Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

THÔNG TIN CHÍNH TRỊ XÃ HỘI VỚI VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 171 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

NGUYN TH HU

THÔNG TIN CHíNH TRị - Xã HộI VớI VIệC
RA QUYếT ĐịNH CủA ĐộI NGũ CáN Bộ CHủ CHốT
CấP CƠ Sở VùNG ĐồNG BằNG SÔNG HồNG HIệN NAY
Chuyờn ngnh

: CNDVBC & CNDVLS

Mó s

: 62 22 80 05

LUN N TIN S TRIT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS TRN VN PHềNG

H NI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong
luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng.
Những kết quả khoa học của luận án chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả luận án



Nguyễn Thị Huệ


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI

1.1. Những công trình đề cập đến thông tin, thông tin chính trị - xã
hội, vai trò thông tin, ra quyết định quản lý
1.2. Những công trình đề cập đến tác động của thông tin trong quản
lý, về thực trạng môi trường thông tin và đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở
Chương 2: THÔNG TIN CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VỚI VIỆC RA QUYẾT
ĐỊNH CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. Thông tin chính trị - xã hội - bản chất, đặc điểm
2.2. Vai trò của thông tin chính trị - xã hội trong việc ra quyết định
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò của thông tin
chính trị - xã hội trong việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở
Chương 3: MÔI TRƯỜNG THÔNG TIN CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ
VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ THÔNG TIN CHÍNH TRỊ - XÃ
HỘI ĐỂ RA QUYẾT ĐỊNH CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP

CƠ SỞ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG - THỰC TRẠNG
VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng môi trường thông tin chính trị - xã hội vùng Đồng
bằng sông Hồng
3.2. Thực trạng phát huy vai trò thông tin chính trị - xã hội đối với
việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng
Đồng bằng sông Hồng hiện nay
3.3. Một số vấn đề đặt ra từ hiện trạng môi trường thông tin và thực
trạng phát huy thông tin chính trị - xã hội đối với việc ra quyết
định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng Đồng bằng sông
Hồng hiện nay
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG
VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CẤP CƠ SỞ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
HIỆN NAY

4.1. Một số phương hướng cần thực hiện trong việc phát huy vai trò của
thông tin chính trị - xã hội đối với việc ra quyết định của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng Đồng bằng sông Hồng hiện nay
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy có hiệu quả vai trò của
thông tin chính trị - xã hội với việc ra quyết định của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng Đồng bằng sông Hồng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

6

6
14
22
22
40
65

76
76
94

110

119
119
127
148
151
152
163


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

CBCC

:

Cán bộ chủ chốt


CCHC

:

Cải cách hành chính

CMTT

:

Cách mạng thông tin

CNTT

:

Công nghệ thông tin

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội


ĐBSH

:

Đồng bằng sông Hồng

ĐBSCL

:

Đồng bằng sông Cửu Long

HTCT

:

Hệ thống chính trị

KH-KT

:

Khoa học - kỹ thuật

TDMNPB

:

Trung du miền núi phía Bắc


UBND

:

Ủy ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Trang
Biểu đồ 3.1: Phân bổ thuê bao Internet băng rộng theo vùng miền năm 2008

79

Biểu đồ 3.2: Mật độ sử dụng Internet theo vùng, miền năm 2008

80

Biểu đồ 3.3: Điểm tổng hợp trục nội dung 1: Tham gia của người dân
ở cấp cơ sở (2013)
Biểu đồ 3.4: Điểm tổng hợp Trục nội dung 2: Công khai, minh bạch (2013)

90
91


Sơ đồ 2.1: Chu trình tiếp nhận, xử lý thông tin để đưa ra quyết định
của CBCC cấp cơ sở

52

Sơ đồ 2.2: Các cấp độ tư duy của con người

72

Sơ đồ 2.3: Cơ chế về năng lực tiếp nhận, xử lý thông tin chính trị - xã hội

74


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thông tin là một trong những nhu cầu sống còn của con người, để tồn tại
và phát triển con người không thể thiếu thông tin. Ngày nay, thông tin
(Information) cùng với con người (Men), máy móc (Machines), vật liệu
(Materials), vốn (Money) đã trở thành những nguồn tài nguyên không thể
thiếu trong quá trình phát triển xã hội. Đặc biệt với sự xuất hiện của thông tin
đã tạo ra một sự thay đổi lớn mang tính cách mạng về phương thức làm việc
cũng như quá trình phát triển của thế giới công nghiệp mà yếu tố dẫn đạo là
kinh tế tri thức. Thông tin đã trở thành một trong những lực lượng sản xuất
vật chất quan trọng trong hoạt động kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia.
Hiện nay, việc nghiên cứu thông tin ở nước ta vẫn là một công việc mới
mẻ, hấp dẫn và phức tạp, vì đối tượng của nó đã và đang trở thành thành đề
tài nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn cao cho các khoa học cụ thể như: triết học,

kinh tế học, chính trị học.... Dù vậy, thực tế cho thấy, chúng ta có rất ít kinh
nghiệm và thành quả của các nhà khoa học đi trước để lại. Vấn đề này đã tạo
nên tính cấp thiết và tính hấp dẫn của việc nghiên cứu. Trong khi đó, xã hội
càng phát triển, tác động của thông tin càng lớn. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động
thực tiễn khác nhau chúng ta sẽ chịu sự tác động chủ yếu của một loại hình
thông tin nhất định. Đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ CBCC
các cấp nói chung và cấp cơ sở nói riêng, bên cạnh việc chịu sự tác động của
các loại hình thông tin khác, thì loại hình thông tin chính trị - xã hội luôn
đóng vai trò quan trọng. Điều này, được thể hiện trực tiếp trong việc ra quyết
định - khâu quan trọng nhất trong chu trình hoạt động lãnh đạo, quản lý của
đội ngũ CBCC cấp cơ sở. Hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ
CBCC cấp cơ sở phụ thuộc nhiều vào chất lượng ra quyết định. Trong đó,
thông tin chính trị - xã hội vừa là căn cứ, vừa là một phần nội dung của quyết


