Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Tăng cường hiệu quả hợp tác giữa tạp chí và công ty truyền thông trong hoạt động báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.57 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HỢP TÁC
GIỮA TẠP CHÍ VÀ CÔNG TY TRUYỀN THÔNG
TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Cần thơ - 2014


MỤC LỤC


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................................................6
Luận văn tập trung đưa ra những kiến thức cơ bản nhất, khái quát nhất về tạp chí, công ty
truyền thông, mối quan hệ giữa tạp chí và Công ty truyền thông, mô hình hoạt động và cách
thức hợp tác giữa tạp chí và công ty truyền thông trước xu hướng hội nhập...............................6


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Báo chí Việt Nam trong những năm qua đã phát triển nhanh chóng và


mạnh mẽ. Các cơ quan báo chí đã tận dụng những thời cơ, điều kiện thuận lợi
và tiềm năng của mình để phát huy sức mạnh, mở rộng tầm ảnh hướng. Hoạt
động của báo chí đã có sự gắn kết, tương tác chặt chẽ hơn với doanh nghiệp,
cộng đồng. Nền kinh tế báo chí ngày càng lớn mạnh đặt ra trọng trách phải
góp phần hơn nữa vào sự phát triển của đất nước. Hoạt động trong môi trường
mới với sự hội nhập kinh tế thị trường, báo chí vẫn phải lấy nhiệm vụ chính
trị làm kim chỉ nam cho hành động và hoạt động theo phương thức hiện đại,
chuyên nghiệp, phù hợp hơn.
Cùng với quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, cơ chế bao cấp đối với các cơ
quan báo chí dần được xóa bỏ. Đến nay, nhiều báo, tạp chí đã áp dụng mô
hình hoạt động theo hướng tự chủ về tài chính theo quy định tại Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ chế tự chủ tài chính đối với cơ quan
báo chí giúp Nhà nước tiết kiệm được một khoản chi phí ngân sách đáng kể,
đồng thời, tạo điều kiện để các cơ quan báo chí phát triển năng động, không
bị lệ thuộc vào nguồn vốn ngân sách.
Sự phát triển nhanh chóng và vững chắc của các tạp chí đã thể hiện tính
năng động của tòa soạn, sớm biết thúc đẩy chuyển hướng phát triển tạp chí
thành cơ quan báo chí đa loại hình với các kênh thông tin phong phú. Đây là
hướng đi đúng đắn của Tạp chí cùng với xu thế phát triển của báo chí trong
thế kỷ XXI, hình thành những tổ hợp thông tin đa dạng. Tuy nhiên, để các tạp


2

chí nói riêng và các tạp chí chuyên ngành nói chung “ra sạp” là một điều hết
sức khó khăn, thậm chí là không tưởng trong thời điểm này. Điều này do khó
khăn chung của nền kinh tế và có cả những khó khăn của các tạp chí từ yêu

cầu liên tục đổi mới hình thức, nội dung đến các yếu tố khác, song vẫn phải
giữ được bản sắc của từng tạp chí, đảm bảo được các yếu tố chính trị, xã hội
và pháp luật.
Trước xu thế hội nhập, cùng với việc thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính, các Tạp chí phải tự đổi mới để đáp ứng được yêu cầu của tình hình.
Nhưng do đặc thù của Tạp chí, nhất là những Tạp chí chuyên ngành, việc
phát hành thường dừng ở số lượng vài nghìn bản dẫn đến nguồn thu của Tạp
chí bị hạn chế. Trước thực trạng đó, nhiều cơ quan báo chí đã chủ động liên
danh, liên kết với các đơn vị tư nhân, các công ty truyền thông triển khai các
hoạt động kinh tế như quảng cáo, tài trợ, tổ chức sự kiện… nhằm tăng nguồn
thu cho tòa soạn.
Ở Việt Nam, cho đến nay, có thể nói, quan hệ giữa truyền thông với
báo chí cũng đã phát triển ở mức rất sâu rộng. Những tin bài có nội dung
thông tin lấy từ các buổi họp báo, các thông cáo báo chí, các hoạt động truyền
thông... đã và đang chiếm tỷ lệ đáng kể trên báo chí. Nhiều tờ báo, tạp chí mở
ra các trang chuyên đăng các tin, bài PR và những tin, bài đó thường hay đi
kèm với các chương trình quảng cáo, tài trợ từ các đơn vị, doanh nghiệp được
đưa tin, bài tuyên truyền.
Cho nên, ở khía cạnh nào đó, có thể nói báo chí hiện nay gần như
không thể tách rời hoàn toàn với hoạt động truyền thông của các công ty PR,
các phòng PR, nhân viên làm PR của các tập đoàn, các tổng công ty, doanh
nghiệp, các bộ, ngành... Mối quan hệ PR và báo chí cũng có một số khía cạnh
tích cực, ít nhất có thể coi đó là một kênh thông tin cần thiết với người làm
báo (một khi bộ phận PR, công ty PR đã được tổ chức, cá nhân nào đó uỷ


