Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận ngoại thương và kinh tế phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.77 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II
KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
---------***--------

TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
Môn học: Kinh tế phát triển
ĐỀ TÀI
NGOẠI THƯƠNG VÀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN

Nhóm: 07
Lớp: K52E
Giảng viên: Huỳnh Hiền Hải

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2016


DANH SÁCH NHÓM

STT

HỌ TÊN

MSSV

Mô tả công việc

1

Hồ Phước Bảo

1301015045



2

Cao Quốc Đạt

1301015103

Viết phần 1.1
Viết phần 1.2

3

Lê Hữu Đình

1301015111

Viết phần 2.2

4

Trần Hải Nam

1301015281

5

Trần Quốc Phong

1301015360


Tổng hợp các phần,
chỉnh sửa tiểu luận,
chuẩn bị câu hỏi phản
biện
Viết phần 2.3

Mức độ
hoàn thành
100%
100%
100%
100%
100%

6

Nguyễn Ngọc Phúc

1301015366

7

Cao Trần Thanh Quân

1301015392

Tìm dữ liệu cho phần
2.1, nhận xét nhóm
thuyết trình, chuẩn bị
câu hỏi phản biện

Viết phần 1.3

8

Dương Phúc Toàn

1301015522

Viết phần 2.1

100%

9

Võ Đăng Vinh

1301015616

Viết kết luận, nhận xét
nhóm thuyết trình

100%

100%
100%


MỤC LỤC

MỤC LỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ


3


CHƯƠNG 1: NGOẠI THƯƠNG VỚI KINH TẾ PHÁT TRIỂN

1.1.

Khái niệm, chức năng của ngoại thương (thương mại quốc tế)

1.1.1. Khái niệm
Thương mại quốc tế là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế trong đó
diễn ra sự mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ hoặc các tài sản trí tuệ giữa các chủ
thể của quan hệ kinh tế quốc tế.
Điều kiện để thương mại quốc tế tồn tại và phát triển là:
- Có sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa-tiền tệ, kèm theo đó là sự
xuất hiện của tư bản thương nghiệp.
- Có sự ra đời của nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc tế.
Ngoại thương đã xuất hiện từ thời cổ đại: dưới chế độ nhà nước chiếm hữu
nô lệ và tiếp đó là chế độ nhà nước phong kiến. Thời đó, do kinh tế tự nhiên còn
chiếm vị trí thống trị, nên thương mại quốc tế mang tính chất ngẫu nhiên, phát triển
với quy mô rất nhỏ, hẹp. Lưu thông hàng hóa quốc tế chỉ gồm một phần nhỏ nhiều
sản phẩm sản xuất ra và chủ yếu là để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của giai cấp
thống trị đương thời. Đến thời đại tư bản chủ nghĩa, thương mại quốc tế mới phát
triển rộng rãi. Các cuộc cách mạng lớn diễn ra trong thương nghiệp ở thế kỷ XVI và
XVII gắn liền với những phát kiến địa lý đã dẫn tới sự phát triển nhanh chóng của
tư bản thương nhân. Tính tất yếu nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
là phải tái sản xuất trên một quy mô ngày càng lớn hơn để phát triển và thu lợi
nhuận. Điều đó, thúc đẩy thị trường thế giới phải không ngừng mở rộng, thương
mại quốc tế ngày càng phát triển. Ngày nay càng có nhiều nước ở nhiều trình độ

phát triển kinh tế- xã hội khác nhau thuộc nhiều khu vực lãnh thổ khác nhau cùng
tham gia vào mậu dịch quốc tế. Nhất là trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế
giới như hiện nay,thì thương mại quốc tế càng đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế của một nước.
4


1.1.2. Chức năng của hoạt động ngoại thương:

Chức năng của một ngành kinh tế là một phạm trù khách quan, được hình
thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Chức năng của thương mại quốc tế là lưu thông hàng hóa giữa trong nước và nước
ngoài.
Tuy vậy, cần phân biệt chức năng của thương mại quốc tế với tư cách là một
khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, với tư cách là một lĩnh vực kinh tế.
Là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, thương mại quốc tế có thể có
các chức năng sau:
-Thứ nhất: tạo vốn cho quá trình mở rộng đầu tư trong nước.
-Thứ hai: chuyển hóa giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước và thích ứng chúng
với nhu cầu tiêu dùng và tích lũy.
-Thứ ba: góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo môi
trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh.
Là một lĩnh vực kinh tế đảm nhận lưu thông hàng hóa giữa trong nước và
ngoài nước, chức năng cơ bản của ngoại thương là: tổ chức chủ yếu quá trình lưu
thông hàng hóa với bên ngoài, thông qua mua bán để nối liền một cách hữu cơ theo
kế hoạch giữa thị trường trong và ngoài nước, thỏa mãn nhu cầu sản xuất của xã hội
về hàng hóa theo số lượng, chất lượng, mặt hàng, địa điểm và thời gian phù hợp với
chi phí thấp nhất.
Để thực hiện được chức năng quan trọng trên, thương mại quốc tế cần có sự

