
khẳng định bản sắc riêng của mình. Vì vậy,chúng ta chủ trương làm cho văn hoá
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành động lực phát triển
kinh tế- xã hội.Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá; đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn
hoá,đơn vị văn hoá;nêu gương người tốt, việc tốt.
Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển: Nguồn lực nội sinh của sự
phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hoá.Sự phát triển của một dân tộc
phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới, nhưng lại không thể
tách khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cuội nguồn, bằng cách phát huy
cuội nguồn.Cội nguồn đó của mỗi quốc gia,dân tộc là văn hoá.
Văn hoá là một mục tiêu của phát triển:Để làm cho văn hoá trở thành
động lực và mục tiêu của sự phát triển,chúng ta chủ chương phát triển văn hoá
phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế- xã hội.Cụ thể là:Khi
xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn hoá phải căn cứ và hướng tới mục


tiêu, giải pháp và phát triển kinh tế- xã hội, làm cho phát triển văn hoá trở thành
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội. Khi xác định mục tiêu phát triển
kinh tế- xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hoá , hướng tới xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.Phải có chính sách kinh tế trong văn hoá để gắn văn
hoá với hoạt kinh tế,khai thác tiềm năng kinh tế,tài chính hỗ trợ cho phát triển

văn hoá.
Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân
tố con người và xây dựng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế- xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài
nguyên thiên nhiên, vốn…tuy nhiên những nguồn lực này đều có hạn và có thể
bị khai thác cạn kiệt.Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn,có khả
năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không
được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực
khai thác chúng.
* Hai là, nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhằm mục tiêu tất cả vì con người.Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà
cả trong hình thức biểu hiện , trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hoá truyền thống bền vững của
cộng đồng các dân tọc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dântộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng xãTổ quốc;đó là lòng nhân ái, khoan dung,trọng tình nghĩa, đạo lý, là đức tính cần
cù, sáng tạo trong lao động,sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…


Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc
độc đáo.
Có thể nói, bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính
cách, khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức mạnh sáng tạo,
giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán
so với bản thân mình trong quá trình phát triển.Sức mạnh và sức sáng tạo này có
mối lien hệ gốc rễ , lâu dài và bền vững với môi trường xã hội- tự nhiên và với
quá trình lịch sử mà dân tộc đó đã tồn tại.

Nói chung,bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình
dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình,
biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển.Bn sắc cũng có những thăng
trầm của nó. Nó chẳng hề là một cái gì đứng im để cho ta có thể khư khư giữ
chặt. Nó là một phạm trù lịch sử, được hình thành trong lịch sử, do những điều
kiện khác nhau của lịch sử, là hiện tượng động chứ không phải tĩnh. Nó là của
con người, tức là một cơ thể sống, và cũng như mọi cơ thể thật sự sống, nó
chỉ có thể sống bằng quá trình “trao đổi chất” (métabolisme) với môi
trường chung quanh. Nó không mâu thuẫn đối lập với hội nhập, thậm chí ngược
lại chỉ có thể tồn tại và phát triển bằng hội nhập. Nó sống bằng thường xuyên
tiếp xúc, trao đổi với cái khác mình. Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội:cách tư duy,cách sống,cách dựng nước, giữ nước,
cách sáng tạo trong văn hoá, khoa học, văn học, nghệ thuật…; nhưng được thể
hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của một nền văn
hoá.Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm.Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội,
nó định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của cá nhân và cộng đồng.Vì
vậy,nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn định của xã hội và sự vững vàng của chế
độ.Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối, có sức mạnh


gắn bó mọi thành viên trong cộng đồng.Trong sự tiến bộ và phát triển của xã
hội, các giá trị này thường không biến mất mà hoá thân vào các giá trị của thời
sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã
hội và thể chế chính trị của các quốc gia.Nó cũng phát triển theo quá trình hội
nhập kinh tế thế giới, quá trình giao lưu văn hoá với các quốc gia khác và sự tiếp
nhận tích cực văn hoá, văn minh nhân loại.Vì vậy,chúng ta chủ trương xây dựng
và hoàn thiện các giá trị và nhân cách con người Việt Nam trong thời kì công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa và hội nhập quốc tế.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thấm
đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu
khoa học công nghệ , giáo dục và đào tạo…, sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt
động chúng ta có cách tư duy độc lập,có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc
thái Việt Nam.Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế,công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân

loại,song

phải luôn luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân
tộc.
Để xây dựng nền văn hoá tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta chủ
trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu,tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loai.Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế,
tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cài tiến bộ trong văn hoá của các dân tộc
khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại.Chủ động tham gia hội nhập và giao
lưu văn hoá với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới

của

văn

hoá

Việt Nam đương đại.Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hoá
khu vực và quốc tế.
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc



hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.
* Ba là, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.Nét đặc trưng nổi bật của văn hoá Việt Nam là
sự thống nhất mà đa dạng, là sự hoà quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của
văn hoá các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.Hơn 50 dân tộc trên
đất nước ta đều có những giá trị và bản sắc văn hoá riêng.Các giá trị và sắc thái
đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống
nhất dân tộc.
* Bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp chung của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.Công nhân, nông
dân,trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
nhà nước.
* Năm là, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được coi là
quốc sách hàng đầu.
* Sáu là, văn hoá là một mặt trận;xây dựng và phát triển văn hoá là một sự kiện
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì,thận trọng.
2.Quan điểm của Mác-Lenin về văn hóa.
C.Mác coi văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao
động sáng tạo của con người - hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời
sống hiện thực của con người. Khi coi “giới tự nhiên thứ hai” với tư cách là “tác
phẩm”, “thực tại” của con người - giới tự nhiên được con người cải biến, nhân hóa,


mang ý nghĩa và nội dung con người là văn hóa, C.Mác đã đồng nhất văn hóa với
phương thức hoạt động sống đặc thù, phương thức hoạt động sống riêng có của con
người. Đó là phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo của mình để
biến đổi và cải tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản chất cố hữu của mình” để cải tạo
hiện thực khách quan, “nhào nặn”, “xây dựng” thực tại khách quan cho chính mình
“theo các quy luật của cái đẹp”. Văn hóa là cái phản ánh tính đặc thù của hoạt động

con người và sự tồn tại, vận động, phát triển cùng với tính đặc thù như vậy của con
người trong thế giới. Văn hóa chỉ xuất hiện khi con người ý thức rõ ràng về đời
sống xã hội của họ, về hoạt động tự do, hoạt động lao động sáng tạo để không
những cải tạo và biến đổi tự nhiên vì sự tồn tại, phát triển của chính mình, vì cuộc
sống ngày một tốt đẹp hơn của chính mình, mà còn để “làm cho bản thân hoạt
động sinh sống của mình trở thành đối tượng của ý chí và của ý thức của mình”.
Nói cách khác, văn hóa là cái phản ánh việc con người tự ý thức về vai trò độc lập
của mình, về khả năng và năng lực sáng tạo của mình trong việc cải tạo và biến đổi
tự nhiên. Chủ thể sáng tạo văn hóa là con người. Con người sử dụng văn hóa đó để
phát triển năng lực của mình trong quá trình cải tạo và biến đổi tự nhiên, đồng thời
cải tạo chính bản thân mình. Trong quá trình cải tạo tự nhiên, xã hội và chính
mình, con người ngày càng ý thức một cách rõ ràng hơn sức mạnh xã hội của lao
động và ý thức đầy đủ hơn khả năng, năng lực sáng tạo mang bản chất người của
mình - sáng tạo văn hóa, tái sản xuất ra giới tự nhiên, “xây dựng” giới tự nhiên cho
chính mình “theo các quy luật của cái đẹp”. Văn hóa là cái thể hiện sự giải phóng
và tự giải phóng con người khỏi sự ràng buộc, thống trị với một sức mạnh bí ẩn
của thế giới tự nhiên và thế giới thần thánh mà con người tưởng tượng ra do sự bất
lực của mình trước giới tự nhiên đầy bí ẩn. Văn hóa là lĩnh vực hoạt động mà nhờ
đó, con người sản xuất và tái sản xuất ra bản thân mình với tư cách là một thực thể
xã hội. Đó là hoạt động của con người nhằm tạo ra một hệ thống giá trị mang tính
định hướng cho sự phát triển ý thức con người và cho lối ứng xử của con người


