Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận cao học Tìm hiểu về 2 ông tổ đầu tiên của nghề báo trương vĩnh ký và nguyễn văn vĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.72 KB, 20 trang )

Lịch sử báo chí Việt Nam
Đề bài: : Tìm hiểu về 2 ông tổ đầu tiên của nghề báo - Trương Vĩnh Ký
và Nguyễn Văn Vĩnh. Hai ông gắn bó với tờ báo nào, mục tiêu của những tờ
báo đó và ý nghĩa của nó đối với khởi thủy nền báo chí Việt Nam.

1


Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Văn Vĩnh được biết đến như hai ông tổ
của nghề báo Việt Nam. Để tìm hiểu về lịch sử phát triển của báo chí Việt
Nam thì tìm hiểu về hai nhân vật này là vô cùng cần thiết. Nó cho thấy thủa
sơ khai, báo chí Việt Nam đã có cội nguồn như thế nào, tôn chỉ của những tờ
báo đầu tiên,…
Bài tập xin được phép tìm hiểu về hai ông tổ nghề báo là Trương Vĩnh
Ký và Nguyễn Văn Vĩnh để phục vụ tốt hơn cho việc học môn Lịch sử báo
chí Việt Nam.
A: Trương Vĩnh Ký
I; Trương Vĩnh Ký- “học giả phương Đông”
Thân thế và cuộc đời:
Trương Vĩnh Ký có tên hồi nhỏ là Trương Chánh Ký, hiệu là Sĩ Tải.
Ông là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và khảo cứu văn hóa
tiêu biểu của Việt Nam.
Ông có tri thức uyên bác, am tường và có cống hiến lớn trên nhiều lĩnh
vực văn hóa cổ kim Đông Tây, nên được tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp,
được ghi tên trong Bách khoa Tự điển Larousse, và đứng vào vị trí "toàn cầu
bác học thập bát quân tử" tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới
thế kỷ 19. Ngoài ra, vì biết và sử dụng thông thạo 27 ngoại ngữ, nên ông trở
thành nhà bác học biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam, và đứng vào hàng
những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới [1].
Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch
thuật, ... Riêng đối với nền báo chí Quốc ngữ Việt Nam, ông được coi là "ông


tổ nghề báo Việt Nam", người đặt nền móng, bởi ông chính là người sáng lập,
là Tổng biên tập tờ báo quốc ngữ đầu tiên: Gia Định báo.

2


Tượng Trương Vĩnh Ký trong Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí
Minh
Ông sinh ngày 6 tháng 12 năm 1837 (tức năm Đinh Dậu, Minh Mạng
thứ 17) tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ
Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre). Vĩnh
Ký là con thứ ba (sau một anh cả và một người chị) của Lãnh binh Trương
Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu.
Lúc 5 tuổi, Vĩnh Ký cùng anh trai là Trương Chánh Sử được đi học chữ
Hán với một thầy đồ tên Học ở trong xóm dạy. Năm ông 8 tuổi, thân phụ ông
được triều đình cử đi phò tá đoàn sứ thần sang Cao Miên (Campuchia ngày
nay), rồi mất vì bệnh ở bên ấy.
Thấy ông ngoan và cần mẫn, Cố Tám (một tu sĩ Công giáo từng được
ông Thi che giấu lúc nhà Nguyễn cấm đạo gắt gao) đã khuyên mẹ ông cho
ông đi học chữ Quốc ngữ và cải theo đạo Công giáo. Sau đó, ông có tên là
Jean-Baptiste Pétrus Trương Chánh Ký, sau này đổi tên đệm là Pétrus Trương
Vĩnh Ký, viết và gọi tắt là Pétrus Ký.
Đến khi Linh mục Long từ Pháp sang, Cố Tám (ít lâu sau ông mất) cho
Pétrus Ký theo hầu nhà truyền giáo này. Thấy ông thông minh và ham học,

3


Linh mục Long đã tận tình dạy dỗ chữ Latinh, đồng thời dành riêng cho ông
một chỗ ở trong nhà Giảng vừa mới thành lập ở Cái Nhum (1846).