quản lý của nhà nước. Nhà nước quản lý hoạt động thương mại quốc tế theo cơ chế
thích hợp cho từng thời kỳ phát triển. Trong cơ chế quản lý kinh tế theo mô hình kế
hoạch hóa tập trung, quản lý Nhà nước về thương mại quốc tế hoàn toàn khác với
quản lý thương mại quốc tế trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
trong việc mua bán hàng hóa, dịch vụ.
5


1.2.
Các học thuyết cơ bản về Thương mại quốc tế:
1.2.1. Lợi thế tuyệt đối:

A. Smith là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của hoạt động
ngoại thương. Trong mô hình kinh tế cổ điển, chúng ta đã biết các nhà kinh tế cổ
điển cho đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi nhu cầu lương thực tăng lên, phải
tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm bảo được lợi nhuận cho các
nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Các nhà kinh tế cổ điển gọi đây là bức
tranh đen tối của tăng trưởng. Trong điều kiện đó A. Smith cho rằng có thể giải
quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với giá rẻ hơn. Việc nhập
khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi thế tuyệt
đối của hoạt động ngoại thương.
Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh
chi phí sản xuất để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm, khi một nước sản xuất sản
phẩm có chi phí cao hơn có thể nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí sản xuất
thấp hơn.
Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối với nước sản xuất sản phẩm có chi
phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi bán trên thị trường quốc tế.
Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao sẽ có được sản phẩm
mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem lại lợi nhuận.
Điều này gọi là bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước.

Quan điểm:


Đề cao vai trò của các cá nhân và doanh nghiệp, ủng hộ một nền thương mại
tự do, không có sự can thiệp của chính phủ.



Thấy được tính ưu việt của chuyên môn hóa.



Dùng lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần rất nhỏ trong mậu dịch
thế giới hiện nay.

6


Có thể minh họa lợi thế tuyệt đối bằng một ví dụ như sau: chúng ta giả thuyết
trường hợp của hai nước Việt Nam và Trung Quốc với việc 2 nước sản xuất 2 mặt
hàng là lúa gạo và vải:
Sản phẩm

Việt Nam

TQ

Lúa gạo (tạ/người/giờ)

6


1

Vải (m/người/giờ)

4

5

Việt Nam có lợi thế tuyệt đối so với Trung Quốc về sản xuất lúa gạo.
Trung Quốc có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam về sản xuất vải
1.2.2. Lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh):

Phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của hoạt động thương mại quốc tế
D.Ricardo đã nghiên cứu lợi thế này dưới góc độ chi phí so sánh để sản xuất ra sản
phẩm. Ví dụ: xét khả năng trao đổi sản phẩm giữa Việt Nam và Nga đối với hai sản
phẩm thép và quần áo.
Sản phẩm
Thép(1 đơn vị)
Quần áo(1 đơn vị)

Chi phí sản xuất(ngày công theo lao động)
Việt Nam
Nga
25
16
5
4
Bảng .1: Chi phí sản xuất:


Xét theo chi phí sản xuất thì Việt Nam sản xuất thép và quần áo đều có chi
phí cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam không có khả năng xuất
khẩu sản phẩm nào sang Nga. Song nếu xét chi phí so sánh thì lại có cái nhìn khác.

Sản phẩm
Thép( 1 đơn vị)
Quần áo(1đơnv ị)

Chi phí so sánh
Việt Nam
5

Nga
4

1/5

1/4

Bảng 1. : Chi phí so sánh:
7


Theo chi phí so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Việt Nam cao
hơn Nga: để sản xuất một đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo trong khi ở
Nga chỉ cần 4 đơn vị. Nhưng ngược lại chi phí sản xuất quần áo ở Việt Nam lại thấp
hơn ở Nga, để sản xuất ra một đơn vị quần áo ở Việt Nam cần 1/5 đơn vị thép, trong
khi ở Nga cần 1/4 đơn vị. Điều này chỉ ra rằng Việt Nam và Nga có thể trao đổi sản
phẩm cho nhau. Nga xuất khẩu thép sang Việt Nam và Việt Nam xuất khẩu quần áo
sang Nga. Việc trao đồi này đem lại lợi ích cho cả hai nước.

