Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng chuyên ngành báo chí học Nhu cầu và điều kiện tiếp nhận sản phẩm báo chí của cư dân nông thôn hả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 116 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thông tin là một trong những nhu cầu thiết yếu của con người, đặc biệt
là đối với xã hội hiện đại. Nhờ có sự phát triển của khoa học công nghệ, thông
tin đến với đông đảo cư dân ở mọi vùng, miền một cách kịp thời, nhất là trong
thời kỳ đất nước thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH, hội nhập quốc tế. Báo chí
phải góp phần cung cấp tri thức cho nhân dân, định hướng dư luận xã hội,
tăng cường nhất quán về chính trị, tư tưởng của khối đại đoàn kết toàn dân;
biểu dương các nhân tố mới; tích cực đấu tranh phê phán các quan điểm sai
trái; giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Tầm quan trọng của báo chí ngày nay không còn lệ thuộc hoàn toàn
vào thang bậc của thời kỳ bao cấp: cấp 1, cấp 2, cấp 3; mà chính sự tín nhiệm
của công chúng quyết định vị trí của nó. Báo chí chỉ thực sự hữu ích khi vừa
là công cụ trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đồng thời trở thành diễn đàn của
quần chúng phục vụ nhu cầu phát triển bền vững của xã hội. Vì vậy, báo chí
có sứ mệnh thoả mãn nhu cầu xã hội về tiếp nhận thông tin, sự tồn tại và phát
triển của xã hội lại rất cần đến báo chí. Đó là mối quan hệ qua lại giữa công
chúng và báo chí, nó mang ý nghĩa thực tiễn trên nhiều bình diện. Có công
trình khoa học đã khẳng định, “Tác động, chi phối hay điều chỉnh đối tượng
nào lại càng phải nghiên cứu đối tượng ấy... Hoạt động báo chí - truyền thông
luôn lấy con người làm đối tượng tác động, đối tượng phản ánh, đối tượng
điều chỉnh cho nên lại càng phải nghiên cứu đối tượng ấy”[36, tr.199-200]
Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta vừa là mục tiêu của xã hội, vừa là
thực tiễn sinh động hằng ngày tác động đến tâm lý, nhu cầu, nhận thức, hành
động của quần chúng. Nghiên cứu NC&ĐK tiếp nhận SPBC của công chúng
mang tính thiết thực, có thể làm cơ sở phục vụ cho việc xây dựng đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Việc nghiên cứu
NC&ĐK tiếp nhận SPBC của công chúng ở khía cạnh định lượng và định tính



2
có cơ sở khoa học, cụ thể, khách quan,... rất cần thiết đối với hoạt động lãnh
đạo, quản lý nói chung, hoạt động TTĐC nói riêng. Nhiều công trình khoa
học chỉ rõ, hiệu quả của TTĐC phụ thuộc vào sự tiếp nhận của công chúng,
“việc nghiên cứu nắm rõ tính chất, đặc điểm, nhu cầu của đối tượng tác động
bao giờ cũng là một trong những yếu tố hàng đầu bảo đảm hiệu quả tác động
của truyền thông đại chúng”[61, tr.27].
CDNT chiếm hơn 70% trong cơ cấu dân số nước ta[24] và có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng
thời, đang trong quá trình chuyển đổi phương thức sản xuất, họ không còn
đơn thuần lao động theo kinh nghiệm mà đã từng bước ứng dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ vào sản xuất nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao. Họ từng
bước làm quen với tác phong làm việc có tư duy, phản biện, nhận diện vấn đề
để thích ứng với cái mới, làm việc chủ động hơn. Họ cũng rất cần tiếp nhận
thông tin về tình hình kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội để nâng cao nhận
thức trong xu thế hội nhập. Mặt khác, cơ cấu CDNT đang có sự biến đổi, kéo
theo đó là nhu cầu tiếp nhận SPBC cũng thay đổi; muốn nâng cao năng lực và
hiệu quả tác động đối với nhóm cư dân này đòi hỏi báo chí phải nắm bắt và
đáp ứng nhu cầu của họ.
Từ thực tiễn cuộc sống, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá X xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có
ý nghĩa quan trọng trong chiến lược ổn định và phát triển lâu dài của nền kinh
tế - xã hội. Sự biến đổi theo hướng văn minh ở nông thôn và sự trưởng thành
về nhiều mặt của CDNT đã, đang và sẽ tác động mạnh đến quá trình ổn định
và phát triển đất nước. Để CNH, HĐH thành công, một phần lớn phải do
chính CDNT tự nhận thức và tiến hành một cách chủ động dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Muốn tiến hành và thực hiện tốt công cuộc xây dựng nền kinh tế
vững mạnh, xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh; tất yếu phải coi trọng và
phát huy nhân tố con người, đặc biệt là yếu tố tinh thần của CDNT. Việc đánh



3
giá thực trạng NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT góp phần nâng cao dân
trí, đồng thời là một bảo đảm quan trọng cho sự nghiệp CNH, HĐH, thúc đẩy
nông thôn phát triển bền vững.
Việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng NC&ĐK tiếp nhận SPBC của
CDNT nhằm nắm bắt những thông tin cần thiết phải được tiến hành thường
xuyên. Từ đó giúp các cơ quan TTĐC, các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí
có sự bổ sung, điều chỉnh kịp thời, hợp lý, đạt được hiệu quả tuyên truyền
cao, tạo điều kiện thuận lợi để CDNT tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều
hơn trong quá trình CNH, HĐH. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông
thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động sang công nghiệp, thương mại, dịch vụ,
giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho CDNT.
Về NC&ĐK tiếp nhận SPBC đã có một số nghiên cứu, nhưng NC&ĐK
tiếp nhận SPBC của CDNT đồng bằng Bắc Bộ nói chung và ở Hải Dương nói
riêng chưa có công trình nào đề cập; trong khi đó, cư dân vùng này có vai trò,
vị trí đặc biệt quan trọng. Xuất phát từ những đòi hỏi thực tiễn về NC&ĐK
tiếp nhận SPBC của công chúng luôn luôn vận động, chúng tôi chọn nghiên
cứu vấn đề “Nhu cầu và điều kiện tiếp nhận sản phẩm báo chí của cư dân
nông thôn Hải Dương”.
Luận văn mong muốn góp phần đưa nhận thức về CDNT theo hướng
cụ thể hơn; đặc biệt, trên cơ sở nhận diện NC&ĐK tiếp nhận SPBC. Từ đó đề
xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tác động của báo chí đối với CDNT;
góp phần xây dựng nông thôn phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản
xuất hàng hóa, có năng suất, chất lượng, hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu NC&ĐK tiếp nhận SPBC của công chúng là một vấn đề
mang tính cấp bách. Từ đó, có thể nắm bắt sự biến động của CCBC, nắm
được NC&ĐK tiếp nhận SPBC để kịp thời điều chỉnh nội dung, phương thức
truyền tải thông tin, không ngừng cải tiến nội dung và hình thức SPBC, nhằm