Năm 11 tuổi (1848), theo đề nghị của Linh mục Long, vị Giám mục
chủ quản xứ đạo lúc bấy giờ cho Pétrus Ký theo Cố Hòa (tức Linh mục người
Pháp Belleveaux), đang giữ chức Cai tại trường đạo Pinha-lu ở Phnom Penh
(Cao Miên). Ở đây, có các học sinh là người Cao Miên (Campuchia), Ai Lao
(Lào), Miến Điện (Myanma), Trung Quốc;... ông lân la làm quen và rồi học
luôn các thứ tiếng ấy.
Năm 1851, Pétrus Ký lại được gửi vào trường đạo Dulalma ở Penang
(đây là một hòn đảo nhỏ trên vùng biển Hạ Châu, tức Nam Dương, nay thuộc
Malaysia). Ban đầu, đoàn du học (có Linh mục Long đi theo) đi theo đường
bộ xuất phát từ Nam Vang, nhưng rồi đoàn bị lạc giữa rừng, lại gặp bão ở
Biển Hồ, nên phải trở về Sài Gòn để xuống tàu thủy qua Penang... Trong
khoảng thời gian theo học tại đây, ông còn học thêm các thứ tiếng khác, như:
Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Mã Lai, Nhật Bản, Hy Lạp, Thái Lan, Pháp,...
Năm 21 tuổi (1858), Trương Vĩnh Ký học xong và về nước đúng vào
lúc mẹ ông qua đời.
Lúc Pétrus Ký trở về quê hương Cái Mơn, cũng là lúc thực dân Pháp
đem quân sang xâm chiếm Việt Nam (Đà Nẵng bị tấn công ngày 1 tháng 9
năm 1858). Vì thế, việc cấm đạo Công giáo cũng diễn ra gay gắt hơn.
Không du học nữa, và cũng không thể ở quê nhà, Pétrus Ký chạy lên
Sài Gòn vào tá túc nhà vị Giám mục người Pháp Dominique Lefèbre, và được
ông này giới thiệu làm thông ngôn cho Jauréguiberry vào ngày 20 tháng 12
năm 1860.
Năm 1861 Pétrus Ký thành hôn với bà Vương Thị Thọ (con gái ông
Vương Tấn Ngươn, hương chủ làng Nhơn Giang [Chợ Quán] do Linh mục
Đoan họ đạo Nhơn Giang mối mai) và dời về cư ngụ ở Chợ Quán, Sài Gòn.

4


Ngày 8 tháng 5 năm 1862, Pháp thành lập trường Thông ngôn (Collège

des Interprètes), ông được nhận vào dạy. Cũng trong năm này, ông theo sứ
thần Simo đáp thuyền Forbin ra Huế bàn việc nghị hòa.
Năm 1863, triều đình Huế cử một phái đoàn do Phan Thanh Giản đứng
đầu sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, và ông Giản đã xin
Pétrus Ký đi theo làm thông ngôn.
Sang Pháp, Pétrus Ký cùng phái đoàn nhà Nguyễn được triều kiến
Hoàng đế Napoléon III, gặp nhiều nhân vật tên tuổi thuộc nhiều lãnh vực
khác nhau. Ngoài ra, ông còn được sang thăm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý
và được yết kiến Giáo hoàng tại Rôma. Ngày 18 tháng 3 năm 1864, phái đoàn
về đến Sài Gòn.
Năm 1865, Pétrus Ký xin lập một tờ báo quốc ngữ mang tên là Gia
Định báo. Lời yêu cầu của ông được chấp thuận và Nghị định cho phép xuất
bản được ký ngày 1 tháng 4 năm 1865, nhưng không phải ký cho ông mà lại
ký cho một người Pháp tên là Ernest Potteaux, một viên thông ngôn làm việc
tại Soái phủ Nam Kỳ. Mãi đến ngày 16 tháng 5 năm 1869 mới có Nghị định
của Chuẩn Đô đốc Ohier ký giao Gia Định báo cho Trương Vĩnh Ký làm
Giám đốc, Huỳnh Tịnh Của làm Chủ bút; và khi ấy tờ báo mới thật sự được
khởi sắc.
Từ năm 1866 đến 1868, ông được bổ làm Giáo sư dạy tiếng Pháp ở
trường Thông ngôn Sài Gòn.
Hay tin Pétrus Ký, một con người tài giỏi, sẽ ra làm việc với Pháp, một
số quan lại nhà Nguyễn đâm ra nghi kỵ ông. Nhưng sau nhiều toan tính, ông
nghĩ rằng phải làm việc để giúp đỡ đồng bào, nhất là lúc ấy, Pháp và Nam
triều chưa hiểu nhau, chưa thành thật với nhau. Pétrus Ký đã mượn câu cách
ngôn Latinh "Ở với họ mà không theo họ" ("Sic vos non vobis"), để biện
minh cho việc nhận lời làm thông ngôn cho Jauréguiberry. Mặc dù làm việc
cho thực dân Pháp, nhưng khi sưu tầm và chú thích bản Gia Định thất thủ
vịnh, Trương Vĩnh Ký vẫn gọi họ là “giặc”.
5