3

quyền toàn bộ việc hợp tác, cung cấp thông tin cho báo chí) cho dù, về chất
lượng thông tin, độ sâu của thông tin, vấn đề do PR cung cấp không sâu sắc

bằng những nguồn tin truyền thống khác của báo chí.
Với sự ra đời và phát triển của các công ty truyền thông, hoạt động báo
chí trong thời gian qua đã diễn ra vô cùng sôi động. Mối quan hệ giữa báo, tạp
chí với các công ty truyền thông chính là sự tin cậy, nương tựa và tôn trọng
lẫn nhau. Sự hợp tác đó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: hợp tác về kinh tế,
hợp tác về nội dung thông tin… Nhưng dường như mối quan hệ này vẫn
đang diễn biến theo chiều hướng lệch lạc nhất định. Nhiều người quan niệm
rằng, dù thế nào, trong các thông tin từ các công ty PR, các nhân viên PR...
luôn ẩn chứa khả năng thông tin thiếu khách quan, trung thực bởi hoạt động
PR là luôn hướng báo chí, dư luận tin vào những mặt tích cực, được tô vẽ của
chủ thể muốn thông tin, tuyên truyền, khuếch đại những cái hay của các sản
phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp và che lấp những khiếm khuyết, yếu kém
của các đơn vị đó.
Vậy làm thế nào để vừa đẩy mạnh, tăng cường hiệu quả hợp tác giữa
Tạp chí và các công ty truyền thông vừa khắc phục được những mặt tiêu cực
nảy sinh khi thực hiện sự hợp tác này là câu hỏi lớn mang tính thời sự đang
được đặt ra và là một việc làm cấp thiết có nhiều ý nghĩa sâu rộng. Vì vậy,
luận văn chọn đề tài: “Tăng cường hiệu quả hợp tác giữa Tạp chí và Công
ty truyền thông trong hoạt động báo chí”, nghiên cứu về thực trạng, mối
quan hệ giữa tạp chí với công ty truyền thông qua việc khảo sát ba Tạp chí:
Tạp chí Bệnh viện, Tạp chí Hàng hóa và Thương hiệu, Tạp chí Tài chính.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và kết quả khảo sát thực tiễn, luận văn cũng
đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy, tăng cường hiệu quả
hợp tác giữa tạp chí và các công ty truyền thông, đồng thời, vẫn đảm bảo
được các yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội và tính pháp lý, khắc phục những


4

mặt hạn chế; đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác trong mối quan hệ

giữa Tạp chí và các Công ty truyền thông.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Việc hợp tác giữa báo chí, tạp chí với các Công ty truyền thông ở Việt
Nam chỉ thực sự được chú trọng trong khoảng 5 năm trở lại đây. Trong hoạt
động nghiên cứu về báo chí với truyền thông, có thể kể đến một số đề tài,
nghiên cứu đi trước có liên quan đến vấn đề hợp tác giữa báo chí và doanh
nghiệp như:
- Văn hóa truyền thông trong thời kỳ hội nhập, Nxb. Thông tin và
Truyền thông; Hội Nhà báo Việt Nam.
- Báo chí truyền thông hiện đại, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội;
Nguyễn Văn Dững (2011).
- Mối quan hệ giữa PR và báo chí (khảo sát một số doanh nghiệp và cơ
quan báo chí giai đoạn 2006-2008): Luận văn ThS. Truyền thông đại chúng:
60 32 01 / Nguyễn Thị Nhuận; Nghd.: TS. Phan Thị Loan; H. : ĐHKHXH &
NV, 2008
- Kỷ yếu Hội thảo với chủ đề “Toàn cầu hóa và sự phát triển của báo
chí – Truyền thông Việt Nam” do Học viện Báo chí và Tuyên truyền – Hội
Nhà báo Việt Nam tổ chức, 15/12/2006
- Hoạt động và đóng góp kinh tế của báo in đối với kinh tế xã hội Việt
Nam trong nền kinh tế thị trường, Tài liệu hội thảo Quốc tế với chủ đề
« Đóng góp của khoa học xã hội nhân văn trong phát triển kinh tế xã hội »
của PGS.TS Đinh Văn Hường, 2011
- Yếu tố kinh tế trong hoạt động của các cơ quan báo chí Việt Nam;
Luận văn Ths. Hoàng Văn Hướng, Học viện Báo chí và tuyên truyền, 2008
- Vai trò của báo in Việt Nam trong thời kỳ đổi mới trong quá trình
giao lưu, tiếp nhận và hội nhập văn hóa quốc tế, Dương Xuân Sơn, Tài liệu


5


Hội thảo khoa học quốc tế tại Việt Nam lần thứ 3 với chủ đề « Việt Nam: Hội
nhập và phát triển », 2008
- « Hoạt động báo chí trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay », Luận văn Ths. Vũ Đình Thường, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2004
Ngoài ra, có thể tham khảo một số bài viết khác được đăng thông qua
mạng Internet có liên quan đến việc hợp tác giữa báo chí và doanh nghiệp như:
- Quan hệ doanh nghiệp và báo chí: Kỳ vọng vào lực lượng minh bạch,
trong sáng. Lê Quốc Vinh, Chủ tịch HĐQT, Le Media Group
- Báo chí và doanh nghiệp : Tin cậy, nương tựa và tôn trọng nhau, Lê
Thanh Hoàng.
- Kinh tế truyền thông cần một tư duy mới, (vnn.vietnamnet.vn,
16/6/2005)
- Tác động của báo chí đối với doanh nghiệp; Đại học Quốc gia Hà Nội
- Báo chí và doanh nghiệp, để cùng bơi ra biển lớn; theo
doanhnhan.vneconomic.vn
- Báo chí, người bạn thân thiết với doanh nghiệp; theo phaply.net.vn
- Để báo chí và doanh nghiệp đồng hành cùng phát triển; theo
phaply.net.vn
- Xây dựng tập đoàn truyền thông ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Lê Hải,
Học viện Báo chí và tuyên truyền ; 2012
Những công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa Tạp chí và công ty
truyền thông chưa nhiều, chưa có công trình nào làm rõ những mặt tích cực
cũng như tiêu cực trong mối quan hệ giữa hai chủ thể. Nguồn tài liệu kể trên
là cơ sở để người viết tham khảo và soi chiếu vào nghiên cứu của mình, cũng
như có thể học hỏi những thao tác nghiên cứu để hỗ trợ cho công trình của
mình thêm sâu và đầy đủ khi có sự so sánh đối chiếu.