2
định mà thiếu nó CBCC sẽ không đủ điều kiện để ra quyết định đúng, sát thực
với chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng
như không thể đưa ra phương án giải quyết triệt để các mâu thuẫn sự việc
phát sinh ở cơ sở.
Đồng bằng sông Hồng có vị trí chiến lược quan trọng đối với sự phát
triển của cả nước. Điều này, đòi hỏi sự cần thiết phải nâng cao chất lượng các
quyết định của đội ngũ CBCC cấp cơ sở vùng ĐBSH. Một trong những chìa
khóa dẫn đến hiệu quả các quyết định đó là việc sử dụng tính hiệu dụng của
loại hình thông tin chính trị - xã hội trong việc ra quyết định của đội ngũ này.
Vì, thông tin chính trị - xã hội sẽ là cơ sở, điều kiện cần thiết để tiến hành
quản lý xã hội; tùy theo chất lượng nó có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm tốc độ
phát triển của hệ thống xã hội và cuối cùng quyết định sự thành công hay thất
bại của cả quá trình quản lý xã hội. Với ý nghĩa đó, thông tin chính trị - xã hội
giúp cho đội ngũ CBCC cấp cơ sở ra được quyết định có tính khả thi cao,

được ban hành đúng lúc, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Tuy nhiên tính khả thi, tính khoa học của quyết định mà đội ngũ CBCC
cấp cơ sở đưa ra lại phụ thuộc nhiều vào năng lực tiếp nhận, xử lý thông tin
nhằm làm cho thông tin chính trị - xã hội đã thu nhận được trở thành tri thức
để áp dụng vào hoạt động lãnh đạo quản lý. Trên thực tế, do những nguyên
nhân khách quan và chủ quan khác nhau, việc tiếp nhận và xử lý các nguồn
thông tin chính trị - xã hội trong việc ra quyết định của đội ngũ CBCC cấp cơ
sở ở ĐBSH còn nhiều hạn chế, dẫn đến hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý
cấp cơ sở chưa cao. Đây đang là một thách thức không nhỏ đối với đội ngũ
CBCC cấp cơ sở vùng ĐBSH, đặc biệt là khi chúng ta đang hội nhập ngày
càng sâu rộng vào mọi mặt của đời sống quốc tế.
Làm thế nào để phát huy được vai trò của thông tin chính trị - xã hội trong
việc ra quyết định của đội ngũ CBCC cấp cơ sở hiện nay đang là vấn đề bức xúc.
Điều mà chúng ta cần làm hiện nay là trang bị cho đội ngũ cán bộ những kỹ


3
năng và kiến thức để làm chủ thông tin. Tức là giúp họ rèn luyện kỹ năng nhận
dạng nhu cầu thông tin bản thân, định vị nguồn thông tin phù hợp với những nhu
cầu đó, tổ chức nguồn thông tin tìm được một cách hợp lý, thẩm định nguồn
thông tin đã được lựa chọn, và sử dụng thông tin đó trong việc ra quyết định của
mình. Để từ đó có một quyết định kịp thời, hiệu quả đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Từ nhận thức này, tác giả đã lựa chọn vấn đề: Thông tin chính trị - xã hội
với việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng đồng bằng
sông Hồng hiện nay, làm luận án tiến sĩ triết học. Đề tài này vừa có ý nghĩa là
một đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản, vừa góp phần giải quyết các vấn đề
thực tiễn trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của vùng cũng như đối với
công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu

Dưới góc độ tiếp cận triết học, luận án phân tích làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn phát huy vai trò của thông tin chính trị - xã hội trong việc ra
quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng sông Hồng, từ đó,
đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả vai trò
thông tin chính trị - xã hội trong việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận án cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ bản chất, đặc điểm, vai trò, tầm quan trọng của thông tin
chính trị - xã hội trong việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng phát huy vai trò thông tin chính
trị - xã hội trong việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy có hiệu quả vai trò thông tin chính trị - xã hội trong việc ra quyết định của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay.


4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu thông tin chính trị
- xã hội trong việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Việt
Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu thông tin chính trị - xã hội và
vai trò của nó trong việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
vùng đồng bằng Sông Hồng, gồm có 10 tỉnh: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nội, Hà
Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình (chủ
yếu là trưởng, phó các chức danh).
Mốc thời gian để tiến hành khảo sát là bắt đầu từ năm 2001 cho đến
nay (Kể từ khi nước ta thực hiện đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà
nước; thực hiện quyết định 136/2001 của Thủ tướng Chính phủ về cải cách

hành chính; Luật công nghệ thông tin ra đời vào 29/6/2006, cho đến nay).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng các nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là lý luận nhận thức
mácxit. Vận dụng các quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, coi trọng phát triển công nghệ. Đồng thời,
luận án, tác giả kế thừa những thành tựu khoa học đã có ở một số công trình có
liên quan đến đề tài của các tác giả trong và ngoài nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ của luận án, qua đó đạt được các mục đích
nghiên cứu đặt ra, luận án vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận
mácxit, đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như; phân tích và tổng
hợp, thống nhất lịch sử và logic, quy nạp diễn dịch, phương pháp điều tra
khảo sát, phương pháp hệ thống, kết hợp với phương pháp so sánh,v.v...