Năm 1869, Sứ thần Tây Ban Nha sang Việt Nam nhằm ký thương ước
với triều đình Huế. Tới Sài Gòn, vị sứ thần này đã xin Chính quyền Pháp ở
Nam Kỳ cho phép Pétrus Ký đi theo giúp đỡ. Nhiệm vụ hoàn thành, nhân thời
gian rãnh rỗi, ông sang thăm Hồng Kông, Ma Cao, Quảng Đông, Quảng
Tây,...
Ngày 8 tháng 11 năm 1870, ông có lời di huấn: Người đời sanh ký tử
quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể nhập thế
cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới
chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương
sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khói. Nên phải liệu sức, tùy
phận mà làm vai tuồng mình cho xong....
Năm 1872, Pétrus Ký được Pháp thăng chức Tri huyện hạng nhất, đồng
thời được bổ làm Đốc học (Giám đốc) trường Sư phạm dạy người Pháp học
tiếng phương Đông, kiêm chức thư ký Hội đồng châu thành Chợ Lớn (1 tháng
6 năm 1872).
Ngày 1 tháng 1 năm 1874, Pétrus Ký lãnh chức Giáo sư dạy chữ Việt
và chữ Pháp cho người Pháp và người Tây Ban Nha tại trường Tham biện
Hậu bổ (Collège des administrateurs stagiaires), rồi làm Chánh đốc học
trường ấy, đồng thời lãnh chức Ủy viên thượng Hội đồng Giáo dục (17 tháng
11 năm 1874). Cũng trong năm này, Pétrus Ký được bình chọn đứng hàng thứ
17 trong 18 "Thế giới Thập Bát Văn Hào"
Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ Duperré cử ông ra Bắc Kỳ tìm hiểu
tình hình miền Bắc. Khi về Sài Gòn, ông viết cuốn Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất
Hợi (1876).
Năm 1877, ông là hội viên duy nhất và đầu tiên người Nam, được cử
làm Ủy viên Hội đồng cai trị Sài Gòn.
Ngày 17 tháng 5 năm 1883, ông được Hàn Lâm Viện Pháp phong danh
hiệu Viện sĩ (Officier d'Académie).


6


Năm 1886, Paul Bert (nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật
học) được cử sang Đông Dương làm Khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vốn là
bạn từ trước, nên Paul Bert mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc. Khoảng
đầu tháng 6 năm ấy, Pétrus Ký ra Huế, được vua Đồng Khánh cho lãnh chức
trong Cơ mật viện Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ.
Ngày 11 tháng 11 năm đó, Paul Bert bất ngờ bị bệnh chết, Trương Vĩnh
Ký bị nhóm thực dân không cùng cánh bỏ rơi, bạc đãi; và bản thân Pétrus Ký
sau đó cũng bị triều đình Huế nghi kỵ và trù dập nên ông lấy cớ đau phổi xin
từ chức về lại Sài Gòn dạy học tại trường Hậu Bổ, trường Thông ngôn và viết
sách...
Mặc dù đã trở về đời sống của một viên chức, nhưng Pétrus Ký vẫn bị
người khác phe tìm cách hạ bậc lương và làm khó dễ việc vào ngạch Giáo sư
sinh ngữ Đông Phương của ông. Khi trước, lúc còn được ưu ái, những sách
của Pétrus Ký đều được nhà cầm quyền Pháp bỏ tiền ra in, để phân phối cho
học sinh. Nhưng từ khi bị hất hủi, lui về ẩn dật ở Chợ Quán, ông phải bỏ tiền
riêng ra in ấn và tự phát hành. Sách ế ẩm khiến Pétrus Ký phải mắc nhiều nợ.
Năm 1887, sau khi đi công tác ở Bangkok để giải quyết vấn đề giữa
Thái Lan và Đông Dương, ông nghỉ hưu.
Năm 1888, ông xuất bản tạp chí tư nhân Thông Loại Khóa Trình
(Miscellanées) được 18 số (1888-1889). Cũng trong năm này, trường Thông
ngôn đóng cửa, Pétrus Ký gần như thất nghiệp. Sống trong hoàn cảnh buồn
bã, túng quẫn, bệnh tật, Pétrus Ký qua đời vào ngày 1 tháng 9 năm 1898.
Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông), hiện
nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng thuộc quận 5, thành
phố Hồ Chí Minh.
Những tác phẩm để lại
Ông có trên một trăm tác phẩm, nhiều quyển rất đáng chú ý, như:

Truyện đời xưa
7


Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An Nam)
Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên)
Tiểu giáo trình Địa lý Nam Kỳ
Ký ức lịch sử Sài Gòn và vùng phụ cận
Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An Nam)
Voyage au Tonkin en 1876 (Chuyến đi ra Bắc Kỳ năm Ất Hợi, 1786)
Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An Nam)
Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites)
Lục súc tranh công
Cours de la langue mandarine ou des caractères chinois (Bài giảng
tiếng quan thoại hay chữ Trung Quốc)
Cours d'histoire annamite (Bài giảng lịch sử An Nam)
Dư đồ thuyết lược (Précis de géographie)
Đại Nam tam thập nhất tỉnh thành đồ
Cours de littérature annamite (Bài giảng văn chương An Nam)
Cours de géographie générale de l'Indochine (Bài giảng địa lý tổng quát
Đông Dương)
Đại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ
Grand Dictionnaire Annamite-Français (Đại tự điển An Nam-Pháp)
Nỗi lòng
v..v…
II; Tờ Gia Định báo- đứa con đầu của Trương Vĩnh Ký.
Đã 146 năm đi qua, Gia Định báo, tờ báo bằng “quốc ngữ âm tiếng
Lang Sa” (chữ Việt ngày nay), được phổ biến công khai ở Việt Nam. Công
khai vì trước đó chữ quốc ngữ chỉ phổ biến hẹp trong các xứ đạo, các nhà thờ
Thiên Chúa giáo và nội bộ giáo dân. Gia Định báo đã tạo dựng bước đi đầu