6


Đây là một đề tài mới, chưa có nhiều tác giả tập trung nghiên cứu. Vì
vậy, đó cũng chính là yếu tố vừa thuận lợi nhưng cũng rất khó khăn trong việc
tìm kiếm, sưu tầm tư liệu và nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Công trình nghiên cứu nhằm mục đích góp phần thúc đẩy, tăng cường
hiệu quả hợp tác giữa tạp chí và các công ty truyền thông, đồng thời, vẫn đảm
bảo được các yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội và tính pháp lý, khắc phục
những mặt hạn chế; đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác trong mối
quan hệ giữa Tạp chí và các Công ty truyền thông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung đưa ra những kiến thức cơ bản nhất, khái quát nhất
về tạp chí, công ty truyền thông, mối quan hệ giữa tạp chí và Công ty truyền
thông, mô hình hoạt động và cách thức hợp tác giữa tạp chí và công ty truyền
thông trước xu hướng hội nhập.
Qua khảo sát thực tế 3 Tạp chí: Tạp chí Bệnh viện; Tạp chí Hàng hóa
và Thương hiệu; Tạp chí Tài chính, từ thực trạng hợp tác giữa Tạp chí và các
công ty truyền thông, chúng tôi nhằm mang lại cái nhìn toàn diện về mối quan
hệ giữa báo chí – công ty truyền thông trong hoạt động báo chí hiện nay, đồng
thời, hướng đến việc đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao hơn nữa
hiệu quả hợp tác của mối quan hệ này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ hợp tác giữa Tạp chí và Công ty
truyền thông ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là tập trung khảo sát sâu ba Tạp chí:
- Tạp chí Bệnh viện: cơ quan ngôn luận của Cục Quản lý Khám, chữa bệnh
- Tạp chí Hàng hóa và Thương hiệu: Cơ quan ngôn luận của Hiệp hội
chống hàng giả và bảo vệ thương hiệu Việt.



7

- Tạp chí Tài chính: cơ quan ngôn luận của Bộ Tài chính
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận, Luận văn thực hiện trên cơ sở nhận thức luận các vấn
đề lý luận triết học duy vật biện chứng, nền tảng lý luận Mác-Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các vấn đề lý luận về báo chí và cơ chế thị trường theo quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta.
Để có những kết luận chính xác và khách quan, người viết đã sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu:
- Định tính: thông qua việc đọc và nghiên cứu các lý thuyết, nghiên
cứu, quan điểm của các nhà nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới về vấn
đề về truyền thông, báo chí; Các phỏng vấn đánh giá chuyên sâu của các
chuyên gia trong lĩnh vực Truyền thông, Quan hệ công chúng ...
- Định lượng: Thông qua việc lập bảng hỏi và khảo sát đối tượng công chúng
- Phương pháp khảo sát thực tế (quan sát, điều tra, thu thập minh chứng)
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục
Qua việc nghiên cứu, khảo sát sẽ rút ra những nhận xét về mặt tích cực,
thành công và hạn chế, khó khăn, bài học kinh nghiệm của việc tăng cường
mối quan hệ hợp tác giữa tạp chí và truyền thông.
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của luận văn
Luận văn được hình thành trên cơ sở tổng hợp, kế thừa những công
trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn kết hợp với quá trình
nghiên cứu từ thực tế và lý thuyết của tác giả luận văn. Do vậy, luận văn có ý
nghĩa nhất định về mặt lý luận và thực tiễn.
Qua nghiên cứu thực tiễn, khảo sát các đối tượng nghiên cứu, luận văn
mang đến một cái nhìn sâu hơn về mối quan hệ hợp tác giữa báo chí và doanh
nghiệp, cụ thể là giữa Tạp chí và các công ty truyền thông. Qua đó, các công



8

ty truyền thông, các tạp chí có thể nhận thức rõ hơn và tăng cường nâng cao
hiệu quả hợp tác trên các lĩnh vực nội dung thông tin cũng như hợp tác về
kinh tế.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là nguồn tư liệu bổ ích cho các tạp chí,
các Công ty truyền thông đang hướng tới việc xây dựng mối quan hệ hợp tác
trong tình hình hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm
ba chương:
Chương một: Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
Chương hai: Thực trạng hợp tác giữa Tạp chí và Công ty truyền thông
trong hoạt động báo chí
Chương ba: Những yêu cầu đặt ra và giải pháp tăng cường hợp tác giữa
Tạp chí và Công ty truyền thông trong hoạt động báo chí.