5
5. Đóng góp về khoa học của luận án
- Làm rõ các khái niệm cơ bản, đặc điểm và ý nghĩa triết học của thông
tin, thông tin chính trị - xã hội, từ đó khẳng định vai trò đặc biệt của nó trong
việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
- Chỉ ra sự tác động của thông tin chính trị - xã hội và những hệ quả của
sự tác động đó trong việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
vùng đồng bằng sông Hồng.
- Phân tích chỉ ra được những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát huy vai trò
của thông tin chính trị - xã hội trong việc ra quyết định của CBCC cấp cơ sở
vùng ĐBSH; trên cơ sở đó đưa ra phương hướng và kiến nghị giải pháp nhằm
phát huy có hiệu quả vai trò thông tin chính trị - xã hội trong việc ra quyết
định của đội ngũ CBCC cấp cơ sở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận, luận án góp phần xác định và luận giải vai trò của thông
tin chính trị - xã hội đối với việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở.
Về mặt thực tiễn, trong chừng mực nhất định, luận án có thể được dùng
làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu khoa học và hoạt động thực
tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung của luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Vấn đề phát huy vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với việc ra
quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đang là vấn đề bức xúc
trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Đảng và Nhà nước ta đã có
những thay đổi cả về văn bản lẫn phương án hoạt động thực tiễn ở cơ sở để
tạo ra sự phát triển trong hệ thống chính trị đồng bộ, hiệu quả từ cơ sở đến
trung ương. Tuy nhiên, việc làm trên chưa được đầu tư và quan tâm thích
đáng. Liên quan đến nội dung đề tài có các công trình nghiên cứu theo các
hướng sau:
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP ĐẾN THÔNG TIN, THÔNG TIN
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI, VAI TRÒ THÔNG TIN, RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ

1.1.1. Nhóm các công trình dưới góc độ là cơ sở lý luận, phương pháp
nghiên cứu chuyên nghành
Công trình liên quan đến thông tin của các tác giả nước ngoài, luận án

tham khảo chủ yếu hai công trình sau:
Về tác động của thông tin trong quản lý xã hội, không thể không kể đến
nghiên cứu của tác giả V.G.Afanaxep trong tác phẩm “Thông tin xã hội và
quản lý xã hội” [2]. Điểm nổi bật là, tác phẩm này đã đưa ra những cách hiểu
khác nhau về thông tin, nguồn gốc, đặc điểm và vai trò của thông tin trong
quản lý xã hội. Tác giả cho rằng, một hệ thống xã hội vận hành có ích nhằm
mục đích thu được những giá trị vật chất và tinh thần phụ thuộc vào việc sử
dụng hợp lý năng lượng “sức mạnh thông tin” của xã hội. Nếu không có
thông tin con người không thể khám phá ra năng lượng, không thể tìm ra
những hình thức năng lượng mới, không thể sử dụng năng lượng có hiệu quả.
Từ đó, tác giả khẳng định sự tiến bộ của xã hội nói chung phụ thuộc vào mức
trang bị vật chất - năng lượng thông tin. Đặc biệt, tác giả khẳng định, thông


7
tin xã hội bao giờ cũng mang tính giai cấp và trong xã hội, xã hội chủ nghĩa
thì thông tin có vai trò to lớn. Nó phục vụ toàn xã hội và mỗi người, bắt chúng
phục tùng những mục đích phát triển cá nhân một cách hài hòa, toàn diện. Tác
giả viết: Hệ thống thông tin đang đóng vai trò ngày càng to lớn trong sự phát
triển xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó phục vụ việc giao tiếp giữa người với người,
giữa các tập đoàn xã hội, giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, nó giúp
con người nắm vững thế giới quan khoa học, giúp họ phân tích những hiện
tượng và quá trình đa dạng trong đời sống xã hội, nâng cao trình độ văn hóa và
học vấn của mình.... [2, tr.9].
Đồng thời, tác giả cũng khẳng định nghiên cứu của mình dựa trên cơ sở
phương pháp luận mácxit và sử dụng các thành tựu của toán học, điều khiển
học, tâm lý học và các khoa học kỹ thuật khác để lý giải mặt chất lượng của
thông tin xã hội. Chúng tôi hoàn toàn tán đồng với hướng nghiên cứu trên,
đặc biệt tác giả khẳng định thông tin xã hội tác động lớn đối với quá trình
phát triển của xã hội và việc sử dụng sức mạnh thông tin lại phụ thuộc vào

chủ thể. Tuy nhiên, quan niệm thông tin mang tính giai cấp cần được cân nhắc
xem xét thêm.
A.L.Levin, với bài viết “Phát triển bền vững và xã hội thông tin, xu
thế, vấn đề, mâu thuẫn” [70]. Trong bài viết này, tác giả bàn sâu về mối quan
hệ của phát triển bền vững và xã hội thông tin trong nền văn minh đương đại.
Tác giả cho rằng, hai trạng thái này của xã hội có những khía cạnh khác nhau:
đặc trưng xã hội thông tin là sự tương tác hệ thống các mối quan hệ qua lại
“con người - kỹ thuật” và “con người - con người”; phát triển bền vững đang
hình thành các mối quan hệ trong hệ thống “con người - giới tự nhiên” hay
“xã hội - giới tự nhiên”. Xã hội thông tin và phát triển bền vững có liên hệ
gắn bó, rằng buộc nhau, trong đó xã hội thông tin là cái chiếm vị trí có ý
nghĩa quy định trong hệ thống “con người - giới tự nhiên”, còn phát triển bền
vững phụ thuộc trực tiếp vào nó. Theo tác giả, việc phải tìm được sự cân bằng
tự nhiên giữa nhu cầu vận hành của môi trường xung quanh và nhu cầu vật


8
chất có xu hướng gia tăng của con người là một mục tiêu của phát triển bền
vững. Bởi vì, trên thực tế, sự phát triển tự phát theo cơ chế thị trường của quá
trình tin học hóa trên thế giới, không thể hạn chế được nhu cầu của con người
về tài nguyên vật chất, do đó trong xã hội thông tin, cộng đồng thế giới vẫn
đang đối mặt với vấn đề cũ là thảm họa sinh thái. Bằng những phân tích lý
luận và luận chứng thực tiễn sâu sắc, tác giả cho chúng ta thấy, sự tiến bộ của
khoa học công nghệ thông tin là điều kiện quan trọng cho xã hội phát triển
trong xã hội hiện đại, song nó cũng kéo theo những biến đổi xã hội dưới nhiều
hình thức khác nhau. Điều này, cung cấp cho chúng ta cách nhìn mới về sự
tác động của thông tin trong quản lý xã hội hiện đại và vai trò chủ thể quyết
định đối với sự phát triển của xã hội.
Cùng với hướng nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới, các nhà
khoa học trong nước cũng bàn đến khái niệm thông tin như là cơ sở lý luận và