tiên cho sự phát triển báo chí, in ấn, văn học, ngôn ngữ...
Trong Courrier de Saigon số 7 ngày 5-4-1865, đăng lời rao về Gia Định
báo số đầu tiên như sau: “Trong tháng này sẽ ra số thứ nhất một tờ báo in
8


bằng tiếng An Nam thông thường. Dưới hình thức thu hẹp ấn bản sẽ gồm các
tin tức ở thuộc địa, giá cả nhiều loại hàng và một vài ý niệm hữu ích cho
người bản xứ. Tờ báo sẽ ra hằng tháng và sẽ phát không trong các trường học
để học sinh khá trong các làng mạc có thể đọc được...”. (Theo thư viện vn).
Cho tới nay, các tài liệu đều nhất trí Gia Định báo là tờ báo tiếng Việt
đầu tiên của làng báo Việt Nam và ra đời vào năm 1865.
Quá trình hình thành
Sau khi Trương Vĩnh Ký trở về nước vào năm 1865, Chuẩn đô đốc
Roze, khi đấy đang tạm quyền Thống đốc Nam Kỳ, đã mời ông ra làm quan.
Petrus Ký đã từ chối và xin lập một tờ báo quốc ngữ mang tên là Gia Định
báo. Lời yêu cầu của ông được chấp thuận và Nghị định cho phép xuất bản
được ký ngày 1 tháng 4 năm 1865, nhưng không phải ký cho ông mà lại ký
cho một người Pháp tên là Ernest Potteaux, một viên thông ngôn làm việc tại
Soái phủ Nam Kỳ. Và phải đến ngày 16 tháng 9 năm 1869 mới có Nghị định
của Chuẩn Đô đốc Ohier ký giao Gia Định báo cho Trương Vĩnh Ký làm
giám đốc, Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút. Đến năm 1897, Gia Định báo chấm
dứt hoạt động.
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Lê Nguyễn nhắc lại một cứ liệu xác
định Gia Định báo tồn tại đến ngày 31 tháng 12 năm 1909 (44 năm), và chính
thức đình bản vào 1 tháng 1 năm 1910.
Sau "Gia Định báo", nhà cầm quyền Pháp cũng cho phép phát hành một
số báo tư nhân khác ở Nam Kỳ thuộc địa như Phan Yên báo (1868), Nông cổ
mín đàm (1900), Lục tỉnh tân văn (1910).
Tôn chỉ, mục tiêu của tờ báo:

Gia Định báo phát hành trong phạm vi vùng chiếm đóng của thực dân
Pháp lúc đó là 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ. Gia Định báo có khổ 25x32cm và
giá 0,97 đồng/tờ. Thời gian đầu, báo ra mỗi tháng 1 kỳ vào ngày 15 hàng
tháng. Báo ra mỗi tháng 2 kỳ, rồi mỗi tuần 1 kỳ, tuy nhiên ngày ra báo của

9


Gia Định báo không cố định, khi thì thứ ba, thứ tư, lúc lại thứ bảy. Số trang
của Gia Định báo cũng không cố định, khi thì 4 trang, lúc 12 trang.
Nội dung chính của Gia Định báo ban đầu gồm 2 phần: công vụ và tạp
vụ. Phần công vụ chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, công quyền, đăng
các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân; còn phần
tạp vụ gồm các tin tức địa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo, văn hóa
- xã hội... Sau khi Trương Vĩnh Ký làm giám đốc, Gia Định báo được thêm
các phần khảo cứu, nghị luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm, khảo cứu,
sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích... Ông đề ra ba mục đích cho tờ báo:
Truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động tân học và khuyến học trong dân. Từ đó,
báo không chỉ làm một tờ công báo đơn thuần nữa.
"Cũng như một số văn sĩ sinh ra ở miệt vườn phương Nam, nhà báo họ
Trương chủ trương dùng một thứ chữ dễ dãi, như tiếng nói thường ngày,
không một chút chải chuốt, sang sửa, viết như nói, không hoa mỹ, cầu kỳ,
nhưng có ý thức giữ gìn sự trong sáng, phong phú của ngôn ngữ dân tộc,
nhưng không dung tục, thực dụng, ngôn ngữ vỉa hè, văn chương cống rãnh,
mà là ngôn ngữ của những người bình dân tự trọng, có văn hóa."
Ý nghĩa của tờ báo
Bước đầu, Gia Định báo có mục đích chủ yếu là công cụ thông tin của
thực dân Pháp ở Đông Dương với tư cách là một tờ công báo chuyên đăng các
công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân. Sau này, khi
Trương Vĩnh Ký chính thức làm giám đốc, tờ báo mới được phát triển mục

biên khảo, thơ văn, lịch sử... Từ đó, báo không chỉ làm một tờ công báo đơn
thuần nữa. Gia Định báo cũng có góp phần cổ động việc học chữ Quốc ngữ và
lối học mới, mở đường cho các thể loại văn xuôi Việt Nam in bằng chữ Quốc
ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí Việt Nam.
Báo Thông loại khóa trình- tờ báo tư nhân đầu tiên của Việt Nam:
Nguyệt san Thông loại khóa trình (báo kiểu sách đọc thêm, giải trí
mang mục đích giáo dục) do Trương Vĩnh Ký chủ trì, khuôn khổ 16 x 23,5
10