9

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Các khái niệm và thuật ngữ
1.1.1. Báo chí và hoạt động báo chí
Theo triết học cổ Hy Lạp, “Chữ báo chí xuất phát từ chữ information
có nghĩa là thông tin, thông báo, báo tin và được hiểu như việc tạo ra hình thái
giúp cho sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh đang tồn tại bằng
việc lấy hiện thức khách quan để phản ánh một cách liên tục, xuyên suốt trong

quan hệ chặt chẽ giữa nhà báo – tác phẩm – công chúng” {38, tr.6}
Theo C.Mác và Ph.Awngghen “Báo chí là tiếng nói dũng cảm của tinh
thần nhân dân mang tính lịch sử, là hình tượng công khai nó” {12, tr68}
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ, Hoàng Phê chủ biên, thì
“Báo chí theo nghĩa chung nhất là “quá trình truyền dữ liệu giữa các đơn vị
chức năng” {24, Vần B}
Từ điển Xã hội học do G.Endruwei và G.Trommsdorff chủ biên định
nghĩa báo chí truyền thông là “sự tạo ra mối liên hệ giữa hai đối tượng có thể
mang bản chất sự sống hay không” {20, tr.517}
Tác giả Trần Hữu Quang trong cuốn “Xã hội học truyền thông đại
chúng” (Nxb.Trẻ, HCM.2006) cho rằng “báo chí truyền thông là một quá trình
truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối quan hệ giữa
con người và con người” và “truyền thông đại chúng là quá trình truyền đạt
thông tin một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương
tiện truyền thông đại chúng như phát thanh truyền hình” {37, tr.3}
Theo Từ điển mở Wikipedia “Báo, hay gọi đầy đủ là báo chí (xuất phát
từ 2 từ “báo” – thông báo; “chí” – giấy), nói một cách khái quát là những xuất
bản phẩm định kỳ, như nhật báo hay tạp chí. Nhưng cũng để chỉ cả các loại


10

hình truyền thông khác như đài phát thanh, đài truyền hình. Định nghĩa này
cũng áp dụng được cho một tạp chí liên tục xuất bản trên website {40}.
Như vậy, báo chí là hoạt động trao đổi thông tin trong xã hội một cách
có chủ đích, nhằm hướng đối tượng tiếp nhận thông tin có cái nhìn tổng thể
về sự vật, hiện tượng được thông tin, với mục đích thỏa mãn nhu cầu thông
tin của công chúng và nâng cao hiểu biết xã hội, thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng.
Báo chí là một bộ phận của truyền thông đại chúng (Mass media)

nhưng là bộ phận chiếm vị trí trung tâm, giữ vai trò nền tảng và có khả năng
quyết định đến tính chất, khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác
động của truyền thông đại chúng. Do đó, trong nhiều trường hợp, có thể dùng
báo chí để chỉ truyền thông đại chúng, và ngược lại, nói đến truyền thông đại
chúng trước hết phải nói đến báo chí.
Theo các nhà nghiên cứu, báo chí là một mặt của đời sống xã hội, từ
khi ra đời đến nay đã tồn tại song hành cùng quá trình phát triển của con
người. Trong quá trình đó, báo chí có những tác động to lớn đối với xã hội thể
hiện trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, đời sống.
Hoạt động báo chí chính là tổng hòa các công việc nhằm sáng tạo, duy trì
hoạt động của tờ báo, tạp chí, trang website hay đài phát thanh – truyền hình.
1.1.2. Tạp chí
Theo Từ điển tiếng Việt của Vietlex (Trung tâm từ điển học), “Tạp chí là
xuất bản phẩm định kỳ, thường có tính chất chuyên ngành, đăng nhiều bài do
nhiều người viết, đồng thành lập, thường có khổ nhỏ hơn báo”.{52, vần T}
Theo Từ điển Hán Việt dành cho học sinh (Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin), “Tạp chí được phân tách như sau: “tạp” có nhiều loại trong đó;
chí: sách ghi chép các sự kiện, bài viết. Tạp chí là báo ra có kỳ hạn (nghĩa gốc
là ghi chép linh tinh) {39, vần T}


11

Theo Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin), “Tạp chí
là báo đóng tập, ra có kỳ (không phải hàng ngày), có nhiều mục. {50, vần T}
Theo từ điển mở trên internet Wikipedia, “Tạp chí là từ chung chỉ các
loại ấn phẩm báo chí xuất bản định kỳ. Phân loại theo định kỳ, ta có:
- Tạp chí hàng tuần: tên gọi khác: tuần san, tuần báo. Được xuất bản
định kỳ vào một ngày trong tuần.
- Nguyệt san: xuất bản mỗi tháng một số

- Quý san: mỗi quý một số
- Bán niên san: nửa năm một kỳ
- Niên san: chỉ một kỳ mỗi năm – các loại niên giám thống kê thuộc loại này”.
Tại Việt Nam, có nhiều loại tạp chí xuất bản với định kỳ không theo
phân loại trên như: báo tuần báo với 2-3 số mỗi tuần, bán nguyệt san in 2-3 kỳ
mỗi tháng. {49, vần T}
Các tác giả trong cuốn “Nghề nghiệp và công việc của nhà báo” (Hội
nhà báo Việt Nam) đã đưa ra định nghĩa về tạp chí như sau “Tạp chí là cơ
quan lý luận, học thuật, khoa học của một tổ chức, đoàn thể nào đó chủ yếu đi
sâu nghiên cứu, hướng dẫn, trao đổi nghiệp vụ khoa học về một lĩnh vực nào
đó thuộc phạm trù ngành mình, địa phương mình. Định kỳ phát hành của tạp
chí thường dài hơn định kỳ phát hành của báo {25,tr.162}
Như vậy, trước hết, tạp chí là một loại hình báo chí, được xuất bản định
kỳ, có tính chất chuyên ngành, đăng nhiều bài do nhiều người viết, đóng
thành tập.
Có thể phân loại tạp chí theo các tiêu chí:
- Theo chức năng
- Theo nhiệm vụ
- Theo nội dung phản ánh (lĩnh vực và đối tượng phản ánh)
- Theo hình thức thông tin và thiết kế, trình bày ấn phẩm