trong cộng đồng xã hội. Với hệ thống giá trị định hướng này, mỗi nền văn hóa trở
thành một hệ thống biểu tượng bao hàm trong đó các khuôn mẫu ứng xử xã hội của
con người. Đó còn là hoạt động của con người nhằm tạo ra một hệ thống những thể
chế mà qua đó, những giá trị cao đẹp, mang tính định hướng được giữ gìn, lưu
truyền và phổ biến trong cộng đồng xã hội, trở thành tài sản của mỗi người, của tất
cả mọi mgười trong cộng đồng xã hội ấy và làm nên truyền thống văn hóa cho một
cộng đồng xã hội. Như vậy, trong quan niệm của C.Mác, văn hóa không chỉ đóng

vai trò là cơ sở, nền tảng tinh thần của xã hội, của lịch sử nhân loại, mà còn là lĩnh
vực luôn có ảnh hưởng, tác động đến tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, đến
sự phát triển xã hội. Trong sự tác động và ảnh hưởng đó, văn hóa không chỉ tác
động, ảnh hưởng đến nguyên nhân sinh ra nó - đến tồn tại xã hội, đến quá trình sản
xuất vật chất của con người, mà còn góp phần quyết định phương thức vận động và
phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Văn hóa còn đem lại cho
con người sự điều chỉnh và định hướng hoạt động của mình và qua đó, điều tiết
quá trình sản xuất vật chất, điều tiết sự phát triển xã hội, trở thành nguồn lực nội
sinh cho sự phát triển xã hội bền vững - phát triển vì mục tiêu nhân văn, vì giá trị
nhân đạo
3.Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm này xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là phấn đấu vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó phải
giải quyết hài hoà giữa sự phát triển kinh tế và văn hóa, đảm bảo cho đất nước phát
triển bền vững và lâu dài. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tới vai trò
của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa này


vừa phải là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động kinh tế phải đặt con người ở vị trí
trung tâm của sự phát triển, vừa phải chú ý đến hiệu quả kinh tế, vừa phải chú ý
đến hiệu quả xã hội và văn hóa. Đồng thời, phải chú trọng khai thác văn hóa như
một nguồn lực đặc biệt để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển các ngành
công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa và du lịch văn hóa… Như vậy, văn hóa
không phải là kết quả thụ động của nền kinh tế mà là nguyên nhân, động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc.
Quan điểm này xác định phương hướng và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam
mà chúng ta tập trung xây dựng trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Trình độ tiên
tiến của nền văn hóa phải thống nhất với bản sắc văn hóa dân tộc và khẳng định
tầm vóc, vị thế của văn hóa dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Quan điểm này nhấn mạnh đến tư tưởng nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về
đảm bảo tính thống nhất và tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Tính
thống nhất của nền văn hóa Việt Nam thể hiện ở sự thống nhất về truyền thống
yêu nước và tinh thần đại đoàn kết của các dân tộc anh em trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; thống nhất ở việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa;
thống nhất ở ý chí và nguyện vọng chung của cộng đồng các dân tộc trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay. Tính thống nhất là điều kiện để đảm bảo sự phát triển đa
dạng của văn hóa các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, trên đất nước ta


có 54 dân tộc với các đặc trưng văn hóa khác nhau. Các giá trị và các đặc trưng
văn hóa đó bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, làm phong phú cho nền văn
hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất quốc gia.
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Quan điểm này xác định vai trò chủ thể xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa.
Mọi người dân Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh đều có vinh dự, trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ tham
gia xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là
nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đội ngũ
trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và

phát triển văn hóa.
Thứ năm, văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận
trọng.
Quan điểm này nhấn mạnh tới phương pháp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Văn hóa là một mặt trận, đội
ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa phải là chiến sĩ trên mặt trận
đó. “Mặt trận” là nơi đoàn kết thống nhất ý chí và tình cảm của nhân dân, của đội
ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa vào thực hiện mục tiêu
chung của sự nghiệp đổi mới do Đảng đề ra. “Mặt trận” là nơi đấu tranh chống lại
cái xấu, cái ác và cái giả, khẳng định cái đúng, cái tốt và cái đẹp nhằm xây dựng
môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh. Đồng thời, đây cũng là nơi để chống lại
mưu toan phá hoại của kẻ thù, đặc biệt là âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế


lực thù địch quốc tế trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Trong quá trình đó, “xây” phải
đi đôi với “chống” và lấy “xây” làm trọng tâm. Quan điểm này cũng nhấn mạnh
đến tính đặc thù của việc xây dựng và phát triển văn hóa. Bảo tồn và phát huy
những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị mới tích cực
và tiến bộ, loại bỏ những yếu tố bảo thủ và lạc hậu trong nền văn hóa, làm cho các
giá trị văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành tâm lý, tập quán
tiến bộ, văn minh, nhân bản là một quá trình đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, đòi
hỏi nhiều thời gian và cần phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng, tránh
nóng vội, chủ quan duy ý chí. Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cần phải nhận thức sâu sắc rằng, sản phẩm văn hóa
là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt, hoàn toàn khác với sản phẩm hàng hóa thông
thường khác. Đây là phương tiện để biểu đạt đời sống tinh thần của mỗi dân tộc. Vì
vậy, Đảng, Nhà nước và toàn xã hội cần có giải pháp hữu hiệu để bảo vệ và phát
triển nền văn hóa của dân tộc mình, chống nguy cơ bị đồng hóa về văn hóa.
4.Vai trò của văn hóa với giáo dục

Văn hóa là nền tảng của giáo dục
Con người là nhân tố quyết định cho sự hưng, suy của một dân tộc, con người tạo
ra của cải vật chất. Không chỉ có tác dụng trực tiếp đến đời sống con người, giúp
con người hoàn thiện phẩm chất đạo đức, cách ứng xử giữa người và người; giữa
người với thiên nhiên… văn hoá còn là nội lực, là lực liên kết giữa các phần tử
trong xã hội, gắn kết con người với con người, tạo nên hình dạng của một dân tộc,
một đất nước. Đó chính là sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, tinh thần hy sinh,
dám dấn thân vì vận mệnh của đất nước, vì sự sinh tồn của dân tộc, làm cho hình
dáng dân tộc được ổn định và xã hội càng trở nên văn minh.


Chính vì thế, con người là chủ thể cho mọi hoạt động. Việc thiết lập một hệ thống
giáo dục ảnh hưởng trực tiếp tới lối sống, cách ứng xử giữa người với người.
Giáo dục phát triển trước hết phải có văn hóa. Văn hóa hướng giáo dục tới những
gì tốt đẹp nhất từ đó sẽ tác động đến con người. Giáo dục dạy cho con người ta
cách đối nhân xử thế, mà những điều đó đều bắt nguồn từ văn hóa. Như Khổng
Tử đã nói: "Tiên học lễ, hậu học văn" có nghĩa là đầu tiên phải học lễ nghi, văn
hóa ứng xử, sau đó mới học tới những điều khác.
Văn hóa tạo nên những giá trị tốt đẹp trong giáo dục.
Giáo dục là để hướng con người tới chân-thiện-mỹ, tới những gì tốt đẹp nhất của
cuộc sống. Giáo dục ảnh hưởng trực tiếp tới những giá trị của con người. Một nền
giáo dục tốt sẽ là tiền đề phát triển con người cho đất nước. Vì thề cần có một nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc tạo ra những giá trị tốt đẹp nhất trong giáo dục.
Khi con người đã học được văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp,... cũng chính là lúc
văn hóa phát huy giá trị của nó trong giáo dục.
Văn hóa cũng góp phần cho sự sinh tồn, phát triển của xã hội loài người đa dạng,
phong phú hơn và ngày càng phù hợp với quy luật, hài hòa với thiên nhiên. Văn
hóa làm cho mỗi dân tộc có đặc trưng riêng và chính nó góp phần tạo nên văn
minh của từng dân tộc. Con người ta được giáo dục hoàn thiện và hiểu được ỹ
nghĩa của văn hóa thì mới tạo nên cái gốc làm người.