cm, phát hành hàng tháng tại Nam Kỳ trong những năm 1888-1889, là tờ báo
quốc ngữ tư nhân đầu tiên. Số báo số 1 ra vào tháng 5, 1888. Báo duy trì được
18 số, nhưng sau đó vì Trương Vĩnh Ký lâm vào hoàn cảnh quá túng quẫn,
bệnh tật liên miên, bị các phe cánh bên ngoài chèn ép nên buộc phải đóng
cửa.
B; Nguyễn Văn Vĩnh.
I; Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936) là nhà tân học, nhà báo, nhà văn, nhà
phiên dịch Việt Nam, nhà chính trị Việt Nam đầu thế kỷ 20. Khi viết bài, ông
ký nhiều bút danh: Tân Nam Tử, Quan Thành, Tông Gia, Lang Gia, Mũi Tẹt
Tử, Đào Thị Loan,....
Thân thế và sự nghiệp
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 15 tháng 6 năm 1882 tại nhà số 46, phố
Hàng Giấy, Thành phố Hà Nội.
Quê gốc của ông là làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, phủ Thường Tín,
tỉnh Hà Đông (nay thuộc xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà
Nội). Vì quá nghèo, cha mẹ ông phải bỏ làng quê ra ở nhờ nhà bà nghè Đại
Gia (tức ông nghè Phạm Huy Hổ) ở phố Hàng Giấy kiếm sống, và rồi sinh
ông tại đây.
Năm lên 8 tuổi, ông đi chăn bò thuê ngoài bãi sông Hồng. Sau đó, ông

phát hiện ở đình làng Yên Phụ (nay là Trường phổ thông cơ sở Mạc Đĩnh Chi,
Hà Nội) có lớp học do thầy giáo người nước ngoài phụ trách, dạy học sinh trở
thành thông ngôn (nhân viên phiên dịch).
Sau đó, ông về xin phép cha mẹ được thôi nghề chăn bò, để làm công
việc kéo quạt làm mát cho lớp học này. Ngồi cuối lớp kéo quạt, nhưng ông
vẫn chăm chú nghe giảng. Nhờ vậy, mà ông nói và viết được tiếng Pháp.
Được Hiệu trưởng D’Argence chú ý và nâng đỡ, đến kỳ thi tốt nghiệp,
ông được phép dự thi cùng với 40 học sinh khác, và đã đỗ thứ 12 khi mới 10
tuổi. Nhờ được đặc cách là học sinh chính thức của trường, nên ông được cấp
11


học bổng để theo học trường thông ngôn (Collège des Intreprêtes) niên khóa
1893-1896, và đã đỗ thủ khoa.
Năm 1896, 15 tuổi, ông làm thông ngôn ở Tòa sứ Lào Cai.
Năm 1902-1905, ông chuyển về Tòa sứ Hải Phòng và Bắc Giang. Thời
gian này ông làm cộng tác viên cho tờ Courrier d’Hai Phong (Thư tín Hải
Phòng) và tờ Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương).
Được Công sứ Bắc Giang Hauser đánh giá rất cao về tài mẫn tiệp và
khả năng nói tiếng Pháp của ông, nên đặc cách cho ông làm Chánh văn
phòng. Khi viên quan này được cử làm Đốc lý Hà Nội, ông cũng được đi
theo.
Dưới thời Toàn quyền Beau, nhờ sự giúp đỡ của Hauser, Nguyễn Văn
Vĩnh cùng với các bạn đồng chí hướng, lần lượt làm đơn xin thành lập Hội
Trí Tri (Hà Nội), Hội Dịch sách, Hội giúp đỡ người Việt đi sang Pháp du học,
Đông Kinh nghĩa thục (ông là người thảo điều lệ, viết đơn xin phép, và sau đó
là giáo viên tiếng Pháp của trường).
Năm 1906, ông cùng Hauser sang Pháp lo việc tổ chức gian hàng Bắc
Kỳ tại Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Được nhìn tận mắt nền văn minh
phương Tây, ông trở về nước với quyết tâm truyền bá Quốc ngữ và bài bác hủ

tục phong kiến để canh tân đất nước.
Tiếp đó, ông được Schneider mời biên soạn và in ấn tờ Đại Nam đồng
văn nhật báo (Tờ báo hàng ngày của nước Đại Nam chung một văn tự). Cũng
trong năm này, ông là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội nhân quyền
Pháp.
Năm 1907, sau khi ra được 722 số, tờ báo trên đổi tên là Đăng cổ tùng
báo (Tập báo khêu đèn gióng trống) do ông làm Chủ bút.
Lo ngại vì đường lối hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục, thực dân
Pháp ra lệnh đóng cửa trường vào tháng 11 năm 1907. Sau đó, họ còn cho bắt
giam Phan Chu Trinh, là một trong số giáo viên của trường.