4
đạt hiệu quả cao trong thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền. Thực tế công tác
nghiên cứu về NC&ĐK tiếp nhận SPBC ở nước ta còn chưa thường xuyên và
chưa đáp ứng thực tiễn nhu cầu xã hội đặt ra, song cũng đã có một số công
trình nghiên cứu liên quan nhất định về vấn đề này.
Luận án tiến sĩ xã hội học “Truyền thông đại chúng và công chúng trường hợp thành phố Hồ Chí Minh” (1998) của tác giả Trần Hữu Quang đã
đánh giá mức độ và cách thức tiếp nhận thông tin qua phương tiện TTĐC của
người dân thành phố Hồ Chí Minh; phân tích mối tương quan tiếp nhận thông
tin báo chí giữa các loại hình báo viết, phát thanh, truyền hình; các trục nội
dung thường được theo dõi, các mô thức tiếp nhận; sự tác động của một số
nhân tố; những luận giải khoa học từ kết quả điều tra xã hội học.
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành báo chí “Tâm lý tiếp nhận sản phẩm
báo chí của công chúng thanh niên sinh viên hiện nay (khảo sát một số
trường đại học, cao đẳng tại Hà Nội)” (2000) của tác giả Đỗ Thu Hằng
nghiên cứu ở một nhóm công chúng đặc thù. Luận văn đã lý giải những đặc
điểm, những vấn đề có tính quy luật trong tâm lý tiếp nhận của thanh niên,
sinh viên Việt Nam với các SPBC; nêu những kiến nghị nhằm tăng cường
hiệu quả tiếp nhận SPBC của nhóm đối tượng này.
Một số luận văn thạc sĩ xã hội học về công chúng truyền thông, xác
định đối tượng nghiên cứu là các nhóm công chúng đặc trưng: “Nhu cầu đọc
báo của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh” (1999) của tác giả Bành Tường
Chân (chỉ xác định nghiên cứu đối với báo in). “Sinh viên Hà Nội và truyền
thông đại chúng” (2000) của tác giả Lý Hoàng Ngân dựa trên số liệu điều tra
của chương trình nghiên cứu “Sinh viên Hà Nội trong giao tiếp đại chúng”,
Tạp chí Xã hội học, tháng 2- 1998.
Cuộc điều tra xã hội học (2001) do Đài Tiếng nói Việt Nam và Ban Tư
tưởng – Văn hoá Trung ương được tiến hành trên 30 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương với 2.615 người trả lời, cho thấy mức độ, cách thức nghe



5
đài của thính giả thay đổi theo giới tính, độ tuổi, mức sống, nơi sống, học
vấn,...; những lý do thính giả không nghe đài; những đánh giá, nhận xét chất
lượng; những nguyện vọng, đề xuất của thính giả;...
Trong công trình “Báo Phát thanh” (2002) do tập thể tác giả của
PVBC&TT kết hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện, tác giả Nguyễn
Văn Dững làm chủ biên và bàn về công chúng phát thanh, có định nghĩa khái
niệm CCBC, phân loại CCBC (tiềm năng, thực tế, trực tiếp, gián tiếp), vai trò
của công chúng, các nội dung và phương pháp nghiên cứu công chúng.
Đề tài "Điều kiện tiếp nhận sản phẩm báo chí của thanh niên sinh viên
khu vực Hà Nội (khảo sát một số trường đại học - cao đẳng)" (2003) do tác
giả Nguyễn Văn Dững làm chủ nhiệm. Đây là đề tài nêu lên tổng quan về
hoạt động tiếp nhận SPBC của sinh viên hiện nay. Nghiên cứu, mô tả thực
trạng điều kiện tiếp nhận SPBC của sinh viên Hà Nội. Phân tích những ưu
điểm và hạn chế, những rào cản của quá trình tiếp nhận SPBC. Đề xuất một
số giải pháp nhằm cải thiện điều kiện tiếp nhận SPBC cho sinh viên.
Luận văn thạc sĩ “Ảnh hưởng của Internet đối với công chúng Hà Nội”
(2004) của tác giả Phạm Thị Thành đã điều tra xã hội học về nhu cầu sử dụng
và ảnh hưởng của Internet đối với các nhóm công chúng Hà Nội. Luận văn
nêu những ảnh hưởng tích cực đối với học sinh, sinh viên, cán bộ công chức,
các nhà kinh doanh; những ảnh hưởng tiêu cực từ thông tin độc hại và âm
mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch,...
Luận văn thạc sĩ “Công chúng phát thanh hiện nay” (2004) của tác giả
Phạm Thị Thanh Tịnh đã phân tích phương thức tác động, đặc trưng của loại
hình và thính giả của nó. Luận văn đưa ra những nét cơ bản về đặc điểm các
nhóm công chúng của Đài Tiếng nói Việt Nam. Tác giả cũng chỉ ra một số
căn cứ khoa học để những người làm báo phát thanh nâng cao chất lượng
chương trình, cải tiến nội dung cho phù hợp với công chúng phát thanh, đáp



6
ứng mục đích thu hút ngày càng đông đảo công chúng cả nước nói chung và
địa bàn Hà Nội nói riêng.
Công trình “Truyền thông – lý thuyết và kỹ năng cơ bản” (2006) do tác
giả Nguyễn Văn Dững làm chủ biên, với phương pháp tiếp cận hệ thống, các
tác giả của công trình đã đề cập vấn đề nghiên cứu công chúng, nhóm đối
tượng trong mối quan hệ chu trình truyền thông, phân tích nội dung của
nghiên cứu ban đầu về công chúng gồm ba bình diện, các bước tiến hành và
phương pháp nghiên cứu...
Công trình “Xã hội học báo chí” (2006) của tác giả Trần Hữu Quang
đã nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, hệ thống, trực tiếp về lĩnh vực xã
hội học báo chí ở nước ta. Tác giả trình bày có hệ thống cách tiếp nhận xã hội
học đối với các quá trình truyền thông, đối với nghề báo; những quan điểm,
phương pháp nghiên cứu xã hội học về công chúng; nội dung truyền thông về
ảnh hưởng xã hội của TTĐC. Đây là công trình đầu tiên ở trong nước đề cập
trực tiếp, chuyên sâu về xã hội học báo chí.
Trong công trình “Báo chí với trẻ em” (2004) do tác giả Nguyễn Văn
Dững làm chủ biên đã phân tích vấn đề “nghiên cứu công chúng – đối tượng
trẻ em”, các tác giả nêu rõ vai trò, vị trí của việc nghiên cứu công chúng –
nhóm đối tượng trẻ em, nêu rõ các nội dung nghiên cứu, quy trình nghiên cứu
và một số phương pháp thu thập thông tin, số liệu.
Luận án tiến sĩ báo chí “Đặc điểm công chúng truyền hình Việt Nam
hiện nay” (2007) của tác giả Trần Bảo Khánh đã chỉ ra một số đặc điểm nhìn
từ công chúng của kênh truyền thông này.
Công trình “Phương pháp điều tra thính giả” (2005) do Đài Tiếng nói
Việt Nam tập hợp một số chuyên luận của các tác giả Nguyễn Đình Lương,
Nguyễn Văn Dững, Dương Xuân Sơn, Phạm Chiến Khu,... vừa nêu rõ vai trò
của điều tra dư luận xã hội, dư luận thính giả vừa bàn đến một số vấn đề về

công chúng, lý luận về phương pháp và ngôn ngữ điều tra thính giả.