Văn hóa là chìa khóa để phát huy vai trò của giáo dục
Giáo dục dù có tốt tới đâu mà không có yếu tố văn hóa thì cũng không phát huy
được vai trò của nó. Bởi văn hóa là tiền đề, là yếu tố cốt lõi tạo nên phẩm chất
đạo đức, nhân cách, sự hiểu biết về cuộc sống của con người. Vì thế văn hóa
ngày càng giữ vị trí quan trọng trong giáo dục bởi nếu không có văn hóa thì có
giáo dục đến mấy cũng trở nên vô ích. Hiện nay, giáo dục được chú trọng phát
triển ở khắp nơi trên thế giới vì nó tạo nên trí tuệ cho con người, mở rộng tầm


hiểu biết của con người. Nhưng dù cho con người ta có trí tuệ đến mấy mà
thiếu mất "văn hóa" thì cũng không trở thành tài

2.Thực trạng áp dụng quan điểm về văn hóa trong đại học Thương Mại
a.Thành tựu
Thành tựu đạt được trong quá trình vận dụng quan điểm xây dựng và phát triển nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường Trường Đại Học
Thương Mại:
-Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 25 năm đổi mới, lĩnh vực văn hóa đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng. Tư tưởng, đạo đức và lối sống của sinh
viên, thanh nhiên đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều giá trị mới về văn hóa,
chuẩn mực đạo đức được khẳng định và nhân rộng trong môi trường học tập.
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" và Cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", các phong trào thi đua
yêu nước ngày càng được mở rộng và từng bước đi vào thực chất trong đời sống xã
hội. Công cuộc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá của dân tộc đã đạt được
nhiều tiến bộ. Phát huy giá trị. công tác xã hội hoá đã thu hút được đông đảo các tổ
chức ,học sinh sinh viên và cá nhân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hoá, góp phần tích cực gìn giữ bản sắc văn hóa, phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc, dần loại bỏ những sự lỗi thời,
lạc hậu. Sinh viên biết coi trọng hơn các giá trị văn hóa, nhất là các giá trị di sản

văn hóa truyền thống. Dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội được mở rộng;
dân trí được nâng lên, quyền con người được tôn trọng. Con người Việt Nam năng
động, tích cực, sáng tạo hơn. Người dân có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin và
hưởng thụ các giá trị văn hóa. Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, tính chủ động,
tính tích cực xã hội của sinh viên về các chủ thể văn hóa được phát huy.


- Thái độ, tinh thần trách nhiệm của sinh viên thanh niên, được nâng lên, quan tâm
và có trách nhiệm hơn đến những vấn đề của đất nước, của Đảng, của Đoàn, của
Hội. Văn hóa “kính thầy yêu bạn” được nâng cao, ý thức tự lập, dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm trong thanh niên ngày càng mạnh mẽ, hiện tượng bảo
sao làm vậy, hoặc tự biến mình thành người thừa hành bị động ngày càng ít đi.
Tính thực tế trong tư duy trong học tập cũng như các hoạt động xã hội của thanh
niên ngày càng phát triển.
-Trong mấy chục năm qua các trường đại học Thương mại đã có những bước tiến
vượt bậc. Giáo dục đại học đã có những đóng góp đáng kể trong công tác đào tạo
cán bộ cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ giảng viên
đại học đã trưởng thành nhanh chóng, trong đó có một số cán bộ xuất sắc, đạt trình
độ quốc tế. Vấn đề giáo dục đạo đức, lí tưởng sống cho thanh niên phải được đặt
lên hàng đầu.

2.Khó khăn
Môi trường văn hoá Đại học đang có những biểu hiện không bình thường làm cho
một số bộ phận, một số mặt bị xuống cấp. Đó là sự tụt hậu, sự khập khiễng của
chương trình giáo dục đại học, sự gian dối trong việc học và thi cử, nạn bạo lực
trong nhà trường, sự thiếu tôn trọng giáo viên của một số sinh viên…
Trong giao tiếp và ứng xử giữa sinh viên với nhau có rất nhiều vấn đề đáng lo ngại.
Các bạn thường sử dụng nhiều từ lóng, tiếng lóng, phát ngôn gây sốc để nói với
nhau nhằm gây chú ý đến người khác, chứng tỏ mình là dân ăn chơi. Các bạn còn
hay sử dụng những câu nói tục, câu thơ, đoạn nhạc được cải biên nhằm mỉa mai