12


Lập tức, Nguyễn Văn Vĩnh cùng với bốn người Pháp đồng ký tên đòi
thả Phan Chu Trinh. Việc làm này cùng với việc cho đăng báo bài Đầu Pháp
chính phủ thư của Phan Chu Trinh (dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt, rồi cho
đăng ở phụ trương tờ Đăng cổ tùng báo), khiến Nguyễn Văn Vĩnh bị chính
quyền thực dân gọi lên đe dọa.
Sau vụ Kháng thuế Trung Kỳ (tháng 3 năm 1908) và vụ Hà thành đầu
độc ở Hà Nội (tháng 6 năm 1908), thực dân Pháp liền cho đóng cửa Đăng cổ
tùng báo của ông, đồng thời cấm diễn thuyết, cấm lưu hành và tàng trữ các tác
phẩm của trường Đông Kinh nghĩa thục.
Năm 1908, ông được bầu vào Hội đồng thành phố Hà Nội. Cùng năm
này, ông xin ra tờ Notre Journal .
Năm 1910, ông xin ra tờ Notre Revue. Báo này ra được 12 số. Cùng
năm đó, ông Sài Gòn vào làm cố vấn cho tờ Lục tỉnh tân văn.
Năm 1913, ông trở lại Hà Nội làm Chủ bút tờ tuần báo Đông Dương
tạp chí (do Schneider sáng lập vào ngày 15 tháng 3 năm 1913). Sau đó, ông
được bầu vào Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ (sau đổi làm Viện dân biểu).

Năm 1914, ông kiêm luôn chức Chủ bút tờ Trung Bắc tân văn do
Schneider sáng lập.
Sau ngày 15 tháng 9 năm 1919, Đông Dương tạp chí ngừng xuất bản.
Thay thế nó là tờ Học báo (tờ báo của bậc tiểu học, Trần Trọng Kim lo việc
bài vở, Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ nhiệm). Cũng trong năm này, ông Vĩnh
mua tờ Trung Bắc tân văn và cho ra hàng ngày (đây là tờ báo hàng ngày đầu
tiên ở Bắc Kỳ.
Năm 1927, ông cùng với Vayrac lập tủ sách Âu Tây tư tưởng (La
pensée de l’Occident), rồi tổ chức in các sách do ông dịch thuật.
Năm 1929, ông được bầu vào Hội đồng Kinh tế và tài chính Đông
Dương.
Năm 1931, ông cho ra tờ “ L’Annam Nouveau”' (An Nam mới). Ông
làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút cho đến năm khi mất 1936.
13


Năm 1932, ông đi dự họp Đại Hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương
tại Sài Gòn. Trong một buổi họp, ông đã thay mặt giới doanh nghiệp phản đối
việc chuyển đồng tiền Đông Dương từ ngân bản vị sang kim bản vị, vì có lợi
cho ngân hàng Pháp, nhưng lại có hại cho nền kinh tế Đông Dương.
Khi đang họp thì Nguyễn Văn Vĩnh nhận được trát của tòa án đòi tịch
biên toàn bộ gia sản, sau nhiều lần “mặc cả” giữa Chính quyền và Nguyễn
Văn Vĩnh, nhà cầm quyền đòi Nguyễn Văn Vĩnh phải chấp nhận 3 điều kiện
sau:
- Chấm dứt việc đả phá Triều đình Huế và quan Thượng thư Phạm
Quỳnh.
- Đồng ý vào Huế làm Thượng thư.
- Dừng toàn bộ việc viết báo.
Thay vì không chấp nhận các điều kiện trên, sẽ bị đòi nợ bằng hình
thức xiết nợ (bắt buộc phải trả mặc dù khế ước vay là 20 năm) do đã vay một

khoản tiền lớn của Ngân hàng Đông Dương Dùng để mở Trung tâm sách Âu
Tây tư tưởng năm 1927.
Năm 1935, Chính quyền đổi ba điều kiện nêu trên với Nguyễn Văn
Vĩnh còn tệ hại hơn và bắt buộc phải chọn một điều kiện, đó là:
- Chấm dứt toàn bộ việc viết !
- Chấp nhận đi tù ( dù chỉ một ngày)!
- Sang Lào tìm vàng để trả nợ!
Tháng 3 năm 1936, Nguyễn Văn Vĩnh quyết định đi tìm vàng để trả nợ,
ông sang Sê Pôn (Lào) với một người Pháp có tên là A. Climentte, người này
lấy vợ Việt Nam, có đồn điền tại tỉnh Hưng Yên và cũng đang ngập nợ vì làm
ăn thua lỗ.
Ngày 1 tháng 5 năm ấy (1936), người ta tìm thấy Nguyễn Văn Vĩnh
một mình trên con thuyền độc mộc, một tay cầm bút và tay kia cầm quyển sổ,
trôi giữa dòng Sê Băng Hiêng (tên một nhánh của sông Sê Pôn), ngưòi dân
địa phương đưa con thuyền cập vào chân cầu Sê Pôn để chuyển lên trạm y tế
14