7
Đề tài khoa học “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra
thính giả của Đài Tiếng nói Việt Nam” (2005), đã đúc kết qua những cuộc
điều tra thính giả của đài từ 1989 đến 2005, trên cơ sở điều tra 1.468 thính
giả, cung cấp những thông tin quan trọng, giúp đài đổi mới, nâng cao chất
lượng các chương trình phát thanh, thu hút ngày càng đông đảo công chúng.
Luận án tiến sĩ xã hội học “Hiện trạng và vai trò tác động của truyền
thông dân số đối với người nông dân (khảo sát ở đồng bằng sông Hồng)”
(2001) của tác giả Trương Xuân Trường, nghiên cứu về xã hội học truyền
thông ở nước ta có sự tiếp cận nghiên cứu bước đầu khá hoàn chỉnh về một
quá trình truyền thông, từ các loại hình kênh truyền thông đến vấn đề cung
cấp thông tin và sự phản hồi truyền thông.
Luận án tiến sĩ báo chí "Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công
chúng Hà Nội" (2008) của tác giả Trần Bá Dung đã đánh giá thực trạng và
các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng
trên địa bàn thành phố Hà Nội mang tính đại diện cao; mô tả, làm rõ được
thực trạng nhu cầu, thể hiện qua các mô thức tiếp nhận thông tin báo chí; chỉ
ra mối quan hệ có tính quy luật, những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến nhu
cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng.
Có một số công trình nghiên cứu về CCBC thuộc lĩnh vực chính trị
học, xã hội học, tâm lý học, báo chí học và nhiều ngành khoa học khác; một
số công trình nghiên cứu về tâm lý nông dân nói chung và nông dân ở từng
vùng miền nói riêng,... thuộc khía cạnh tâm lý xã hội, đời sống. Nhiều tác
phẩm là bài báo, chuyên luận, tiểu luận,... được đăng tải trên các phương tiện
TTĐC hoặc bảo vệ thành công được đánh giá cao. Ở nhiều bình diện khác
nhau khi nghiên cứu về CCBC, CDNT có thể kể một số công trình sau: “Tâm
lý học và người làm báo” của tác giả X.K. Rô-sin, Sách tham khảo nghiệp vụ,

Nxb Khoa học Mat-xcơ-va, 1989. “Báo chí và dư luận xã hội – các hình thức
của mối quan hệ tác động” của tác giả Nguyễn Văn Dững, Luận án tiến sĩ


8
chuyên ngành báo chí, SNG, 1994. “Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân
trong cách mạng Việt Nam” của tác giả Lê Duẩn, Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1965. “Nông nghiệp – Nông thôn – Nông dân trên thế giới”, Sưu tập chuyên
đề – Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội, 1990. "Đời sống nông dân
và nông thôn Việt Nam thời cận đại" của tác giả Dương Kinh Quốc, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986. "Tâm lý nông dân đồng bằng Bắc Bộ trong
quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá" của tác giả Lê Hữu Xanh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999,...
Một số tác phẩm đáng chú ý của tác giả Nguyễn Văn Dững: "Đối tượng
tác động của báo chí", Tạp chí Xã hội học, (4), 2004; “Tính chuyên nghiệp
của báo chí cách mạng", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (6), 2006; "Về hệ thống
khái niệm của truyền thông đại chúng", Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, (4),
(2006). "Nâng cao năng lực giám sát xã hội của báo chí", Tạp chí Lý luận
chính trị và Truyền thông, (1), 2007; "Cơ chế tác động của báo chí", Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, (3), 2007; "Văn hoá truyền thông trên
báo chí", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (3), 2008; “Vai trò của báo chí đối với
dư luận xã hội”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (6), 2010…
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hoá, làm rõ những vấn đề lý luận về công chúng,
CCBC, CDNT, NC&ĐK tiếp nhận SPBC. Từ đó nhận diện, đánh giá thực
trạng NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT, góp phần hình thành cơ sở khoa
học và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp kích thích nhu cầu và cải thiện điều
kiện tiếp nhận SPBC của họ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ khái niệm về CCBC; các cơ sở lý thuyết, phương pháp luận và
cơ sở thực tiễn của việc nghiên cứu NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT.
Khảo sát, mô tả làm rõ thực trạng NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT.


9
Nghiên cứu các mối quan hệ có tính quy luật, những nhân tố tác động
ảnh hưởng tới NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT.
Dự báo xu hướng tiếp nhận, xu hướng biến đổi NC&ĐK tiếp nhận
SPBC của CDNT nói riêng, CCBC nói chung.
Khuyến nghị về khoa học và thực tiễn nhằm cải thiện điều kiện tiếp
nhận SPBC; điều chỉnh nội dung và phương thức truyền tải thông tin để các
SPBC đáp ứng tốt hơn nhu cầu của CDNT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là Nhu cầu và điều kiện tiếp nhận sản phẩm báo
chí của cư dân nông thôn Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu, khảo sát là CDNT huyện Kim Thành và huyện
Thanh Hà (Hải Dương). Việc nghiên cứu được kết hợp phân tích, so sánh số
liệu điều tra về CCBC. Luận văn khảo sát NC&ĐK tiếp nhận SPBC đối với
các loại hình: báo in, phát thanh, truyền hình, internet (báo mạng điện tử).
Thời gian nghiên cứu từ tháng 8/2009 đến tháng 8/2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về báo chí cách
mạng, đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng, báo chí có nhiệm vụ
“tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục, và tổ chức dân chúng để đưa
dân chúng đến mục đích chung”[22, tr. 625]; lý thuyết xã hội học về truyền

thông và nghiên cứu CCBC - truyền thông, lý thuyết tâm lý học báo chí.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp: nghiên
cứu tài liệu, điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm và quan sát.


10
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, (kế thừa tư liệu các cuộc điều tra xã
hội học gần đây về CCBC) để tìm hiểu các quan điểm, tư tưởng, các khuynh
hướng nghiên cứu công chúng, NC&ĐK tiếp nhận SPBC của công chúng.
Phương pháp điều tra xã hội học, thông qua phỏng vấn bằng bảng hỏi
(an-ket) gồm 550 phiếu để thu thập thông tin từ CDNT về NC&ĐK đã được
đáp ứng, sẽ cần được đáp ứng trong việc tiếp nhận SPBC.
Phương pháp phỏng vấn sâu, thực hiện với 30 đối tượng theo phương
pháp nghiên cứu định tính (cán bộ lãnh đạo, quản lý và CDNT trên địa bàn)
để tìm hiểu sâu về những nhu cầu khác không thể hiện trong bảng hỏi.
Phương pháp thảo luận nhóm, trò chuyện, trao đổi, tiến hành 10 cuộc,
nhằm nghiên cứu, thăm dò để hình thành giả thuyết khoa học góp phần cải
thiện NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT.
Phương pháp quan sát, nhằm phát hiện các biểu hiện bên ngoài để xác
định những suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng, động cơ mà CDNT chưa bộc lộ.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Tìm hiểu đặc điểm, nhu cầu của công chúng để tác động một cách có
hiệu quả là việc của từng nhà báo, cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí,
của cơ quan lãnh đạo và quản lý báo chí,... Đây là đề tài nghiên cứu CCBC
mà đối tượng là CDNT; góp phần hệ thống hoá những lý luận về vai trò của
báo chí và nắm bắt đặc điểm về NC&ĐK tiếp nhận SPBC đối với CDNT. Từ
đó, tổng kết và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
của báo chí trong việc truyền tải thông tin mọi mặt đến với CDNT.
Luận văn đề cập một cách cơ bản và hệ thống về NC&ĐK tiếp nhận