phương pháp luận cho các nghiên cứu khác. Tiêu biểu như các công trình:
Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Thị Duy Hoa, Thông tin và vấn đề tiếp
nhận xử lý thông tin của tư duy người Việt Nam [53]. Trong công trình nghiên
cứu này, tác giả Lê Thị Duy Hoa đã có những luận giải xác đáng ở nội dung
sau: bản chất thông tin; đặc điểm tư duy người Việt trong quá trình tiếp nhận,
xử lý thông tin; trên cơ sở đó, tác giả xây dựng một số các giải pháp có tính
thực tiễn cao góp phần nâng cao năng lực tiếp nhận, xử lý thông tin của người
Việt Nam. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định của tác giả về bản chất
của thông tin, cách phân loại thông tin. Đặc biệt rất trân trọng tác giả đã luận
giải năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin của tư duy người Việt Nam. Những
luận cứ và luận chứng của tác giả về lý luận và thực tiễn của quá trình tiếp
nhận, xử lý thông tin trong tư duy của người Việt chưa thật sự đầy đủ trong
bối cảnh phát triển xã hội hiện nay, song những phân tích, đánh giá của tác
giả sẽ là nền tảng để chúng tôi kế thừa, sử dụng trong nghiên cứu của mình.
Công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương, Công nghệ
thông tin và tác động của nó đối với xã hội hiện đại [63]. Dưới góc độ triết


9
học luận án đã làm rõ sự tác động của công nghệ thông tin đối với xã hội hiện
đại nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng:
Một là, tác giả khẳng định, công nghệ thông tin cung cấp cho chúng ta
những quan điểm, phương pháp khoa học, phương tiện, công cụ và giải pháp
kỹ thuật hiện đại nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
tài nguyên thông tin trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa của
con người. Đồng thời, công nghệ thông tin cũng là công cụ để con người biểu
hiện mức độ phản ánh của mình đối với tự nhiên.
Hai là, cuộc cách mạng công nghệ thông tin hiện đại hiện nay đang
tác động vào tổng thể đời sống xã hội, từ lĩnh vực kinh tế, văn hóa đến lĩnh
vực tinh thần. Trong đó, tác động của công nghệ thông tin đối với lĩnh vực

kinh tế, tác giả luận giải sự tác động này trong hoạt động sản xuất xã hội,
trực tiếp từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất. Trong lĩnh vực chính
trị, công nghệ thông tin tác động nội dung các vấn đề: dân chủ, bình đẳng,
quyền lực. Đối với lĩnh vực văn hóa, công nghệ thông tin tác động mạnh
mẽ đến cách nhìn nhận của con người về thế giới, về mối quan hệ giữa
người và người. Sự thay đổi này thể hiện rõ trong nhận thức, đạo đức, lối
sống của con người.
Ba là, trên cơ sở luận giải sự tác động công nghệ thông tin đối với tổng
thể đời sống xã hội, tác giả đã phân tích sự tác động đó đối với xã hội Việt
Nam hiện nay. Theo tác giả, hiện trạng xã hội Việt Nam hiện nay là sự đan
xen rất phức tạp của các nền văn minh nhân loại đã và đang trải qua. Điều này
vừa tạo ra cho nước ta những cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế một cách thiết
thực và hiệu quả, song cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức, thậm chí xuất
hiện các nguy cơ: sự tụt hậu hơn về kinh tế; phát triển kinh tế không bền vững; bất
ổn về chính trị; mất phương hướng trong tiếp nhận các giá trị văn hóa,...
Bốn là, tác giả xây dựng các nhóm giải pháp về kinh tế, kỹ thuật; về
chính trị - pháp luật; về văn hóa, giáo dục, nhằm khai thác tác động tích cực
của công nghệ thông tin trong phát trển xã hội toàn diện.


10
Hướng nghiên cứu của tác giả có nhiều giá trị khoa học nhưng mối
quan hệ giữa thông tin chính trị - xã hội và công nghệ thông tin nói riêng vẫn
còn là mảng trống còn bỏ ngỏ. Vì vậy, vai trò của công nghệ thông tin với tư
cách là “cầu nối” là “phương tiện” chuyển hóa thông tin và tri thức (chính là
quá trình xử lý thông tin) tác động đến tổng thể đời sống xã hội cũng chưa
được làm sáng tỏ.
Tóm lại, với hướng nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới và
trong nước cho thấy, thông tin, công nghệ thông tin tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội hiện đại. Song, vấn đề thông tin chính trị - xã hội với việc ra

quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng đồng bằng sông Hồng
hiện nay vẫn là một mảng đề tài còn trống, cần tiếp tục được nghiên cứu.
Nghiên cứu vấn đề này sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách trong giai
đoạn hiện nay khi Đảng, Nhà nước thực hiện chiến lược “đi tắt, đón đầu”
phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Dưới sự luận giải của triết học, tác giả luận án sẽ đi sâu nghiên cứu nội
dung đó. Trong quá trình triển khai đề tài, các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học trên sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho tác giả luận án.
1.1.2. Nhóm các công trình đề cập đến ra quyết định trong quản lý
dưới góc độ là cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trước hết, là các công trình tiêu biểu của các nhà nghiên cứu nước ngoài:
Nhà nghiên cứu tâm lý học Anh, Jonathan Baron (1994), trong tác
phẩm “Suy nghĩ và quyết định” cho rằng, quá trình ra quyết định thực chất
là quá trình tư duy của chủ thể. Trong cuộc sống luôn xuất hiện các tình
huống, buộc chủ thể phải suy nghĩ và quyết định phải làm thế nào? [140].
Tác giả A.I. Kitốp, “Những đặc điểm tâm lý của việc thông qua những
quyết định quản lý” [68], khẳng định, việc thông qua những quyết định quản
lý là một trong những chức năng quan trọng nhất của người lãnh đạo các cấp.
Song theo tác giả, để người lãnh đạo đưa ra được quyết định, chuẩn bị tổ chức
thực hiện quyết định... đạt hiệu quả cần phải có những kiến thức sâu sắc trên


11
nhiều lĩnh vực khoa học trong đó có yếu tố tâm lý. Tác giả chỉ ra ba năng lực
tham gia vào quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý.
Đó là, năng lực chẩn đoán; năng lực sáng tạo; năng lực tổ chức. Như vậy, tác
giả mới xem xét vai trò của các quá trình tâm lý trong việc ra quyết định mà
chưa xem xét vai trò của thông tin, nhất là thông tin chính trị - xã hội.
Trong cuốn sách “Management” (quản lý) [144] của nhà khoa học
Stephen P.Robbins nghiên cứu việc ra quyết định theo cách xác định tình huống.