Sê Pôn. Nhà cầm quyền loan báo: Nguyễn Văn Vĩnh chết ngày 2 tháng 5 năm
1936 (lúc ấy, ông 54 tuổi). Sau đó, thi hài Nguyễn Văn Vĩnh được đưa về Hà
Nội để cử hành tang lễ trong 3 ngày, từ 6 đến 8 tháng 5 năm 1936.
Tại buổi lễ tang, đông đảo giới báo chí của cả ba kỳ đã đến tiễn đưa
ông dưới dòng chữ: "Kinh viếng Ông tổ của nghề báo".
Những tác phẩm để lại:
Những bài luận thuyết và ký sự sau được ông sáng tác:
Xét tật mình (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 6)
Phận làm dân (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 48)
Chỉnh đốn lại cách cai trị dân xã (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí
từ số 61)
Nhời đàn bà (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 5)

Hương Sơn hành trình (Hành trình thăm chùa Hương, đăng trên Đông
Dương tạp chí từ số 41 đến 45)
Một tháng với những người tìm vàng (viết dở dang).
Dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt
Thơ ngụ ngôn của La Fontaine (Fables de La Fontaine)
Truyện trẻ con của Perrault (Les contes de Charles Perrault).
Mai nương Lệ cốt (Manon Lescaut), tiểu thuyết của Abbé Prévost.
Ba người ngự lâm pháo thủ (Les trois mouquetaires), tiểu thuyết của
Alexandre Dumas.
Những người khốn khổ(Les Misérables), tiểu thuyết của Victor Hugo.
Miếng da lừa (La peau de chagrin), tiểu thuyết của Honoré de Balzac.
Guy-li-ve du ký (Les voyages de Gulliver), truyện của Jonathan Swift.
Tê-lê-mặc phiêu lưu ký (Les aventures de Télémaque), truyện của
Fénélon.
Bốn vở kịch của Molière: Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois
Gentilhomme), Giả đạo đức (Le misanthrope), Người bệnh tưởng (Le malade
imaginaire), Lão hà tiện (L'avare).
15


Tục ca lệ (Turcaret), kịch của Lesage .
Truyện các danh nhân Hy lạp và La Mã (Les vies parallèles des
hommes illustrés de la Grèce et de Rome)của Plutarque.
Rabelais của Emile Vayrac.
Le parfum des humanités (Sử ký thanh hoa) của Emile Vayrac.
Chàng Gil Blax xứ Xăngtizan (Gil Blas de Santillane), tiểu thuyết của
Lesage.
Ngoài ra còn những bài dịch về: Luân lý học (khởi đăng trên Đông
Dương tạp chí từ số 15) và triết học yếu lược (khởi đăng trên Đông Dương
tạp chí từ số 28).

Dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp: Kim Vân Kiều tân dẫn Pháp văn
(tức Truyện Kiều của Nguyễn Du). Đăng từng kỳ trên Đông Dương tạp chí' từ
số 18 trở đi.
Dịch từ chữ Hán sang tiếng Pháp: Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích,
đăng trên Đông Dương tạp chí, lớp mới, số 66-68.
II; Những tờ báo gắn kết với cuộc đời Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh được Schneider mời biên soạn và in ấn tờ Đại Nam
đồng văn nhật báo (Tờ báo hàng ngày của nước Đại Nam chung một văn tự).
Năm 1907, sau khi ra được 722 số, tờ báo trên đổi tên là Đăng cổ tùng báo
(Tập báo khêu đèn gióng trống) do ông làm Chủ bút.
Năm 1908, ông được bầu vào Hội đồng thành phố Hà Nội. Cùng năm
này, ông xin ra tờ Notre Journal .
Năm 1910, ông xin ra tờ Notre Revue. Báo này ra được 12 số. Cùng
năm đó, ông Sài Gòn vào làm cố vấn cho tờ Lục tỉnh tân văn.
Năm 1913, ông trở lại Hà Nội làm Chủ bút tờ tuần báo Đông Dương
tạp chí (do Schneider sáng lập vào ngày 15 tháng 3 năm 1913).
Năm 1914, ông kiêm luôn chức Chủ bút tờ Trung Bắc tân văn do
Schneider sáng lập.

16


Sau ngày 15 tháng 9 năm 1919, Đông Dương tạp chí ngừng xuất bản.
Thay thế nó là tờ Học báo (tờ báo của bậc tiểu học, Trần Trọng Kim lo việc
bài vở, Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ nhiệm). Cũng trong năm này, ông Vĩnh
mua tờ Trung Bắc tân văn và cho ra hàng ngày.
Năm 1931, ông cho ra tờ “ L’Annam Nouveau”' (An Nam mới). Ông
làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút cho đến năm khi mất 1936.
Như vậy, cuộc đời của Nguyễn Văn Vĩnh gắn với gần 10 tờ báo.
Nhưng tiêu biểu trong số đó, có Đông dương tạp chí có vẻ nổi bật hơn

cả.
III; Đông Dương tạp chí:
Đông Dương tạp chí (1913 - 1919), là tạp chí tiếng Việt đầu tiên xuất
bản tại Hà Nội (Việt Nam). Tạp chí ra ngày thứ Năm hàng tuần, do F. H.
Schneider, người Pháp gốc Đức, nhà kinh doanh ngành in tại Việt Nam sáng
lập, rồi đứng làm chủ nhiệm, giao chức chủ bút cho nhà báo Nguyễn Văn
Vĩnh.