SPBC của CDNT; có ý nghĩa góp phần tổng kết, chia sẻ kinh nghiệm với cơ
quan báo chí; cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí có cái nhìn tổng quát về thực
trạng NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT nói riêng, CCBC nói chung.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận


11
Đây là công trình đầu tiên đánh giá và làm sáng rõ NC&ĐK tiếp nhận
SPBC của CDNT Hải Dương. Từ đó đóng góp một phương thức tìm hiểu và
nhận diện vấn đề; lựa chọn, điều chỉnh thông tin, hình thức truyền tải thông
tin và nội dung thông tin nhằm nâng cao hiệu quả của việc thông tin, tuyên
truyền trên báo chí, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của CDNT; đóng góp vào việc
mô tả NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT và các nhóm CCBC khác.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là công trình khoa học đề cập một cách có hệ thống về
NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT. Những cứ liệu trong luận văn có thể
được khai thác, tham khảo làm cơ sở cho các cơ quan báo chí, các cơ quan
lãnh đạo – quản lý, nhất là công tác tư tưởng trong việc tổ chức xây dựng nội
dung tuyên truyền, xây dựng phương thức đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiếp nhận
và cải thiện điều kiện tiếp nhận SPBC của CDNT.
Trong từng khía cạnh cụ thể, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo bổ
ích cho các nhà lãnh đạo, quản lý, cán bộ làm công tác văn hoá - xã hội có
liên quan trực tiếp tới đời sống tinh thần của CDNT. Kết quả phân tích sẽ
cung cấp những nhận định đúng đắn về nhóm CDNT; từ đó sử dụng có hiệu
quả SPBC trong việc nâng cao nhận thức, áp dụng vào lao động, sản xuất.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu bổ ích cho những ai
quan tâm đến vấn đề này; làm tài liệu nghiên cứu về những vấn đề có liên
quan đến NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT và các nhóm CCBC khác.
8. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 10 tiết, 83 trang.


12
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Báo chí, sản phẩm báo chí và công chúng báo chí
1.1.1. Báo chí
Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê - chủ biên), nghĩa của báo chí là
“báo và tạp chí; xuất bản phẩm định kỳ” (nói khái quát)[21, tr.54]. Theo định
nghĩa trong Khái niệm báo chí nhìn từ quan điểm hệ thống, “Khái niệm báo
chí được hiểu như một thiết chế, một chỉnh thể từ ý đồ của quyền lực chính trị
đến đối tượng tác động và các mối quan hệ trực tiếp, gián tiếp (quan hệ xuôi ngược) phức tạp trong tiến trình vận động của nó”[41, tr.23].
Khái niệm báo chí được định nghĩa trên ba phương diện: “báo chí là
một trong những hệ thống xã hội” (định danh), “báo chí là một hoạt động
chính trị- xã hội” (định tính) và “báo chí là thứ vũ khí lợi hại trong cuộc đấu
tranh chính trị,... tác động vào xã hội để tạo ra sự can thiệp gián tiếp vào đời
sống chính trị, tham gia vào việc hình thành các khuynh hướng, các phong
trào chính trị- xã hội” (mục đích)[59, tr.34- 38]. Ở khía cạnh khác, báo chí
được định nghĩa: Những sản phẩm TTĐC chuyển tải thông tin mang tính thời
sự thông qua phương pháp phản ánh hiện thực khách quan, trực tiếp và tác
động vào công chúng xã hội theo định kỳ.
Trong luận văn này, khái niệm báo chí được sử dụng với nghĩa là sản
phẩm của hoạt động báo chí để khảo sát sự tiếp nhận của công chúng. Và báo
chí là một hệ thống xã hội, một thiết chế, một hoạt động chính trị- xã hội để
xem xét mối quan hệ của báo chí với các thiết chế khác trong đời sống xã hội
và mối quan hệ tương tác hai chiều với công chúng.
Các loại hình báo chí đề cập trong luận văn này bao gồm: báo in, báo
phát thanh, báo truyền hình và báo mạng điện tử (internet).
1.1.2. Sản phẩm báo chí

Theo định nghĩa của Đại Từ điển Tiếng Việt, sản phẩm có nghĩa là “cái
do con người lao động tạo ra”[33, tr. 1427]. Như vậy, nói đến sản phẩm tức là


13
đề cập một vật, một việc đã trải qua một quá trình biến đổi, vận động hoặc lao
động nhất định để trở thành một thứ hoàn chỉnh. Trong lĩnh vực báo chí,
người ta thường dùng SPBC để chỉ những tác phẩm báo chí đã được hoàn
thiện của các kênh TTĐC, sau đó đem đi in (đối với báo in), phát sóng (đối
với phát thanh và truyền hình) hoặc đưa lên mạng (đối với internet) để đến
với công chúng, tức là SPBC theo nghĩa rộng.
Như vậy, một bài báo, một chương trình phát thanh, một chương trình
truyền hình chỉ được coi là SPBC thực sự khi nó là những tác phẩm báo chí
được phát hành hoặc được phát sóng (tức là đã được xã hội hoá thông tin).
SPBC chỉ tồn tại có ý nghĩa trong mối quan hệ nhà báo - SPBC - công chúng.
Sản phẩm đơn lẻ là những tác phẩm báo chí. Sản phẩm tổng hợp là kết quả
của quá trình tổ chức, liên kết sản phẩm đơn lẻ theo một trật tự nhất định
nhằm đạt được ý đồ nhất định.
1.1.3. Công chúng báo chí
Theo định nghĩa của Đại Từ điển Tiếng Việt, khái niệm công chúng có
nghĩa là “đông đảo người xem hoặc chứng kiến việc gì trong quan hệ với
người diễn thuyết”[33, tr. 454]. Như vậy, công chúng được hiểu là cộng đồng
dân cư trong một không gian công cộng mà trong đó họ có thể trực tiếp tiếp
cận với tác giả, tác phẩm thuộc các lĩnh vực chính trị, văn hoá, nghệ thuật,…
công chúng bao gồm nhiều loại như: CCBC, công chúng văn học, công chúng
âm nhạc, công chúng sân khấu,…
Báo Phát thanh (Nguyễn Văn Dững chủ biên) định nghĩa “công chúng
báo chí nói chung có thể được hiểu là những người tiếp nhận và được các
SPBC tác động hoặc hướng vào để tác động”[46, tr. 95]. CCBC là những
người đọc, người nghe, người xem các sản phẩm của báo in, phát thanh,

truyền hình và internet. Đây có thể là toàn thể xã hội hay một nhóm đối tượng
và cũng có thể là một người nhất định trong một thời điểm nào đó khi họ tiếp
nhận thông tin từ các loại hình báo chí nói trên. Xã hội có nhiều người thuộc