Ông khẳng định việc ra quyết định của chủ thể quản lý dựa trên hai tình huống.
Đó là: tình huống đã xác định được vấn đề (tức là có đầy đủ thông tin) và tình
huống khó xác định vấn đề (tức là khi thông tin chưa đầy đủ nhưng thực tế vẫn
đòi hỏi có quyết định). Trong hai tình huống đó vai trò của tư duy logic, kinh
nghiệm, khả năng trực giác của chủ thể rất quan trọng. Nói cách khác, lúc này
nghệ thuật xử lý thông tin của chủ thể sẽ quyết định đến hiệu quả quản lý.
Nghiên cứu này, là nguồn tài liệu tham khảo khá tốt cho tác giả luận án.
Cuốn sách “Bí mật của các doanh nghiệp chưa hề thất bại” [134] của
tác giả Uwayaki, nhà nghiên cứu chiến lược kinh doanh Nhật Bản. Với việc ra
quyết định, tác giả khẳng định: sự quyết đoán của nhà doanh nghiệp là mấu
chốt cho sự phát triển của doanh nghiệp. Quyết đoán là sự cần thiết song chưa
đủ, điều quan trọng là thực hiện các quyết định đề ra. Các quyết định quản lý
không phải ngẫu nhiên mà có, để có các quyết định đúng đắn đòi hỏi người
cán bộ quản lý phải có bản lĩnh, có kiến thức, có năng lực tư duy, khả năng
phán đoán tốt… Tác giả cũng khẳng định, trong cuộc sống hằng ngày cũng
như trong lĩnh vực hoạt động của mình, chúng ta phải đưa ra những quyết
định để giải quyết các vấn đề đặt ra. Nếu quyết định đúng lúc, kịp thời, khoa
học thì hiệu quả chất lượng cuộc sống được nâng lên.
Cuốn sách “Tâm lý học tiêu dùng” của Học viện tài chính mậu dịch Bắc
Kinh (Trung Quốc), do Mã Nghĩa Hiệp chủ biên [49], khẳng định quyết định
được lý giải là quyết sách. Tác giả định nghĩa: “quyết sách là sự lựa chọn phương
án hợp lý từ nhiều phương án. Theo phương pháp suy lý lôgíc và phương pháp


12
thống kê trên cơ sở cân nhắc hiệu quả kinh tế nhằm đạt tới mục đích dự định, nói
một cách giản đơn là chọn phương án hợp lý từ nhiều phương án nhằm đạt tới
hiệu quả tối ưu” [49, tr.120]. Các tác giả cho rằng, quyết định ảnh hưởng trực
tiếp đến sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp, do đó để có quyết định khoa học
phải tuân thủ các bước sau: một là, phải điều tra nghiên cứu một cách hệ thống,

nắm bắt toàn bộ các thông tin liên quan; hai là, đặt ra vấn đề cốt yếu, từ đó xác
định mục tiêu quyết định; ba là, căn cứ yêu cầu của mục tiêu, xây dựng các
phương án; bốn là, phân tích tính khả thi và đánh giá các phương án; năm là,
thực thi phương án đã lựa chọn, phản hồi thông tin và điều chỉnh phương án.
Như vậy, tác giả đánh giá cao vai trò của thông tin trong việc ra quyết định. Một
quyết định khoa học là quyết định phải dựa trên thông tin đầy đủ.
“Những sai lầm khi ra quyết định” (Think twice) tác giả Michael J.
Mauboussin, dịch bởi Yến Phương, Tiểu Vân [85]. Tác giả giới thiệu chu
trình chuẩn bị ra quyết định bao gồm: thiết lập bối cảnh, nhìn nhận vấn đề; đề
xuất phương án, đánh giá phương án; hướng dẫn cách ứng dụng xây dựng
công cụ tư duy để đương đầu với thực tế, chuyển biến việc ra quyết định hiệu
quả trong tổ chức kinh doanh.
Khi nghiên cứu về việc ra quyết định, các nhà nghiên cứu trong nước,
đều khẳng định việc ra quyết định trong lãnh đạo, quản lý là sự cần thiết.
Đồng thời theo họ, ra quyết định chất lượng hay không phụ thuộc vào tâm lý
của chủ thể lãnh đạo, quản lý; phẩm chất; việc xử lý thông tin của chủ thể…
Chẳng hạn, các tác giả Nguyễn Đức Minh, Nguyễn Hải Khoát, trong cuốn
sách “Cơ sở tâm lý học của công tác quản lý trường học” [89, tr.133], khẳng
định, ra quyết định là chức năng cơ bản của người quản lý, là sản phẩm lao
động của họ. Để ra quyết định, người lãnh đạo phải có: đầu óc sáng tạo; có
phẩm chất dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có tầm nhìn xa trông
rộng; có nghệ thuật khai thác trí tuệ của các chuyên gia. Những kiến giải này
có giá trị tham khảo cho tác giả luận án khi xem xét phân tích kỹ năng ra
quyết định của CBCC cấp cơ sở.