Đông dương tạp chí
Đông Dương tạp chí vốn là một phụ bản (hay phụ trang) của tờ Lục
tỉnh tân văn xuất bản ở Sài Gòn. Số đầu tiên ra ngày 15 tháng 5 năm 1913 tại
Hà Nội. Số cuối cùng ra ngày 15 tháng 9 năm 1919. Tính ra, Đông Dương tạp
chí tồn tại được 6 năm 4 tháng thì đình bản.
17


Hậu thân của Đông Dương Tạp chí là tờ Học báo (Nguyễn Văn Vĩnh
làm Chủ nhiệm, Trần Trọng Kim làm Chủ bút), nhưng chỉ còn "giữ mục sư
phạm, nhường việc xây dựng học thuật cho Nam Phong".
Đông Dương tạp chí ra đời ngay sau vụ ném bom Khách sạn Hà Nội
ngày 26 tháng 3 năm 1913 của Việt Nam Quang phục hội do Phan Bội Châu
thành lập năm 1912.
Khi ấy, tinh thần của các tổ chức và của người dân đối kháng Pháp
đang lên cao. Vì vậy, tạp chí ra đời nhằm mục đích “đem văn chương học
thuật, đem ân huệ văn minh của nhà nước Lang Sa mà khua sáo cho lấp được
những lời gây loạn”. Ngoài ra, Đông Dương tạp chí còn có một mục đích sâu
xa hơn, đó là tuyên truyền cho chính sách “bảo hộ” của thực dân Pháp.
Mục tiêu của tờ báo
Các mục tiêu quan trọng mà các cây bút có tâm huyết trong Đông
Dương tạp chí hướng tới, đó là:

Tìm cách phổ biến chữ Quốc ngữ trong mọi tầng lớp dân chúng, với lối
hành văn ngắn gọn, rõ ràng và rành mạch.
Phá tan thành kiến xưa, chỉ xem văn vần hay lối văn biền ngẫu mới là
văn chương. Dùng lối văn xuôi gãy gọn để diễn đạt tư tưởng, để nghị luận và
phê bình văn học.
Truyền bá tư tưởng Âu Tây bằng cách dịch những tác phẩm hay của
nước ngoài, nhất là của Pháp. Bên cạnh đó, những tư tưởng cũ của nền văn
học Á Đông vẫn được nghiên cứu với tinh thần mới.
Đông Dương tạp chí ra đời không ngoài mục đích chính trị của thực
dân Pháp, cho nên ở giai đoạn đầu, tạp chí này đã đăng tải một số bài viết
chống lại phong trào cách mạng Việt Nam. Nội dung chỉ thật sự chuyên về
văn chương và sư phạm kể từ năm 1915 (tức là khi nó đổi thành khổ nhỏ).
Các chuyên mục của tạp chí là: lịch sử, phong tục, cổ văn, cổ học, dịch
thuật.

18


Các nhà văn cộng tác thường xuyên cho báo (gọi tắt là nhóm Đông
Dương tạp chí) có:
Phái tân học, gồm: Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ bút), Phạm Quỳnh (trước
khi làm chủ bút Nam Phong tạp chí), Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn, Trần
Trọng Kim,...
Phái cựu học, gồm: Tản Đà, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Dương
Bá Trạc,..
Ý nghĩa tờ báo
Mặc dù Đông Dương tạp chí ra đời không ngoài mục đích chính trị của
thực dân Pháp... Nhưng họ đã thất vọng vì các cây bút viết cho báo không
theo đúng mục đích chính trị, mà chỉ cốt thực hiện một nền quốc văn mới cho
dân tộc...Có thể nói đây là một tạp chí, trước nhất chuyên về việc dịch thuật

Hán văn và Pháp văn, nhằm mục đích nâng cao dân trí. Bên cạnh đó, nhóm
Đông Dương tạp chí cũng đã sáng tác nhiều loạt bài với lối văn bình dị, nhắm
vào việc giáo dục giới thanh niên trên con đường tiến hóa…Sau khi gạt bỏ
những gì có tính chất chính trị mà thực dân Pháp đã dụng ý, Đông Dương tạp
chí quả thật là đã có công xây dựng một cơ sở vững vàng cho nền quốc văn
mới trong lịch sử văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ 20.
C. Kết
Cuối cuộc đời, Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Văn Vĩnh đều phải chịu
cảnh cô độc. Nhưng những đóng góp của hai người cho nền báo chí Việt Nam
lại vô cùng lớn lao. Cả hai ông đều là những nhà báo đầu tiên, là ông tổ báo
chí của nền báo chí Việt Nam
Tờ Nam Định báo cũng mang một ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn, là
bước ngoặt, là dấu chấm đỏ cho sự phát triển, hình thành báo chí Việt Nam
thực sự chứ không còn ở hình dạng phôi thai. Nguyễn Văn Vĩnh với những
đóng góp không ngừng của ông đối với báo chí là vô cùng to lớn, đối với tờ
Đông Dương tạp chí, nó là những chỉ dẫn học thuật, khai phá được quốc văn,
mở mang nhiều thứ, thực hiện được những mục đích đúng đắn của báo chí.
19


20



×