14
nhiều thành phần khác nhau, họ là nguồn sáng tạo vô bờ bến của các nhà báo.
Tất cả xã hội và các nhà báo đều là đối tượng tác động của báo chí. Khi tác
động hoặc hướng tới để tác động thì bao giờ cũng có mục đích cụ thể, cung
cấp thông tin làm thay đổi nhận thức, quan niệm hay khơi nguồn cảm hứng,…
CCBC không phải là nhất thành bất biến mà có thể thay đổi theo thời
gian, hằng ngày, hằng giờ (có thể thay đổi đến hằng phút) theo từng số báo,
chương trình phát thanh, truyền hình, từng tin cập nhật trên báo điện tử. Một
người có thể là công chúng của nhiều SPBC khác nhau. Chúng ta, không ai là
độc giả của tất cả các tờ báo nhưng có thể là công chúng của nhiều SPBC.
CCBC chính là đối tượng mà báo chí trực tiếp hay gián tiếp tác động hoặc
hướng tác động tới nhằm gây ảnh hưởng trong quá trình thông tin. CCBC là
mục tiêu hướng tới của các loại hình báo chí; trong đó, bao gồm công chúng
trực tiếp, công chúng gián tiếp, công chúng đích, công chúng tiềm năng,...
Thuật ngữ “truyền thông đại chúng”, từ “đại chúng” dùng để chỉ đông
đảo đối tượng tiếp nhận thông tin. Đó là quần thể dân cư theo vùng địa lý,
theo lứa tuổi, theo lĩnh vực hoạt động hay các tiêu chí khác. Nó cũng tương
đương chữ “mass” trong tiếng Anh dùng để chỉ người đọc, người nghe, người
xem - công chúng, tức chỉ đối tượng tiếp nhận qua phương tiện TTĐC.
Trong cuốn “Xã hội học báo chí” (2006) của tác giả Trần Hữu Quang,
khái niệm công chúng được hiểu là: tính chất quảng đại (đông đảo), tính chất
không đồng nhất (bao gồm rất nhiều giới và tầng lớp khác nhau) và tính chất
nặc danh (không ai biết ai)[70, tr.26-27]. Tuỳ theo đặc điểm của mỗi loại hình
báo chí mà có thể xác định những khác biệt của từng loại công chúng. Chẳng
hạn như: với báo in, công chúng là bạn đọc (độc giả); với báo phát thanh,

công chúng là người nghe (thính giả); với truyền hình, công chúng là người
xem (khán giả); internet được coi là loại hình đa phương tiện.
Báo chí là loại hình thông tin mang tính phổ biến, nhanh nhạy. Khi
được công chúng đón nhận hay tham gia vào hoạt động báo chí, cũng chính là


15
khi báo chí hoàn thành một công đoạn rất quan trọng của mình; đó là làm cho
hoạt động báo chí gây ảnh hưởng và hướng tới hiệu quả nhất định. CCBC đa
dạng phản ánh sự khác biệt của các loại hình báo chí, cũng như sự phong phú
của các ấn phẩm báo chí. Có thể dựa vào tính chất của mỗi tờ báo để xác định
được các nhóm công chúng khác nhau. Ví dụ: công chúng của báo chí chuyên
ngành, công chúng các báo chí chính trị - xã hội, văn hoá xã hội, công chúng
của báo chí địa phương,…
Mỗi tờ báo thực hiện tôn chỉ, mục đích của mình bằng việc đáp ứng
nhu cầu của một nhóm công chúng nhất định. Ví dụ: báo Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân có công chúng chủ yếu là cán bộ, chiến sĩ phục vụ trong
quân đội, công an; báo Người cao tuổi công chúng chính là người cao tuổi;
báo Hà Nội mới có công chúng chủ đạo là cán bộ, đảng viên và nhân dân trên
địa bàn thành phố Hà Nội; báo Thời báo kinh tế thì công chúng chính không
thể là cán bộ, chiến sĩ phục vụ trong quân đội, công an, học sinh phổ thông,
người cao tuổi,… mà thường là những người hoạt động trong lĩnh vực kinh tế,
thương mại, có trình độ tương đối và tuổi đời cũng không phải còn trẻ,…
Song vẫn có một lượng ngoài công chúng chủ yếu cũng quan tâm tiếp nhận
thông tin từ những cơ quan báo chí đó. Sự khác biệt này chỉ là tương đối, bởi
giao thoa của các nhóm công chúng là một thực tế sinh động. Cũng như các
loại hình truyền thông khác, CCBC cũng có thể là công chúng âm nhạc hay
công chúng hội hoạ,... Xét ở từng góc độ, sự thích ứng của mỗi nhóm công
chúng cũng như mỗi loại hình truyền thông, đều có thể đưa lại những xem
xét, đánh giá về đặc điểm, vai trò một cách khác nhau,…

1.1.4. Vai trò của công chúng báo chí
Khái niệm công chúng gần gũi với khái niệm quần chúng, nên có thể
xuất phát từ vai trò của quần chúng trong lịch sử để nói về vai trò của CCBC.
Quần chúng chủ yếu nhìn từ góc độ tuyên truyền vận động cách mạng; công
chúng chủ yếu nhìn từ góc độ truyền thông – tương tác bình đẳng. Quần


16
chúng nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Trong
quá trình đấu tranh cách mạng, giai cấp vô sản đã dựa vào lực lượng vĩ đại là
quần chúng nhân dân để tiến hành đấu tranh với giai cấp tư sản và các thế lực
phản động khác; báo chí đã trở thành một thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản; trong lĩnh vực báo chí, quần chúng cách
mạng cũng góp một phần rất lớn.
Thực tế cách mạng vô sản đã khẳng định, báo chí không thể ra đời và
phát triển nếu không có phong trào đấu tranh của quần chúng. Trong lịch sử
báo chí Việt Nam, việc hình thành những tờ báo cũng như duy trì hoạt động
của nó trong những thời kỳ hoạt động bí mật, không thể không nói tới sự hỗ
trợ của quần chúng. CCBC cũng chính là nhân dân khi họ tham gia vào các
hoạt động báo chí, từ việc tiếp nhận SPBC, giao lưu gặp gỡ, cộng tác viết tin
bài hoặc tham gia sản xuất chương trình, chuyên mục,...
Công chúng chính là nơi cung cấp nguồn thông tin, là những đề tài vô
tận cho hoạt động báo chí, bởi vì thực tiễn lao động, sản xuất, đời sống nhân
dân vô cùng phong phú và sinh động. Có biết bao những kiểu mẫu điển hình
về các cá nhân, tập thể; có rất nhiều những nhân tố mới, những phát kiến nảy
sinh trong quá trình học tập, lao động, sản xuất. Báo chí chỉ có thể thực hiện
được tôn chỉ, mục đích, lý tưởng của mình khi phản ánh được toàn diện và
sâu sắc về cuộc sống của quần chúng, những đổi thay trong lao động, sản xuất
và đời sống của nhân dân.
Sự đa dạng của các thông tin trên báo chí không chỉ được thực hiện do

những nhà báo chuyên nghiệp mà còn từ sự đóng góp của đông đảo quần
chúng nhân dân, CCBC là lực lượng cộng tác đắc lực, hiệu quả cho mỗi cơ
quan báo chí. Những cây bút nghiệp dư ấy đã góp phần làm cho đời sống báo
chí thêm sinh động, làm cho báo chí thực sự là diễn đàn của nhân dân. V.I.
Lênin đã từng chỉ ra rằng: “Cơ quan báo sẽ sinh động, đầy sức sống khi nào
cứ 5 nhà văn lãnh đạo và thường xuyên viết sách thì lại có 500 và 5000 nhân