Như vậy, lợi thế so sánh của thương mại quốc tế là khả năng nâng cao mức
sống và thu nhập thực tế của một nước thông qua việc mua bán, trao đồi hàng hóa
với nước khác dựa trên cơ sở chi phí so sánh để sản xuất hàng hóa.
1.2.3. Lợi thế nguồn lực của Hecksher- Ohlin

D. Ricardo đã đặt nền móng ban đầu cho việc lý giải sự hình thành quan hệ
thương mại giữa hai quốc gia, đó chính là sự khác nhau về giá cả sản phẩm tính
theo chi phí so sánh. Tuy vậy, ông chưa phân tích sâu về nguyên nhân của sự khác
nhau đó và chưa giải thích vì sao giữa các nước lại có chi phí so sánh khác nhau. Để
làm rõ điều này, hai nhà kinh tế người Thụy Điển là Eli Heckscher và Bertil Ohlin
đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh, được gọi là lý thuyết Heckscher – Ohlin (HO). Lý thuyết H-O cho rằng chính sự khác nhau về mức độ sử dụng yếu tố để sản
xuất sản phẩm là những nhân tố quan trọng quyết định sự khác biệt về chi phí so
sánh.
Xét lại ví dụ về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nga, có thể giải thích
rằng: Việt Nam là nước tương đối sẵn có về lao động, Việt Nam sẽ sản xuất và xuất
khẩu hàng dệt may là mặt hàng cần nhiều lao động. Còn Nga là nước tương đối sẵn
có về vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu thép, là mặt hàng cần nhiều vốn. Lý thuyết H-O
đã giải thích được sự có được lợi ích trong thương mại quốc tế là do mỗi nước đều
hướng đến chuyên môn hóa sản xuất vào các ngành sử dụng nhiều yếu tố sẵn có
trong nước. Như vậy, có thể có lợi thế so sánh cho phép bất kỳ nước nào cũng có
thể tăng thu nhập của mình thông qua thương mại quốc tế, ngay cả khi một nước
sản xuất mọi sản phẩm với chi phí tuyệt đối thấp hơn một nước khác, bởi vì thị
trường thế giới tạo ra cơ hội để có thể mua hàng hóa với giá tương đối rẻ so với giá
8


đang được lưu hành trong nước nếu không có thương mại quốc tế. Nội dung này
xuất phát từ sự khác nhau về chi phí so sánh để sản xuất sản phẩm.
Tác động của ngoại thương đối với sự phát triển:


1.3.
1.3.1.

1.3.1.1.

Tác động tích cực:
Thương mại quốc tế là động lực để tăng trưởng kinh tế:

GDP của một quốc gia được xác định theo phương pháp chi tiêu và luồng sản
phẩm theo công thức:
GDP= C + I+ G + (X-M)
Như vậy theo công thức trên tổng thu nhập quốc dân phụ thuộc rất lớn vào
hoạt động xuất nhập khẩu (hay ngoại thương) của nước đó. Đặc biệt là xuất khẩu,
song xuất khẩu lại phu thuộc vào nhập khẩu, vì thế giải quyết mối quan hệ giữa xuất
khẩu và nhập khẩu là vấn đề phức tạp nhưng rất quan trọng vì nó sẽ tác động tích
cực hay tiêu cực đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Xuất khẩu liên quan đến thu ngoại tệ còn nhập khẩu liên quan đến chi ngoại
tệ. Vì vậy, hoạt động xuất nhập khẩu tác động đến quỹ tiền tệ của đất nước từ đó tác
động đến tổng cầu của toàn nền kinh tế. Nếu xuất khẩu thuần dương thì tổng cầu sẽ
tăng, còn xuất khẩu thuần âm tổng cầu sẽ giảm. Tổng cầu tăng làm nền kinh tế tăng,
thương mại quốc tế phát triển, thị trường được mở rộng, cho phép tăng chuyên môn
hóa sản xuất, tiếp nhận công nghệ mới, khuyến khích phát minh sáng chế nâng cao
năng suất lao động dẫn tới tăng tổng sản phẩm quốc dân. Đồng thời cho phép các
quốc gia mở rộng sản xuất trên cơ sở chuyên môn hóa một cách sâu sắc. Từ đó
ngoại thương tạo điều kiện cho các quốc gia mở rộng đường giới hạn khả năng sản
xuất dịch chuyển ra xa hơn so với đường giới hạn khả năng sản xuất cũ.
Để đánh giá tác động của ngoại thương vào tăng trưởng tổng sản phẩm quốc
dân người ta sử dụng mối quan hệ tương quan giữa kim ngạch xuất khẩu với GDP,
kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu so với GDP và tương quan xuất khẩu so với nhập
khẩu. Ngoài ra ảnh hưởng đó còn được tính toán bởi chí tiêu tăng trưởng xuất nhập