người khác, chế giễu các ca sĩ nhạc trẻ... Sự cẩu thả trong giao tiếp bằng ngôn ngữ,


sự thiếu tinh tế trong lựa chọn ngôn từ, sự sáng tạo ra nhiều từ ngữ mới chẳng
những không làm phong phú thêm vốn từ của cá nhân mà còn làm nghèo nàn thêm
vốn ngôn ngữ của chính người sử dụng và sự trong sáng của tiếng Việt đồng thời
cũng như tạo nên một không khí mang tính chất “chợ búa” ngay tại môi trường
giáo dục Đại học. Thói quen sử dụng ngôn ngữ đó hoàn toàn không phù hợp với
một môi trường giáo dục như trường Đại học hiện nay. Ngoài ra, nạn bạo lực học
đường của sinh viên là hiện tượng gây “nhức nhối” đến toàn thể xã hội và vẫn
đang tiếp tục xảy ra.
Trong trang phục và cách ăn mặc của sinh viên hiện nay có rất nhiều thay đổi do sự
du nhập của làn sóng K-pop. Các bạn mặc quần áo rách rưới, tóc nhuộm xanh đỏ
tím vàng như các ngôi sao Hàn Quốc nhằm khiến cho mình nổi bật hơn, chứng tỏ
mình là dân ăn chơi, nhiều tiền… Nó không những không phù hợp với môi đại học
mà nó còn thể hiện một phần nào quan niệm thẩm mỹ và văn hóa kém văn minh
của sinh viên hiện nay.
Trong giao tiếp giữa sinh viên với giáo viên ngày nay cũng có nhiều thay đổi.
Trước đây, giáo viên là nhân vật trung tâm trong các buổi học, từng lời nói của
giáo viên luôn mang tính giáo dục cao và luôn là khuôn mẫu về mặt kiến thức cũng
như đạo đức cho sinh viên tiếp nhận. Ngày nay, vị trí trung tâm của bài giảng đã
chuyển về phía người học. Sinh viên tuy không còn là người tiếp thu kiến thức một
cách thụ động nhưng quan hệ thầy trò vẫn còn mang nặng tính chất một chiều thầy
nói trò nghe. Sinh viên vẫn chưa thể hiện mình là đối tượng tiếp nhận tri thức một
cách chủ động. Bên cạnh đó nhiều sinh viên còn có thái độ thiếu tôn trọng đối với
giáo viên, thiếu lịch sự và lễ độ trong giao tiếp với giáo viên.
Trong thái độ ứng xử của sinh viên với môi trường và cảnh quan có rất nhiều sinh
viên vi phạm. Các bạn xả rác bừa bãi, hái trộm quả ban đêm, bẻ cây, giẫm lên cỏ,



giẫm lên bàn ghế, làm hư hỏng cơ sở vật chất của nhà trường, … Tuy vậy, những
hành động đó lại được sự cổ vũ và ủng hộ của rất nhiều những sinh viên khác gây
ra một sự đáng lo ngại cho môi trường của Đại học.
Trong việc thi cử cũng còn rất nhiều mối lo ngai. Sinh viên quay bài, chép bài của
bạn, sử dụng điện thoại di động, thi hộ… Khi thi xong, dọc các dãy hành lang có
rất nhiều phao thi rơi tại đó, rất mất thiện cảm. Dù các giáo viên đã bắt và đình chỉ
thi rất nhiều bạn nhưng hành động này vẫn cứ tiếp diễn
3.Nguyên nhân
Trong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóng
mặt. Nó bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập vào. Vì thế
mà xã hội ngày càng phát triển nhưng bên cạnh đó nó cũng làm thay đổi về tư
tưởng về lối sống của nhiều người đặc biệt là sinh viên hiện nay.
Nói đến sinh viên tức là nói đến thế hệ đang nắm trong tay tri thức cùng với những
hiểu biết về tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số
lượng, sinh viên là mộtlực lượng không nhỏ. Họ là lớp người đang được đào tạo
toàn diện và đầy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự
nhiên, xã hội, khoa học.Tư tưởng của một bộ phận sinh viên còn lệch lạc. Dới sự
tác động ồ ạt của nền kinh tế thị trường, dường như giới trẻ ngày nay luôn nhìn sự
vật dưới con mắt của người tư bản. Họ còn nghi ngờ vào chế độ xã hộichủ nghĩa.
Đó là cái nhìn thiển cận, lệch lạc. Nhiều sinh viên đã đánh mất niềm tin vào chủ
nghĩa xã hội. Thử hỏi những ngời nắm trong tay vận mệnh của đất nớc ma có
những