17
viên cộng tác không phải là nhà văn”[73, tr.86]. Cuộc sống sôi động và đầy
phức tạp, bản thân mỗi nhà báo chuyên nghiệp dù có yêu nghề, năng nổ, linh
hoạt đến đâu chăng nữa cũng không thể nắm bắt được mọi vấn đề. Do đó, nếu
không có sự tham gia của đông đảo quần chúng thì báo chí không thể phản
ánh được thực tế một cách toàn diện; cũng không thể kịp thời phát hiện những
nhân tố mới, những hạn chế, tiêu cực trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
CCBC vừa là nguồn cung cấp đề tài vô tận, vừa là lực lượng đông đảo
viết tin bài; đồng thời, với vai trò quan trọng hơn hết là người tiêu thụ và
thưởng thức SPBC. Đây là yếu tố cơ sở quyết định sự tồn tại các hoạt động
của báo chí. Tác phẩm báo chí (tin tức, bài báo, chương trình phát thanh và
truyền hình,…) đều chứa những thông điệp và là nhịp cầu chuyển tải thông
tin đến công chúng. Thông tin trong tác phẩm báo chí khi chưa được công
chúng tiếp nhận mới chỉ là thông tin khả năng (còn gọi là tiềm năng). Nếu
công chúng không tiếp nhận các văn bản thông báo, không mua và đọc báo,
không nghe phát thanh, không xem truyền hình, không tiếp nhận thông tin từ
internet sẽ phá vỡ khả năng thực hiện mối quan hệ nhà báo – tác phẩm – công
chúng. Như thế, báo chí mới thực hiện được một nửa chức năng của mình.
Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, các loại hình báo chí đều có
chung một mục đích phấn đấu “Vì nhân dân phục vụ!”. Những gì đi ngược
với lợi ích của nhân dân, không có lợi cho nhân dân đều trái với mục đích, lý
tưởng của báo chí cách mạng. Do đó, người thẩm định những giá trị tốt đẹp

của báo chí chính là quần chúng nhân dân. Khi công chúng đọc báo, nghe đài,
xem truyền hình, truy cập internet; tức là khi đó, thành quả lao động của cơ
quan báo chí nói chung, của phóng viên, nhà báo nói riêng được đón nhận và
thưởng thức. Việc đánh giá các tác phẩm báo chí đúng hay sai, có ý nghĩa hay
chưa,... cũng là điều không thể thiếu; do đó, CCBC tham gia vào việc góp ý,
đồng tình hay phản đối, biểu dương hay phê bình khi họ đã thẩm định được
những giá trị đích thực của thông tin trong mỗi tác phẩm báo chí.


18
Thước đo kết quả của báo chí không phải ở số lượng tin, bài được đăng
tải; số lượng phát hành mà cốt yếu ở chỗ bạn đọc, bạn xem, bạn nghe tiếp
nhận và làm theo như thế nào. Công chúng chính là đối tượng mà báo chí
hướng tới, là mục tiêu phục vụ của mình; vì thế, mỗi cơ quan báo chí đều xác
định một nhóm đối tượng để tác động. Bản thân công chúng cũng là người
hiểu rõ hơn ai hết nội dung mà báo chí đã đáp ứng đầy đủ hay chưa, kịp thời
hay không về những yêu cầu thiết thực và nóng hổi của công chúng; đồng
thời mới khẳng định được những vấn đề báo chí nêu ra có phù hợp với chân
lý hay không, chính họ mới đánh giá được cách diễn đạt của báo chí có sát
với trình độ của công chúng hay không. Có thể nói, CCBC là một vấn đề hết
sức cơ bản và quan trọng của báo chí; bởi lẽ cái đích cuối cùng của báo chí là
đáp ứng nhu cầu và phục vụ cho lợi ích của đông đảo quần chúng. Nghiên
cứu về báo chí mà chỉ nghiên cứu về quá trình truyền thông và người truyền
thông (nhà báo, cơ quan báo chí) thì không phản ánh được đầy đủ tính chất,
mục tiêu cũng như hiệu quả của hoạt động báo chí.
Tìm hiểu CCBC cũng chính là tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu riêng của các
nhóm đối tượng cũng như của công chúng nói chung. Qua đó, xây dựng cơ sở
đối chiếu xem cách thức, phương pháp hoạt động, nội dung chuyển tải thông
tin có phù hợp và đem lại hiệu quả đối với công chúng hay không.
1.2. Nhu cầu tiếp nhận SPBC

1.2.1. Nhu cầu
Theo nghĩa của từ, nhu là cần thiết, cầu là đòi hỏi, mong muốn. Sự đòi
hỏi, mong muốn ấy xuất hiện do chủ thể cảm giác thấy cơ thể thiếu hụt một
cái gì đó rất cần thiết cho sự sinh tồn. Cảm giác ấy thúc đẩy con người đến
những hành vi nào đấy, để có thể thoả mãn sự thiếu thốn đang diễn ra nhằm
duy trì sự cân bằng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển. Ví dụ, cảm giác đói, khát
thôi thúc động vật đi tìm thức ăn, nước uống và hoạt động ăn, uống diễn ra.
Nhu cầu có cơ sở sinh vật của chúng; do vậy, chắc chắn có một phạm vi mà


19
trong đó các nhu cầu có thể thừa nhận một cách khách quan. Ví dụ, để sống
còn và lao động con người phải có ăn, uống, phải có quần áo mặc, phải có chỗ
ở,... và bất cứ ở nơi nào, thời kỳ nào của lịch sử cũng đều phải như vậy, dù
thức ăn, đồ uống, quần áo mặc, nhà ở có khác đi thế nào chăng nữa.
Tuy nhiên không phải từ cơ sở sinh vật của nhu cầu mà cho rằng nhu
cầu là cái tiên thiên, nhất thành bất biến trong bản chất người, coi nhu cầu là
biểu hiện của bản tính người tồn tại nguyên dạng từ đời này qua đời khác.
Thời tiền sử, để thoả mãn cái no, con người chỉ biết săn bắn, hái lượm; để
thoả mãn cái ấm, con người chỉ biết dùng vỏ cây, lá cây đắp lên thân thể.
Theo tiến hoá, con người lao động để sản sinh ra vật chất đáp ứng nhu cầu
của mình; trồng lúa, ngô, khoai, mì, đỗ, lạc,... chế biến thành cơm, bánh,…;
nuôi lợn, gà, cá, cừu, bò,... để có thức ăn giàu chất dinh dưỡng; trồng bông,
nuôi tằm tơ để chế tạo vải, tơ, len, dạ; khai thác quặng để phát triển công
nghiệp;... Như vậy, con người càng phát triển thì càng không bằng lòng với
những thoả mãn nhu cầu của người tiền sử. Ngày nay, con người có rất nhiều
nhu cầu mà trước đây chưa có như: tham gia giao thông bằng động cơ (xe
máy, ô-tô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay,...); giao tiếp bằng công nghệ thông tin
hữu tuyến, vô tuyến, xem ti-vi, phim ảnh, nhu cầu sử dụng máy tính, internet,
điện thoại di động,...