13
Đỗ Hoàng Toàn, nhìn nhận quyết định dưới góc độ khoa học quản lý,
với các bài viết “Quản trị kinh doanh” (1991); sách tham khảo “Lý thuyết
quản trị kinh doanh” [126]. Theo tác giả: Quyết định quản trị là hành vi sáng

tạo của chủ doanh nghiệp, nhằm định ra mục tiêu, chương trình và tính chất
hoạt động của doanh nghiệp để giải quyết một vấn đề đã chín muồi trên cơ sở
hiểu biết các qui luật vận động khách quan của hệ thống bị quản trị và việc
phân tích các thông tin về hiện trạng của hệ thống. Tác giả cho rằng, quá trình
ra quyết định được tiến hành theo 10 bước, chất lượng của quyết định phụ
thuộc vào động cơ và chủ thể quản lý, đồng thời 3 yếu tố khách quan tác động
đến việc ra quyết định: Tính đồng bộ, tính hợp lý của hệ thống chính sách
kinh tế, pháp luật của nhà nước; Mâu thuẫn giữa tham vọng và khả năng có
hạn của chủ thể ra quyết định; Yếu tố thực tiễn. Như vậy, tác giả chủ yếu đề
cập đến quyết định quản trị, chưa đề cập đến quyết định của cán bộ lãnh đạo,
quản lý.
Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế, chuyên ngành tổ chức và quản lý
sản xuất của tác giả Phan Kim Chiến, “Giám đốc doanh nghiệp với việc ra
quyết định quản lý kinh doanh” [21]. Luận án luận giải một số nội dung: ra
quyết định là nội dung cơ bản của hoạt động quản lý; Quyết định quản lý là
hành vi sáng tạo của chủ thể quản lý nhằm định ra mục tiêu, chương trình và
tính chất hoạt động của doanh nghiệp. Quy trình ra quyết định gồm 8 bước: 1)
Sơ bộ đề ra nhiệm vụ, 2) Chọn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả, 3) Thu thập
thông tin để làm rõ nhiệm vụ đề ra, 4) Chính thức đề ra nhiệm vụ, 5) Dự kiến
các phương án quyết định, 6) Xây dựng mô hình toán học, 7) So sánh các
phương án quyết định theo tiêu chuẩn hiệu quả, 8) Đề ra quyết định chính
thức. Đồng thời, trong luận án tác giả Phan Kim Chiến cũng khẳng định thông
tin chính là nguyên liệu làm ra quyết định, nếu thông tin không tốt sẽ không
có quyết định chính xác. Tuy nhiên, tác giả bàn về thông tin và quyết định nói
chung chứ chưa bàn tới thông tin chính trị - xã hội và quyết định của CBCC
cấp cơ sở.


14
Có thể thấy rằng, với nhóm công trình nghiên cứu về ra quyết định, các

tác giả trong và ngoài nước đều khẳng định: ra quyết định trong lãnh đạo,
quản lý là rất cần thiết và chất lượng các quyết định phụ thuộc vào chủ thể
quản lý. Các tác giả đều nhấn mạnh các yếu tố như năng lực chủ thể, tâm lý
chủ thể…. trong việc ra quyết định. Một số nhà nghiên cứu cũng đã đề cập
đến mối quan hệ của thông tin và quyết định. Tuy nhiên, chưa có công trình
nào đề cập đến một cách có hệ thống, vai trò của thông tin chính trị - xã hội
đối với việc ra quyết định, cũng như năng lực tiếp nhận, xử lý thông tin của
chủ thể quản lý ảnh hưởng đến việc ra quyết định.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP ĐẾN TÁC ĐỘNG CỦA THÔNG TIN
TRONG QUẢN LÝ, VỀ THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG THÔNG TIN VÀ ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ

1.2.1. Nhóm công trình đề cập đến tác động của thông tin trong
quản lý, và thực trạng môi trường thông tin.
Tác phẩm “Điều tra và xử lý thông tin trong quản lý” [54] của tác giả
Lê Xuân Hoa, khẳng định, thông tin đã và đang là một động lực, một tiền đề
cho sự phát triển trí tuệ và hiểu biết của con người cũng như trong quản lý sản
xuất xã hội. Bất kỳ chu trình quản lý nào cũng bắt đầu từ thu thập, xử lý và
truyền dẫn thông tin, đồng thời cũng kết thúc bằng việc thu thập thông tin và
cũng là điểm xuất phát đối với chu kỳ quản lý mới. Tuy nhiên, thông tin ngày
nay không ngừng tăng cả về khối lượng và chất lượng, vì vậy, vấn đề đặt ra
hiện nay là phải xử lý và bảo quản khối lượng thông tin sẽ vô cùng phức tạp
và khó khăn. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra hai hình thức và phương pháp thu
thập thông tin. Đó là: báo cáo thống kê định kỳ; điều tra chuyên môn. Nghiên
cứu này bước đầu đóng góp về mặt lý luận trong lý thuyết thông tin, nhìn thấy
được sức mạnh của thông tin tác động đến xã hội, đặc biệt trong quản lý sản
xuất, tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu nghiên cứu vai trò của thông tin trong việc
ra quyết định như thế nào, nhất là đối với quyết định lãnh đạo, quản lý của
CBCC cấp cơ sở.



15
Luận án tiến sĩ khoa học chuyên ngành báo chí của tác giả Phạm Thị
Thanh Tịnh, “Nhu cầu và điều kiện tiếp nhận thông tin phát thanh của công
chúng nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay” [123]. Luận án này
cung cấp cho chúng tôi nhiều ý tưởng sẽ được hiện thực hóa trong luận án.
Nghiên cứu này, giúp cho tác giả nhận thấy việc ra quyết định của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiệu quả hay không hiệu quả phụ thuộc một phần
không nhỏ vào thực tiễn nhu cầu thông tin của công chúng địa bàn đó.
Đồng thời, nghiên cứu hiện trạng môi trường thông tin vùng ĐBSH của tác
giả cho thấy thế mạnh và hạn chế đối với tiếp nhận thông tin của người dân
trong vùng. Thực tế chứng minh, địa phương nào thông tin được xã hội hóa
cao sẽ là nguồn cung cấp thông tin chính xác, kịp thời cho đội ngũ CBCC
nơi đó ra các quyết định phù hợp. Tác giả dự kiến sẽ tham khảo điều này
trong phần đề xuất các giải pháp.
Từ tình hình nghiên cứu trên, chúng ta thấy rằng, các nhà nghiên cứu
bàn đến các vấn đề: thu thập thông tin là bước quan trọng trong quản lý, lãnh
đạo của chủ thể; nhu cầu và điều kiện tiếp nhận thông tin của công chúng vùng
đồng bằng sông Hồng... Tuy nhiên, việc nghiên cứu thực trạng môi trường xã
hội của thông tin chính trị - xã hội, một trong những nhân tố tác động tới việc
phát huy loại hình thông tin này trong việc nâng cao chất lượng các quyết định
của đội ngũ CBCC cấp cơ sở vùng ĐBSH chưa được đề cập đến.
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Về hướng nghiên cứu này, tiêu biểu có
các công trình sau:
Sách chuyên khảo của tác giả Trần Xuân Sầm (chủ biên), “Xác định cơ
cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới”
[107]. Trên cơ sở trình bày các luận cứ khoa học, tác giả phân tích thực trạng,
xác định cơ cấu, tiêu chuẩn cơ bản, từ đây đề xuất những phương hướng và
giải pháp lớn để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt theo cơ cấu, tiêu