12

- Theo đối tượng tiếp nhận (công chúng)
Xét về đối tượng tiếp nhận, dù có sự khu biệt mang tính tương đối song
trên thực tế luôn có sự giao thoa giữa các nhóm đối tượng. Cụ thể một độc giả
có thể đọc nhiều loại tạp chí, thuộc các nhóm khác nhau. Nên sự phân chia tạp
chí theo tiêu chí “đối tượng tiếp nhận” cũng chỉ mang tính tương đối.
Xét về nội dung phản ánh (bao gồm cả chức năng, nhiệm vụ, nội dung

thông tin và hình thức thông tin), tựu chung lại có thể chia loại Tạp chí thành
hai nhóm chính:
- Nhóm thứ nhất, gồm các tạp chí thông tin lý luận khoa học chuyên biệt.
Đây là các tạp chí thông tin về các lĩnh vực chuyên biệt như: chính trị, chính
trị xã hội, kinh tế… Ví dụ: Tạp chí khoa giáo, tạp chí tôn giáo, tạp chí toán
học và tuổi trẻ, tạp chí tài chính, tạp chí thuế, tạp chí thanh tra…
- Nhóm thứ hai: gồm các tạp chí thông tin chỉ dẫn – giải trí. Tiêu đề của
nhóm cũng chỉ rõ nội dung phản ánh của nhóm tạp chí này. Có thể kể đến một số
tạp chí trong nhóm như Tạp chí thể thao, tạp chí thời trang trẻ, tạp chí đẹp…
Theo tiêu chi phân loại này, tạp chí Bệnh viện, tạp chí Tài chính, Tạp chí
Hàng hóa và thương hiệu là tạp chí thông tin lý luận, khoa học và phổ biến
kiến thức chuyên biệt.
1.1.3. Truyền thông và Công ty truyền thông
+ Khái niệm truyền thông
Truyền thông (communication) là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền
thông là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác
lẫn nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin
được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin
trao đổi liên kết người gửi và người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển
các quá trình tạo khả năng để một người hiểu những gì người khác nói (ra
hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và biểu tượng, và học được
cú pháp của ngôn ngữ. {22, tr124}


13

Truyền thông còn là sự trao đổi thông tin, giao tiếp, chia sẻ kỹ năng và
kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người một cách tương đối bình đẳng, nhiều
chiều nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và điều chỉnh hành vi theo
hướng tích cực hóa hoạt động thực tiễn.

+ Phân loại truyền thông
Phân loại theo phương thức
Truyền thông trực tiếp là hoạt động truyền thông trong đó có sự tiếp
xúc trực tiếp, mặt đối mặt giữa những người tham gia truyền thông. Một số
loại hình truyền thông biểu diễn hay sân khấu với khán giả trực tiếp hoặc diễn
thuyết trước đám đông cũng thuộc nhóm truyền thông trực tiếp.
Truyền thông gián tiếp là hoạt động truyền thông trong đó những người
tham gia không tiếp xúc trực tiếp với đối tượng tiếp nhận, mà thực hiện quá
trình truyền thông nhờ sự hỗ trợ của người khác hoặc phương tiện truyền
thông khác.
Phân loại theo đối tượng truyền thông
Truyền thông 1-1 là hoạt động truyền thông có một nhà truyền thông
hướng tới một đối tượng truyền thông
Truyền thông 1 - 1 nhóm là hoạt động truyền thông trong đó nhà truyền
thông hướng hoạt động của mình vào một nhóm xã hội nào đó, với các tác
động có chủ đích
+ Phân loại theo tính chất của truyền thông
- Truyền thông cá nhân là một loại truyền thông trong đó các cá nhân
tham gia tổ chức, thực hiện việc trao đổi thông tin, suy nghĩ, tình cảm..., tạo
ra sự hiểu biết và những ảnh hưởng lẫn nhau về nhận thức, thái độ, hành vi.
Truyền thông nhóm là hoạt động truyền thông, trong đó sự chia sẻ thông
tin, suy nghĩ, tình cảm được thực hiện bởi các cá nhân trong nhóm được xác
định. Môi trường và phạm vi của truyền thông nhóm phụ thuộc vào phạm vi,


14

tính chất, đặc biệt là quy tắc, mục tiêu và trình độ phát triển của nhóm trong
mối quan hệ với các thông điệp của quá trình truyền thông.
+ Các thành phần chính của truyền thông