Chính vì lẽ đó, khó có thể định nghĩa chung nhất về nhu cầu, tức là
một định nghĩa bao trùm cả tính sinh vật và tính xã hội của nhu cầu.
Abraham Maslow (1908 – 1966) đại diện phái tâm lý học nhân văn đã
đưa ra những quan điểm tiến bộ về bản tính của con người: “Bản tính có ý
thức, là nhu cầu bậc cao chứ không phải là những bản năng tình dục,... và với
sự phân cấp nhu cầu, ông cho rằng việc thoả mãn các nhu cầu từ thấp đến cao
là cơ sở để con người càng văn minh, thoát xa các loài vật” [19, tr.8]. Ông đã
phân chia nhu cầu tịnh tiến theo nấc thang từ thấp đến cao, phụ thuộc vào
mức độ thiết yếu của nó: nhu cầu sinh học, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội,


20
nhu cầu uy tín và nhu cầu tự hoàn thiện. Đây là một cách phân loại phổ biến
và được công nhận rộng rãi trong khoa học.

Hình 1.1- Tháp nhu cầu của Abraham Maslow
Theo đó:
- Nhu cầu sinh lý là nhu cầu cơ bản nhất cấp thiết nhất. Con người
trước hết phải được đáp ứng nhu cầu sinh học rồi mới có thể quan tâm đến
các nhu cầu tiếp theo;
- Nhu cầu an toàn là nhu cầu mà ai cũng mong muốn trong cuộc sống,
ai cũng mong muốn được an toàn, yên ổn, không bị chi phối bởi những đe
doạ, bất trắc. Đáp ứng được nhu cầu an toàn, con người mới thực sự an tâm
để thực hiện các hoạt động sống của mình;
- Nhu cầu xã hội đáp ứng được nhu cầu tham gia các quan hệ xã hội và
thực hiện các hoạt động xã hội. Bởi một lẽ rất đương nhiên rằng, con người
sống và làm việc không thể tồn tại một cách đơn lẻ được;
- Nhu cầu tôn trọng là nhu cầu tiệm tiến mà con người luôn mong
muốn. Khi tham gia vào các hoạt động xã hội, con người luôn mong muốn
thành công, có uy tín, được xã hội tôn trọng;



21
- Nhu cầu tự thể hiện là sự chủ động thực hiện quá trình xã hội hoá; tự
ý thức để điều chỉnh hành vi với mục đích hoàn thiện nhân cách; tự học hỏi,
khám phá, tìm hiểu để nâng cao kiến thức của mỗi cá nhân,...
Nhu cầu là một khái niệm có nội hàm rất rộng, là đối tượng nghiên cứu
của triết học, sinh vật học, tâm lý học, kinh tế học, xã hội học,... Trong luận
văn này, nhu cầu được xem xét như là đối tượng nghiên cứu của lĩnh vực xã
hội học. Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô giải thích về nghĩa chung nhất của
nhu cầu là: “Sự cần thiết hay sự thiếu một cái gì đó cần thiết để duy trì hoạt
động sống của cơ thể, của con người cá nhân, của một tập đoàn xã hội, của
toàn bộ xã hội”[5, tr.3]. Theo Từ điển Tiếng Việt, nhu cầu là: “Điều đòi hỏi
của đời sống, tự nhiên và xã hội”[21, tr.719]. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác- Lênin đã phân biệt hai loại nhu cầu: Những nhu cầu tự nhiên và những
nhu cầu do xã hội tạo ra. C.Mác thường xuyên nhấn mạnh “Tính chất xã hội
chung của tất cả các dạng nhu cầu cá nhân và xã hội”[5, tr.9].
Có thể khái quát về khái niệm nhu cầu là: Điều cần thiết để tồn tại và
phát triển, nếu được thoả mãn thì dễ chịu, nếu thiếu hụt thì khó chịu, căng
thẳn. Có nhu cầu riêng của cá nhân, có nhu cầu riêng của tập thể, khi hoà hợp,
khi mâu thuẫn; có nhu cầu cơ bản, thiết yếu, có nhu cầu thứ yếu, giả tạo. Nhu
cầu do trình độ phát triển của xã hội mà biến đổi. Cho nên, cần phải xác định
rõ những tiêu chuẩn sinh lý, xã hội, tâm lý để phân biệt những nhu cầu xác
đáng với những ham muốn, đòi hỏi quan trọng và không quan trọng.
Con người có nhiều loại nhu cầu khác nhau ở nhiều phương diện: Nhu
cầu bản năng sinh tồn, nhu cầu tình cảm, nhu cầu tâm linh, nhu cầu văn hoá
tinh thần,... Nhu cầu của con người mang tính tự nhiên nhưng đồng thời cũng
mang tính xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về cả vật chất và tinh
thần của con người ngày càng cao. Nhu cầu cũ được đáp ứng, nhu cầu mới lại
nảy sinh. Như vậy, có thể khẳng định: Nhu cầu là một trong những động lực

thúc đẩy sự phát triển.


22
Từ những cơ sở trên đây, khái niệm nhu cầu tiếp nhận được sử dụng
trong luận văn này được hiểu là thuộc loại nhu cầu xã hội. Luận văn chú ý
đến các bình diện của nhu cầu và mục đích của nhu cầu, việc sử dụng trong
quá trình nghiên cứu, khảo sát, đánh giá; nhất là trong khâu xây dựng bộ câu
hỏi điều tra xã hội học và khâu phân tích, dự báo nhu cầu tiếp nhận SPBC.
Các bình diện của nhu cầu gồm có: nhu cầu đã được đáp ứng, nhu cầu chưa
được đáp ứng, nhu cầu tiếp nhận để phát thông tin.
1.2.2. Cư dân nông thôn - những đặc điểm cơ bản
1.2.2.1. Cư dân nông thôn
Luận văn này đề cập đến NC&ĐK tiếp nhận SPBC của CDNT theo
theo địa bàn cư trú nên chúng tôi làm rõ một số vấn đề liên quan đến quần thể
CDNT, vì một lẽ nó có mối liên hệ khăng khít với nhau, tuỳ thuộc lẫn nhau.
Khái niệm nông thôn được Đại Từ điển Tiếng Việt định nghĩa là “vùng
tập trung dân cư làm nghề nông phân biệt với thành thị”[33, tr. 1283]. Khái
niệm nông nghiệp được Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Hội nghị Trung
ương bảy, khoá X giải thích là “ngành nghề hay sản nghiệp phân biệt với công
nghiệp và dịch vụ... sản nghiệp nền tảng của công nghiệp và dịch vụ;… sản
nghiệp đầu tiên cần thiết cho sự sinh tồn của xã hội”[2, tr.111].
Truyền thống của CDNT Việt Nam bao đời nay rất trọng nghĩa, trọng
tình, trọng tĩnh, trọng tín gắn với văn hoá làng, xã (những nét riêng biệt chỉ có
ở làng mình). Đảng ta đã khẳng định quan điểm chiến lược: “Nông nghiệp,
nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh
tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc
phòng; giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh
thái của đất nước”[14, tr.123-124].