tưởng

như

vậy


thì

tương

lai

đất

nước

sẽ đi

về

đâu?

Nét tiêu cực trong lối sống của sinh viên còn thể hiện trong việc nhìn nhận một
cách sai lầm về giá trị cuộc sống. Đó là hiện tượng sùng bái giá trị vật chất. Nhiều
thanh niên lấy đồng tiền làm thước đo giá trị trong cuộc sống. Trong xã hội ấy, kẻ


có tiền là kẻ mạnh. Chính vì thế, không ít sinh viên con nhà giàu đã sử dụng đồng
tiền gây ra nhiều chuyện sai trái. Tệ nạn xã hội, thái độ không đúng đắn đối với lao
động xảy ra nhiều trong sinh viên
Về vấn đề ứng sử với môi trường cảnh quan: thể hiện một sự lệch lạc trong quan
niệm của một bộ phận không nhỏ những sinh viên có học thức. Những việc làm sai
trái nếu được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ khiến người ta coi nó là bình thường và
người ta lại không thấy sợ, không thấy xấu hổ về điều họ làm, lâu dần sẽ trở thành
thói quen. Và điều này là vô cùng tai họa Về trang phục và cách ăn mặc: do những

người trẻ tuổi thường đứng đầu chào lưu mới, do vậy văn hóa ăn mặc từ du nhập từ
nước ngoài và được sinh viên tiếp nhận là điều không tránh khỏi.đặc biệt , sinh
viên luôn mang trong mình suy nghĩ “tôi mặc những gì tôi thích”, tư tưởng không
muốn thua kém bạn bè, nên ăn chơi đua đòi . Văn hóa học đường vẫn chưa phải là
vấn đề được đưa vào phạm vi quản lý nghiêm ngặt trong môi trường đại học. Về
giao tiếp giữa các sinh viên: vấn đề này thường xảy ra phổ biến trong hầu hết các
trường. Do trào lưu, sinh viên giao tiếp với nhau, thường sử dụng những câu tục để
nhấn mạnh điều mình muốn nói, sử dụng các từ lóng để trêu đùa nhau, lâu dần
thành thói quen không bỏ được...
3.Biện pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc
dân tộc trong đại học Thương Mại
a. Đối với nhà trường
Thứ nhất, nhà trường nên tìm hiểu và khảo sát thực tiễn văn hóa trường
mình đang như thế nào, đi theo chiều hướng nào để đưa ra những chuẩn mực
có tính thực tiễn cao, phù hợp với tình hình cụ thể của trường và xu thế hội
nhập của đất nước.


Thứ hai, trường ta cần nghiên cứu và tham khảo những quy định tương tự
của các trường khác về vấn đề xây dựng văn hóa học đường.
Thứ ba, nhà trường cần tổ chức các hoạt động đoàn thể, xã hội và phong trào
thi đua có quy mô và chất lượng hơn nữa để tạo cho sinh viên có cơ hội
được rèn luyện tu dưỡng bản thân. Tránh tổ chức chương trình mà chỉ chú
trọng hình thức, không thiết thực với sinh viên.
Đặc biệt , nhà trường nên tạo điều kiện tốt hơn cho các câu lạc bộ phát triển
để sinh viên có cơ hội gần hơn với các hoạt động văn thể của Đoàn trường.
Thứ tư, nhà trường nên đầu tư chú trọng vào việc xây dựng cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu hưởng thụ văn hóa của sinh viên một cách
thiết thực như thư viện, phòng học, phòng tự học, sân thể dục.
Thứ năm, các quy định về văn hóa học đường nên được làm một trong số