1. Nội dung tức là thông tin cần chuyển tải
2. Hình thức tức là quảng cáo, PR, marketing
3. Mục tiêu tức là đối tượng cần nhắm tới
Nội dung truyền thông bao gồm các hành động trình bày kinh nghiệm,
hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các hành động này
được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát biểu, bài viết, hay
bản tin truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân khác hay tổ chức khác, thậm
chí là chính người/tổ chức gửi đi thông tin.
Công ty truyền thông là những Công ty đang thực hiện 3 phần kể trên
của truyền thông.
1.2. Tăng cường hợp tác giữa Tạp chí và Công ty truyền thông
trong hoạt động báo chí
Với sự ra đời và phát triển của các công ty truyền thông, đặc biệt, việc
áp dụng cơ chế tự chủ về tài chính, các cơ quan báo chí tự chủ về tài chính
được phép có hoạt động liên doanh, liên kết theo quy định của pháp luật tại
Nghị định số 51/NĐ-CP ngày 26/4/2002 (Quy định chi tiết thi hành Luật báo
chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Báo chí), nhiều cơ quan báo
chí, tạp chí đã hợp tác với các nguồn lực tư nhân, nước ngoài vào quá trình
sản xuất sản phẩm báo chí, chủ yếu ở các khâu dịch vụ phát hành báo chí,
dịch vụ quảng cáo – truyền thông. Và sự hợp tác với các công ty truyền thông
là một nhu cầu tất yếu trong hoạt động báo chí của các Tạp chí hiện nay.
Thực tễ cho thấy việc liên kết giữa các tạp chí với các công ty truyền
thông đã làm cho hoạt động báo chí diễn ra vô cùng sôi động. Mối quan hệ
giữa báo chí (cụ thể là các tạp chí) với các công ty truyền thông chính là sự tin


15

cậy, nương tựa và tôn trọng lẫn nhau. Mối quan hệ này cũng nhằm tăng cường
giá trị thương hiệu, tiềm lực kinh tế, khả năng tự chủ tài chính cho các cơ

quan báo chí.
Tăng cường hiệu quả hợp tác giữa Tạp chí và Công ty truyền thông
được thực hiện trên các lĩnh vực: Tăng cường hiệu quả kinh tế (quảng cáo;
phát hành; tổ chức sự kiện….) và tăng cường chất lượng thông tin (hợp tác về
nội dung). Tuy nhiên, hiện nay, sự hợp tác và tăng cường hiệu quả hợp tác
giữa hai chủ thể chủ yếu vẫn trên lĩnh vực kinh tế.
1.2.1. Tăng cường hợp tác trên lĩnh vực kinh tế
* Phát hành báo chí
Nghị định 51/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
Báo chí, Luật sửa đổi bổ sung một số điều luật của báo chí ngày 26/4/2002 có
định nghĩa “Phát hành báo chí là việc lưu hành các sản phẩm báo chí đến
người sử dụng báo chí thông qua các phương tiện khác nhau”.
“Phát hành báo chí là dịch vụ tổ chức nhận đặt mua, bán lẻ và chuyển
phát “báo chí in” xuất bản trong nước và báo chí nước ngoài nhập khẩu từ nơi
cung cấp báo chí đến khách hàng.” {47, tr25}
Nhìn chung, đây là hình thức kinh doanh cổ điển và mang lại lợi nhuận
thấp nhưng vẫn có vai trò quan trọng trong hoạt động và phát triển của tờ báo.
Hiệu quả của một tờ báo chỉ được phát huy khi đến tay bạn đọc. Nếu phát
hành tốt thì mới phát triển được độc giả cũng như phát triển quảng cáo. Vì
vậy, có thể nói, công tác phát hành vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong
hoạt động và sự phát triển của tờ báo.
Ngày nay, khâu phát hành báo chí đã được chuyên nghiệp hóa và có sự
tham gia của các thành phần tư nhân góp phần mở rộng và phát triển thị trường.
* Quảng cáo, quảng cáo trên báo chí
+ Quảng cáo


16

Tại Việt Nam, quảng cáo xuất hiện trên báo chí từ sớm nhưng chỉ từ

sau năm 1990, với đường lối đổi mới tổ chức nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì quảng cáo mới thực sự bắt đầu phát triển.
Theo từ điển Tiếng Việt của NXB Khoa học và Xã hội 1992, “Quảng
cáo là trình bày để giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết nhắm tranh thủ
được nhiều khách hàng”.
“Quảng cáo là hình thức đặc biệt của những thông tin xã hội được trả tiền
nhằm mục đích thay đổi cơ cấu nhu cầu, mối quan tâm của con người và thúc đẩy
họ tới với hành động mà nhà cung cấp quảng cáo mong muốn. {29, tr15}
Theo Pháp lệnh Quảng cáo năm 2011 thì “Quảng cáo là giới thiệu đến
người tiêu dùng về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ, bao gồm dịch vụ
có mục đích sinh lời và dịch vụ không có mục đích sinh lời”.
Theo đó, dịch vụ có mục đích sinh lời là dịch vụ nhằm tạo ra lợi nhuận
cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ. Dịch vụ không có mục đích sinh lời là
dịch vụ không nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ.
Như vậy, quảng cáo cung cấp các loại thông tin như thông tin kinh tế,
xây dựng tiêu thụ sản phẩm, thông tin về sản phẩm mới… Bất kỳ quảng cáo
nào cũng đều mang một nội dung thông tin nhất định. Nó thường đưa ra
những thông điệp có sức thuyết phục cao nhất cho hàng hóa, dịch vụ; góp
phần kích thích sản xuất phát triển thông qua mở rộng nhu cầu của người mua
hàng, người sử dụng dịch vụ và đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa. Ngoài ra,
quảng cáo cũng bao gồm cả các thông tin tuyên truyền, giáo dục của chính
quyền, các tổ chức chính trị xã hội.
Điều này cũng có nghĩa là quảng cáo bao gồm cả những thông tin
thương mại và phi thương mại. Những thông tin đó đều có giá trị nhất định
với người tiếp nhận.