Theo định nghĩa của Đại Từ điển Tiếng Việt, cư dân là “người dân ở
trong một vùng địa bàn hành chính”[33, tr. 489]. Theo giải thích của Bách


23
khoa toàn thư (Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam), cư dân là
“tổng thể những người được coi là chủ thể của xã hội trên một địa bàn lãnh
thổ nhất định… trong dân số học, cư dân là toàn thể những con người khác
nhau về nghề nghiệp, về số lượng, về lứa tuổi và về giới tính”[23].
Như vậy, từ các định nghĩa, giải thích trên, có thể hiểu CDNT là toàn
thể những con người khác nhau về nghề nghiệp, dân tộc, trình độ, số lượng,
lứa tuổi và về giới tính cùng cư trú trên địa bàn nông thôn; trong đó, nông dân
chiếm đa số trong thành phần CDNT.
Trong luận văn này, đối tượng nghiên cứu, phân tích là công chúng
được phân chia theo địa bàn cư trú (nông thôn). Trên thực tế, trong thành
phần CDNT có nông dân, công nhân, công chức, viên chức, trí thức cùng sinh
sống mà nông dân chiếm đa số. Do đó, cũng cần căn cứ vào sự giải thích các
khái niệm: nông dân, công nhân, trí thức,...
Theo định nghĩa của Đại Từ điển Tiếng Việt, nông dân là “người lao
động sống bằng nghề làm ruộng”[33, tr. 1283]. Như vậy, nông dân là một
nhóm xã hội tương đối rộng lớn, thuộc phạm trù công chúng, bao gồm những
cá nhân trong một không gian công cộng, trực tiếp hoặc không trực tiếp tham
gia vào lao động sản xuất nông nghiệp, có mối liên hệ mật thiết với môi
trường nông thôn mà báo chí hướng vào để tác động nhằm lôi cuốn họ vào
phạm vi ảnh hưởng của mình.
Như vậy, trong lĩnh vực báo chí thì nông dân là CCBC trong mối quan
hệ với các nhà báo, các cơ quan báo chí và các SPBC cụ thể. Ở đây, mối quan
hệ giữa văn bản tác phẩm báo chí với nông dân được quy định bởi lượng
thông tin được họ tiếp nhận được và sau đó là quá trình biến các thông tin ấy
thành thông tin thực tế. Sau thông tin khả năng thì thông tin tiếp nhận là một

cấp độ mới trong quá trình thông tin. Những gì mà nông dân tiếp nhận được
qua việc tiếp xúc với các SPBC là tiền đề để hình thành thông tin thực tế. Quá
trình hình thành thông tin thực tế được thực hiện bởi nông dân. Nó chịu ảnh


24
hưởng không chỉ của thông tin tiếp nhận mới mà còn bị tác động bởi nguồn
thông tin tích luỹ trước đó, cũng như bị ảnh hưởng của tất cả các yếu tố trong
đời sống tinh thần. Bởi một lẽ, thông tin thực tế chính là những tri thức, tiêu
chuẩn, giá trị được hình thành ở khách thể do sự tiếp nhận thông tin, ảnh
hưởng đến cách nghĩ, cách làm, phương hướng và mục tiêu hành động, áp
dụng vào lao động, sản xuất, sinh hoạt đời sống của họ.
Theo định nghĩa của Đại Từ điển Tiếng Việt, công nhân là “người lao
động (thường là chân tay) làm việc dựa vào sự thu nạp nhân công của chủ tư
liệu sản xuất công nghiệp hoặc của nhà nước, còn bản thân họ không chiếm
hữu tư liệu sản xuất”[33, tr. 457]. Như vậy, xét trong mối quan hệ công chúng
- tác giả - tác phẩm thì công nhân là một nhóm xã hội tương đối rộng lớn, bao
gồm những cá thể lao động có đào tạo, hoạt động sản xuất trong môi trường
công nghiệp (các xí nghiệp, công xưởng) và có điều kiện tiếp cận thường
xuyên hơn với các phương tiện TTĐC, vừa là chủ thể tiếp nhận các SPBC,
vừa là đối tượng tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của báo chí.
Cũng theo giải thích của Đại Từ điển Tiếng Việt, trí thức là “người
chuyên làm việc, lao động trí óc”[33, tr. 1705]. Do vậy, nhóm trí thức cũng
bao gồm nhiều cá nhân trong một không gian công cộng, có mối quan hệ với
tác giả, tác phẩm trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực báo chí. Họ là
những người có tri thức chuyên môn và lao động trí óc trong môi trường
nghiên cứu, học thuật, giảng dạy,… Vì thế, đây là nhóm công chúng có nhiều
điều kiện nhất trong quá trình tiếp xúc trực tiếp với các phương tiện TTĐC và
phần lớn chịu sự tác động trực tiếp của báo chí.
Như vậy từ những khái quát về các nhóm công chúng (trong môi

trường CDNT). Trong mối quan hệ nhà báo – tác phẩm – công chúng, các
nhóm đều có những đặc điểm giống nhau là cùng nhóm CCBC, chịu sự tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp của báo chí và đều là những chủ thể tiếp nhận
các SPBC, sử dụng các sản phẩm của hoạt động báo chí để phục vụ cho nhu


25
cầu lợi ích của mình. Đây là những nhóm CCBC bao gồm những cá nhân
trong một không gian công cộng, là những người đọc, người nghe, người xem
trong quan hệ với nhà báo, cơ quan báo chí và SPBC cụ thể,…
Tuy nhiên, nông dân vẫn chiếm đa số trong thành phần CDNT (công
nhân, trí thức, sinh viên, người về hưu,… cư trú trên địa bàn nông thôn không
nhiều) nên có những đặc điểm khác biệt so với nhóm công chúng khác, xuất
phát từ nhu cầu, điều kiện, bản chất,… của nhóm. CDNT là nhóm xã hội rộng
lớn nhất về mặt số lượng so với các nhóm khác nhưng xét trên phương diện
mối quan hệ công chúng thì CDNT còn hạn chế trong việc tiếp nhận SPBC.
Do đặc thù nghề nghiệp, trình độ và môi trường sinh sống nên CDNT còn hạn
chế trong việc xác định nhu cầu tiếp nhận SPBC một cách khoa học.
1.2.2.2. Những đặc điểm cơ bản của CDNT
Từ những đặc điểm chung và riêng của các nhóm, có thể khái lược một
số đặc điểm của CDNT như sau:
- CDNT là một trong những nhóm CCBC, là nhóm xã hội rộng lớn về
mặt số lượng, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào lao động sản xuất nông
nghiệp, có địa bàn cư trú chủ yếu gắn bó với nông thôn.
- CDNT, vì thuộc nhóm CCBC, nên có thể chịu ảnh hưởng sự tác động
của báo chí một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
- CDNT là chủ thể tiếp nhận SPBC và có mối liên hệ với cơ quan báo
chí thông qua việc tiếp nhận thông tin và có ý kiến phản hồi.
- CDNT là nhóm CCBC còn nhiều hạn chế về điều kiện tiếp nhận
SPBC một cách khoa học so với các nhóm khác do đặc thù nghề nghiệp, trình

độ và môi trường sinh sống.
Xét trên nhiều phương diện thì CDNT vừa là nhóm đối tượng riêng
biệt đồng thời lại là đối tượng chung hướng tới của báo chí trong quá trình tác
động vào CCBC. Trong nhóm CDNT cũng có thể chia thành các nhóm riêng


×