chuẩn đổi mới trong những năm tới của HTCT.


16
Đề tài khoa học cấp nhà nước 1996 - 2000 (KHXH.05.03), Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, do tác giả Nguyễn Phú Trọng
làm chủ nhiệm [128]. Đề tài làm rõ cơ sở lý luận cho việc xây dựng tiêu
chuẩn cán bộ, đồng thời đưa ra những kinh nghiệm xây dựng tiêu chuẩn cán
bộ của Đảng phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Tuy nhiên, phần lớn các
nhà khoa học vẫn dành công sức, trí tuệ luận bàn tiêu chuẩn xây dựng đội ngũ
CBCC cấp huyện trở lên. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở - cấp đông nhất trong
HTCT lại ít được bàn đến (là nơi tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
phần lớn đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà
nước…). Hơn nữa, một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt
động quản lý của đội ngũ CBCC cấp cơ sở nói riêng và đội ngũ CBCC nói
chung đó là việc khai thác thông tin chính trị - xã hội ở đội ngũ này lại
chưa được đề cập. Đây là nội dung mà luận án sẽ cụ thể hóa trong quá trình
nghiên cứu của mình để bước đầu góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, đặc
biệt là các quyết định của đội ngũ CBCC cấp cơ sở nhằm thúc đẩy kinh tế xã hội, giữ vững an ninh, trật tự xã hội và bảo vệ tổ quốc.
Cần thêm gì vào tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời đại
kinh tế tri thức của tác giả Chu Hảo [48]. Tác giả đưa ra năm phẩm chất đòi
hỏi ở người lãnh đạo, quản lý trong thời đại kinh tế tri thức. Đó là, người cán
bộ lãnh đạo quản lý phải biết xử lý tốt thông tin; biến thông tin thành tri thức
và áp dụng có hiệu quả; phân biệt nhanh được các ý tưởng tốt và xấu; kiên
quyết hơn và dám chấp nhận mạo hiểm; nhận thức rõ, tiếp xúc trực tiếp các
vấn đề quan trọng; biết tạo cảm hứng khích lệ người khác.
Sách tham khảo “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống
chính trị cấp huyện ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, chủ biên Huỳnh
Thị Gấm [43]. Tác giả đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng đội

ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp huyện ở đồng bằng sông


17
Cửu Long thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
hiện nay.
Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) hiện nay, tác giả Phạm Công Khâm [67]. Luận án đã bàn đến
một số nội dung sau:
Một là, tác giả khẳng định cấp xã là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện,
biến mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước thành hiện thực trong cuộc sống. Đồng thời, cấp xã là nơi cung cấp kinh
nghiệm, bổ sung, hoàn chỉnh chính sách.
Hai là, CBCC cấp xã có vai trò hết sức quan trọng. Họ giữ vai trò quyết
định trong hiện thực hóa sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn. Hơn nữa, họ giữ vai trò quyết định trong
việc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh ở cơ sở. Việc xây dựng CBCC cấp
xã vững mạnh sẽ là nguồn quan trọng cung cấp cán bộ cho cấp trên.
Ba là, tác giả phân tích thực trạng CBCC cấp xã vùng nông thôn ở
ĐBSCL. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ CBCC cấp xã nơi đây. Đó là, nhóm giải pháp, xác định cụ thể
tiêu chuẩn và cơ cấu của đội ngũ CBCC cấp xã vùng nông thôn ở ĐBSCL;
nhóm giải pháp, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cấp xã vùng nông thôn
ĐBSCL; nhóm giải pháp về chính sách đối với đội ngũ CBCC cấp xã vùng
nông thôn ở ĐBSCL.
Kết quả nghiên cứu trên của tác giả sẽ giúp nghiên cứu sinh trong quá
trình triển khai đề tài của mình tìm ra những nét đặc thù của CBCC cấp xã
của ĐBSH khác với CBCC cấp xã ĐBSCL.
Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã ở một
số tỉnh đồng bằng sông Hồng trong điều kiện hiện nay. Đây là đề tài nghiên

cứu khoa học xã hội cấp Bộ năm 2004 của Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh do tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai làm chủ nhiệm. Đề
tài bàn đến một số nội dung sau:


18
Một là, đề tài khẳng định cấp xã và cán bộ cấp xã đóng vai trò quan
trọng, là nền tảng của nền hành chính quốc gia. Cấp xã là nơi thực tiễn diễn ra
sôi động hàng ngày, nơi kiểm nghiệm tính khoa học của đường lối, nghị quyết
của Đảng, là nơi hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Hai là, đề tài luận giải năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt
cấp xã chịu ảnh hưởng các yếu tố: nhận thức, kỹ năng và các phẩm chất tâm sinh lý của họ. Đồng thời, đề tài cũng chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến năng lực tổ
chức thực tiễn của đội ngũ CBCC cấp cơ sở ở ĐBSH chưa đạt hiệu quả cao
là: Chúng ta chưa có một chiến lược quy hoạch, tạo nguồn xây dựng đội ngũ
CBCC cấp xã; Công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ này còn nhiều bất
cập cả về số lượng và chất lượng; Chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBCC
cấp cơ sở còn nhiều hạn chế….
Ba là, đề tài xây dựng một số các giải pháp có tính khả thi góp phần nâng
cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ CBCC cấp xã ở một số tỉnh ĐBSH.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, các nhà khoa học
không đi sâu nghiên cứu phân tích yêu cầu và biện pháp nắm bắt thông tin và
xử lý thông tin trong quá trình tổ chức thực tiễn của đội ngũ CBCC cấp cơ sở
vùng ĐBSH.
Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững ổn định chính
trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay (Qua thực tế vùng đồng bằng sông
Hồng), Tác giả Mai Đức Ngọc [95]. Luận án đã đạt được những kết quả sau:
Luận án khẳng định, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã có vai trò quan
trọng trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn. Cấp xã là
cấp cuối cùng trong hệ thống quản lý nhà nước, là nơi trực tiếp tổ chức và

lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
nhà nước và các nhiệm vụ chính trị cụ thể của cơ sở; Cấp cơ sở được xem là
nền móng của tòa nhà, nếu nền móng tòa nhà bị suy yếu, rệu rã sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến toàn bộ tòa nhà.


19
Người CBCC cấp cơ sở còn phải chủ động đề xuất đổi mới và góp phần
hoàn thiện thể chế ở cơ sở; là người trực tiếp tác động đến lợi ích của dân, đại diện
hợp pháp cho những yêu cầu nguyện vọng chính đáng của dân; là người giải tỏa
các mâu thuẫn xung đột ở cơ sở để tạo ra sự đồng thuận trong đời sống cộng đồng.
Luận án cũng phân tích, các yếu tố tác động đến phẩm chất và năng lực
của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở: Phẩm chất chính trị - tư tưởng; phẩm
chất đạo đức; phẩm chất trí tuệ; phẩm chất sức khỏe và tâm lý; năng lực tư
duy sắc bén; năng lực tổ chức thực tiễn; năng lực sáng tạo và quyết đoán.
Trên cơ sở luận giải, tác giả đề xuất một số các giải pháp nhằm nâng
cao vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở. Chúng tôi đồng tình và
trân trọng với những phân tích lý giải của tác giả. Tuy nhiên, theo chúng tôi,
để góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở, một trong những vấn
đề khá quan trọng của người CBCC cấp cơ sở là nắm bắt và xử lý thông tin
chính trị - xã hội của đội ngũ này có kịp thời, thường xuyên không. Hơn nữa,
trong luận án này, tính đặc thù của đội ngũ CBCC cấp cơ sở ở các tỉnh đồng
bằng sông Hồng chưa được làm rõ.
Bài viết của tác giả Phúc Sơn, Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
xã đạt chuẩn [108]. Tác giả đưa ra một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
cấp xã: Một là, cần thiết điều chỉnh xây dựng quy hoạch cán bộ cấp xã giai
đoạn 2010 - 2015 trên cơ sở rà soát quy hoạch cán bộ giai đoạn 2005 - 2010;
Hai là, đổi mới nội dung, hình thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cấp xã, phường,
thị trấn theo chức danh; Ba là, tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng, năng
lực và khả năng đào tạo của các cơ sở đào tạo; Bốn là, tiếp tục nghiên cứu sửa

đổi, bổ sung chế độ chính sách khuyến khích việc chủ động học tập của cán
bộ công chức theo hướng đạt chuẩn; Năm là, sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại
học chính quy có chuyên môn phù hợp về công tác tại xã, phường, thị trấn và
có chế độ, chính sách khuyến khích, hỗ trợ….
Như vậy, các nhà nghiên cứu đã bàn đến đội ngũ CBCC cấp cơ sở ở
nhiều chiều cạnh khác nhau, các đề tài có được những đóng góp nhất định về


20
lý luận và thực tiễn. Song do giới hạn mục tiêu nghiên cứu, vấn đề thông tin
chính trị - xã hội với việc ra quyết định của đội ngũ CBCC cấp cơ sở vùng
ĐBSH hiện nay vẫn chưa được các nhà khoa học bàn đến. Những vấn đề để
ngỏ luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
Điểm qua các công trình của các nhà khoa học cho thấy họ đã bàn đến
những nội dung nghiên cứu sau: Một là, thông tin, quyết định, vai trò của
thông tin đối với việc ra quyết định đã được nghiên cứu dưới nhiều lát cắt
khác nhau. Hai là, các nhà khoa học đã đề cập tới cán bộ và việc ra quyết
định của cán bộ. Ba là, các nhà khoa học đã đề xuất một số các giải pháp
nâng cao chất lượng, vai trò của người CBCC cấp cơ sở. Điều này cũng cho
chúng ta thấy rằng, nghiên cứu thông tin chính trị - xã hội với việc ra quyết
định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng đồng bằng sông Hồng dưới
góc độ triết học chưa trở thành đối tượng nghiên cứu trực tiếp, cụ thể của một
công trình nào. Và đây cũng là lý do khiến nghiên cứu sinh chọn nghiên cứu
đề tài này trong luận án. Trong quá trình triển khai những kết quả nghiên cứu
trên sẽ được tác giả luận án kế thừa chọn lọc phục vụ cho nghiên cứu của
mình. Nghiên cứu sinh xác định cho mình cần làm rõ một số nội dung sau:
Một là, thông tin nói chung, đặc biệt là thông tin chính trị - xã hội và
vai trò của nó trong việc ra quyết định của CBCC cấp cơ sở vùng đồng bằng
sông Hồng.
Hai là, phân tích lý luận và thực tiễn phát huy vai trò thông tin chính trị

- xã hội trong việc ra quyết định của đội ngũ CBCC cấp cơ sở vùng đồng bằng
sông Hồng.
Ba là, nghiên cứu sinh đề xuất các nhóm giải pháp về phát huy vai trò của
thông tin chính trị - xã hội trong việc ra quyết định của CBCC cấp cơ sở vùng
đồng bằng sông Hồng.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và tầm quan trọng cả về mặt lý luận và
thực tiễn của vấn đề trên, chúng tôi đi sâu nghiên cứu vấn đề: “Thông tin
chính trị - xã hội với việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ


×