17

+ Quảng cáo trên báo chí

Quảng cáo trên báo chí là hình thức thông báo, giới thiệu đến công
chúng về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ thương mại và dịch vụ phi
thương mại của tổ chức, cá nhân bằng các loại hình báo chí. {10}
Báo chí được đăng, phát sóng quảng cáo và thu tiền quảng cáo. Nội
dung quảng cáo phải tách biệt với nội dung tuyên truyền và không được vi
phạm quy định tại Điều 10 của Luật Báo chí {10}
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất là
nguyên nhân để người ta tìm đến quảng cáo nhằm mở rộng thị trường và
khách hàng, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa. Báo chí đăng tải thông tin
quảng cáo sẽ góp phần kích thích và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Hơn nữa, phát triển dịch vụ quảng cáo là nhu cầu pahts triển của chính
bản thân cơ quan báo chí, vì cơ quan báo chí muosn có nguồn thu để chi trả
cho các hoạt động làm báo, tái đầu tư đổi mới kỹ thuật và công nghệ, nâng
mức lương và nhuận bút để đảm bảo đời sống cho cán bộ nhân viên, thu hút
những cây bút có năng lực.
Cũng như báo chí thế giới, dịch vụ quảng cáo là hoạt động kinh doanh
chủ chốt của báo chí Việt Nam. Đây cũng là hoạt động thể hiện rõ nhất chức
năng kinh tế của báo chí. Bước vào nền kinh tế thị trường, nhiều cơ quan báo
chí nước ta đã tiếp cận với công nghệ quảng cáo hiện đại, đồng thời thay đổi
tư duy làm kinh doanh. Đội ngũ làm các dịch vụ quảng cáo của nhiều cơ quan
báo chí đã chủ động hơn, chuyên nghiệp hơn.
Ngoài dịch vụ phát hành và quảng cáo là hai hoạt động kinh doanh
chính thì nhiều cơ quan báo chí còn tiến hành các hoạt động kinh doanh ngoài
mặt báo như PR, tổ chức sự kiện, tài trợ, thành lập công ty, liên doanh liên
kết, sản xuất các ấn phẩm truyền thông…


18

* Tài trợ

Hoạt động tài trợ là sự trợ giúp về tài chính cho một sự nghiệp, ý
tưởng, một cá nhân hay một nhóm người. Tài trợ mang lại những lợi ích sau
cho người tài trợ:
- Phổ biến, tuyên truyền được hình ảnh của nhà tài trợ. Lợi ích có thể là
danh tiếng về một tổ chức có trách nhiệm với xã hội.
- Xây dựng được hình ảnh doanh nghiệp hoặc hình ảnh sản phẩm
- Trợ giúp chiến dịch quảng cáo, hoạt động tiếp thị và khuyến mại
- Quảng bá cho những sản phẩm mới
- Các hình thức tài trợ hay gặp thường dành cho thể thao, giáo dục, sự
kiện văn hóa, hoạt động từ thiện, trao giải thưởng…
* Quan hệ công chúng (PR)
PR viết tắt từ tiếng Anh Public Pealations có nghĩa là quan hệ công
chúng. Theo Viện PR Anh, PR là một nỗ lực có kế hoạch và kéo dài nhằm
xây dựng và duy trì sự hiểu biết nhau một cách thiện chí giữa một tổ chức và
công chúng của nó.
Theo nhà nghiên cứu Frank Jefkins, PR bao gồm mọi hình thức giao
tiếp (hướng ngoại và hướng nội) giữa một tổ chức và công chúng của nó
nhằm đạt được những mục đích cụ thể liên quan đến hiểu biết lẫn nhau.
Như vậy, PR nhằm mục đích tạo dựng sự hiểu biết giữa tổ chức và
công chúng của nó. Vì PR là hoạt động có kế hoạch của một tổ chức cho
nên đối với công chúng nó đặc biệt chú trọng vào việc xây dựng ý thức về
bản sắc doanh nghiệp, khắc phục những hiểu lầm và định kiến về tổ chức
(nếu có), giới thiệu, quảng bá về hoạt động của tổ chức, hay giới thiệu về
sản phẩm và dịch vụ cho công chúng. Những hoạt động PR của báo chí
hiện nay vẫn thường là thông tin về sự kiện, các bài viết giới thiệu doanh
nghiệp, doanh nhân.


19


* Tổ chức sự kiện
Đây là một trong những hoạt động trong lĩnh vực PR. Tổ chức sự kiện
là một quá trình hoạch định việc thực hiện và giám sát những hoạt động liên
quan đến các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, tuyên truyền, công bố tại một thời
điểm, một địa điểm nhất định và tuân thủ quy định pháp luật, sao cho sự kiện
diễn ra đúng mục đích của nhà tổ chức.
Đối với các doanh nghiệp, tổ chức sự kiện nhằm chỉ việc thiết lập một
kế hoạch phát triển nhằm thu hút sự chú ý của công chúng vào những người
tổ chức hoặc công việc của họ; góp phần giới thiệu và quảng bá cho thương
hiệu và sản phẩm của doanh nghiệp.
Tổ chức sự kiện chỉ là một phần trong toàn bộ chiến lược tiếp thị và
quảng bá của doanh nghiệp. Bên cạnh việc đánh bóng thương hiệu, tổ chức sự
kiện còn nhằm mục đích chuyển tải thông điệp cụ thể và đặc biệt là gây sự
chú ý cho sản phẩm hoặc dịch vụ của sản phẩm, tạo sự quan tâm hơn nữa từ
khách hàng, từ đó giúp tăng doanh số bán của công ty. Đồng thời, tạo cơ hội
để doanh nghiệp gặp gỡ, trao đổi và giao lưu với các đối tác, cơ quan truyền
thông, cơ quan công quyền giúp thúc đẩy thông tin hai chiều và tăng cường
quan hệ có lợi cho các doanh nghiệp. Thông điệp của sự kiện có thể được thể
hiện dưới dạng hình ảnh: (logo, mô hình, market), ngôn ngữ (slogan, chủ đề,
bài phát biểu, thông cáo báo chí, văn nghệ, các ấn phẩm…) Một số hoạt động
tổ chức sự kiện mà ta dễ dàng thấy được như khai trương, khánh thành, khởi
công, giới thiệu sản phẩm mới, hội nghị khách hàng, hội chợ, hội nghị, hội
thảo, họp báo, kỷ niệm thành lập…
Từ khi Việt Nam chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế thị trường,
tổ chức sự kiện đã trở thành một hoạt động được sử dụng phổ biến không kém
gì quảng cáo, kết hợp thường xuyên với hoạt động quảng cáo. Số lượng các
công ty chuyên về tổ chức sự kiện ngày càng nhiều.