các tiêu chí đánh giá kết quả rèn luyện cũng như xét kết quả thi đua của từng
cá nhân, đơn vị.
Như trong bảng điểm rèn luyện của mỗi sinh viên mỗi học kỳ nên có nhiều
phần điểm đáng giá về mức độ hoạt động văn thể của trường, việc thực hiện
các chuẩn mực văn hóa học đường mà nhà trường đưa ra.
Thứ sáu, giảng viên và phụ huynh luôn là tấm gương chuẩn mực trong giao
tiếp cho sinh viên cũng như kết hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc giáo
dục con em mình trong lối sống, văn hóa ứng. Vậy các giảng viên nên không
ngừng trau dồi trí lực, kiến thức và văn hóa học đường cho bản thân.
Ngoài ra, các giảng viên cần tăng cường tuyên truyền và khuyến khích sinh
viên tự giác rèn luyện lối sống lành mạnh, xây dựng môi trường giáo dục có
văn hóa trong ứng xử và giao tiếp. Thí dụ như không nói tục, chửi thề, giữ


gìn trật tự và vệ sinh nơi công cộng, ăn mặc phù hợp, không uống rượu say,
không đánh bạc, không gian lận trong học tập thi cử.. ; đối với các nội quy,
quy định thì cần phải có chế tài xử phạt để sinh viên tự giác thực hiện.
b.Về phía sinh viện
Thứ nhất, sinh viên có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, chống lại các khuynh
hướng trái với đường lối văn nghệ của Đảng.
Thứ hai, sinh viên cần chăm chỉ học tập để nâng cao kiến thức chuyên ngành, rèn
luyện tu dưỡng bản thân cả về trí và lực.
Ngoài ra, sinh viên cần trau dồi kĩ năng thực hành thực tiễn, kĩ năng mềm và kiến
thức xã hội để có thể xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Thứ ba, sinh viên cần có lối sống lành mạnh, có ý thức xây dựng và phát triển cộng
đồng xã hội vì lợi ích chung, tuân thủ pháp luật, kỉ cương trường lớp đề ra, bảo vệ
và cải thiện môi trường sống.
Cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người,
giữa con người với xã hội, với thiên nhiên; phê phán những thói hư tật xấu,
lên ái cái ác, cái thấp hèn.

Thứ tư, sinh viên tích cực tham gia các hoạt động Đoàn trường , hoạt động
từ thiện, có ích cho xã hội như: tình nguyện, văn hóa thể thao của trường lớp
tổ chức, các câu lạc bộ kĩ năng mềm…
III.Kết luận
Ai cũng biết thế hệ trẻ chuẩn bị hành trang vào đời cần phải tích lũy các kiến thức
khoa học công nghệ, ngoại ngữ, tin học…nhưng nếu chỉ dừng ở đó thôi mà không
lưu tâm hoặc bỏ qua việc trau dồi phẩm chất chính trị đạo đức, lối sống, văn hóa


ứng xử, văn hóa giao tiếp, ý thức pháp luật thì sẽ dẫn đến sự phát triển lệch lạc,
phiến diện. Đó là con đường đẫn đến sự thiếu hụt những giá trị nhân văn trên con
đường hình thành nhân cách con người. Sự thiếu hụt đó là nguy cơ làm suy thoái
thậm chí biến dạng quá trình phát triển của cá nhân và cộng đồng. Đã đến lúc
chúng ta phải ý thức được mối quan hệ giữa văn hóa và giáo dục,nó hình thành và
phát triển hài hòa, toàn diện nhân cách của con người nhằm đáp ứng cho nhu cầu
của sự nghiệp đổi mới. Từ đó con người sẽ có ý thức trách nhiệm hơn, dám vì
mình, vì mọi người và vì những giá trị đích thực.
Như vậy, văn hóa có vai trò quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Việc
gìn giữ, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường đại học là
vô cũng cần thiết bởi nó giúp cho mỗi sinh viên Đại học Thương Mại nói riêng
cũng như sinh viên cả nước nói chung thêm hoàn thiện bản thân.

IV.Tài liệu tham khảo




×