20


1.2.2. Tăng cường chất lượng thông tin
* Khái niệm thông tin
Theo Philipppe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách “Bùng nổ
truyền thông”, khái niệm thông tin có hai hướng nghĩa: Thứ nhất là, nói về
một hành động cụ thể để tạo ra một hình thái (frome), thứ hai là, nói về sự
truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai hướng nghĩa này
cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến
thức và truyền đạt. Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến
thức. {8; tr 146}
Theo quan điểm của triết học, thông tin là một hiện tượng vốn có của
vật chất, là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất. Nội dung của thông
tin chính là những thuộc tính, tính chất vốn có của sự vật với các sự vật hiện
tượng được bộc lộ ra, thể hiện thông qua tác động qua lại của sự vật ấy với sự
vật khác. Thông tin luôn gắn với quá trình phản ánh. Những dấu ấn để lại
chính là những thông tin của hệ thống vật chất này đối với hệ thống vật chất
khác. Phản ánh của vật chất là phản ánh thông tin, không có thông tin chung
chung mà thông tin là thông tin về sự vật này đối với sự vật khác.
Theo Từ điển tiếng Việt thì thông tin với nghĩa là động từ là truyền tin
cho nhau để biết; và với nghĩa danh từ là điều được truyền đi cho biết, tin
truyền đi (ví dụ bài báo có lượng thông tin cao) [51; tr 542].
Như vậy, thông tin được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội
dung thông tin; Thứ hai, đó là phương tiện thông báo, báo tin.
Cách hiểu này phù hợp với khái niệm thông tin nêu trong phần mở đầu
“Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010” ban hành kèm theo Quyết định
số 219/2005/QĐ – TTg ngày 9/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ: “Thông tin
được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, là công cụ để điều
hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng



21

giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là nguồn cung cấp tri thức mọi
mặt cho công chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội”.
* Thông tin báo chí
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một
hiện tượng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức
của con người. Thông tin là một hiện tượng vốn có của thế giới vật chất. Theo
các nhà nghiên cứu, lần đầu tiên thông tin được con người chú ý về mặt ý
nghĩa xã hội của nó và được đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những
năm 20 – 30 của thế kỷ XX. Và từ đây, thông tin chính là những cái mới khác
với những điều đã biết.
Thông tin là chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng phương
tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo. Thực hiện
chức năng thông tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự
kiện của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự
nhiên, xã hội.
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lượng thông tin, báo chí có cách
riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp
xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó
đã khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và
năng động nhất mà không một hình thái ý thức xã hội nào có được.
Như vậy, thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực
cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội được
báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới
công chúng.
Trong hoạt động báo chí, thông tin là mục đích chủ yếu. Thông tin trở
thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn cứ việc phân loại theo



22

phương thức thể hiện, người ta chia thông tin báo chí thành các loại hình:
Thông tin bằng chủ yếu chữ viết (báo in); thông tin chủ yếu bằng tiếng nói
(phát thanh); thông tin chủ yếu bằng hình ảnh (truyền hình); thông tin trên
mạng internet (đa phương tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều dạng khác
nhau: có khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn;
có khi là một chương trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí
của tác phẩm trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay
cách xếp chữ trên các tờ báo… đều chứa đựng thông tin.
Thuật ngữ “Thông tin” trong hoạt động báo chí còn có có cách hiểu
rộng hơn, chúng còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi
toàn bộ tác phẩm, hay hệ thống những tin tức… là thông tin.
Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò của
thông tin. Đây không chỉ là phương tiện cung cấp thông tin, cung cấp tri thức,
là một trong những công cụ giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành đất nước mà
còn là nơi để phản hồi những thông tin từ nhân dân đối với đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan trọng
thực hiện dân chủ hoá trong đời sống xã hội. Thông tin thực sự là công cụ
cung cấp tri thức, dự báo sự phát triển đồng thời cũng là động lực thúc đẩy sự
phát triển. Đời sống nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng được
nâng cao nên nhu cầu thông tin của nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn.
* Tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin báo chí
Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự
vật. Chất lượng theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, là hai mặt có mối
quan hệ biện chứng của mỗi sự vật, hiện tượng. Chất là tính quy định vốn có
của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính,

những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự


×