khẩu và tăng trưởng xuất khẩu vào 1% tăng trưởng GDP.

9


1.3.1.2.

Thương mại quốc tế thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc
gia theo hướng tích cực:
Xu hướng có tính quy luật chung của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn chuyển một nền kinh
tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đều phải trải qua các bước: Chuyển từ
nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công- nông nghiệp để từ đó chuyển sang nền
kinh tế công nghiệp phát triển. Nội dung cụ thể của xu thế này thể hiện ở tỷ trọng
nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm đi trong khi đó tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ ngày càng tăng trong tổng GDP, giai đoạn đầu tốc độ tăng của công nghiệp
sẽ cao hơn dịch vụ, nhưng giai đoạn sau,, khi nền kinh tế đã phát triển cao, thì dịch
vụ sẽ tăng nhanh hơn.
Trong sự vận động chung, ngoại thương với các hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của nó tác động đến toàn
bộ quá trình tái sản xuất hàng hóa, từ sản xuất, lưu thông, phân phối đến tiêu dùng.
Đặc biệt đối với các ngành sản xuất vật chất cơ bản như công nghiệp, nông
nghiệp… ngoại thương đã tác động trực tiếp đến cả đầu vào và đầu ra của quá trình
tái sản xuất, do đó đã góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ngoại thương cũng tạo ra các “ mối liên hệ ngược”, “ mối liên hệ gián tiếp”, giữa
các ngành, tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế năng động.
1.3.1.3.

Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế:


Cán cân thanh toán quốc tế là bản quyết toán tổng hợp toàn bộ các mối quan
hệ kinh tế đối ngoại của một nước, bao gồm các luồng hàng hóa, dịch vụ và luồng
vốn giữa các nước đó với các nước khác trong một thời kỳ nhất định. Như vậy, cán
cân thanh toán quốc tế là tấm gương phản chiếu mọi hoạt động kinh tế đối ngoại
của một nước với các nước khác và do đó nó đã được các nước có nền kinh tế mở
sử dụng như một công cụ đắc lực để phân tích và quản lý vĩ mô các hoạt động kinh
tế đối ngoại.
Cơ cấu cán cân thanh toán quốc tế bao gồm các bộ phận chủ yếu: cán cân
ngoại thương ( còn gọi là cán cân mậu dịch hay cán cân hữu hình),cán cân dịch vụ
và cán cân chuyển tiền đơn phương không bồi hoàn( gọi chung là cán cân phi mậu
10


dịch hay cán cân vô hình), cán cân nguồn vốn…trong đó ngoại thương hữu hình vẫn
là hoạt động quan trọng nhất, do vậy cán cân ngoại thương giữ vị trí quan trọng nhất
trong tất cả các bộ phận cấu thành nên cán cân thanh toán quốc tế. Đối với những
nước đang phát triển có nền kinh tế mở quy mô nhỏ, thì việc quan tâm trước hết đến
cải thiện cán cân ngoại thương càng có ý nghĩa quyết định đến cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế. Vì thực tế cho thấy, do xuất phát điểm trình độ kinh tế xã hội
của các nước này thấp, nên hiệu quả thu được từ các hoạt động kinh tế đối ngoại
khác thường khó đạt đến sự mong muốn ngay như hiệu quả của hoạt động thương
mại quốc tế, là hoạt động kinh tế đối ngoại có thể tận dụng triệt để ngay các nguồn
lực( lợi thế so sánh) mà các nước này sẵn có.
Nếu hoạt động xuất nhập khẩu ổn định, cán cân thanh toán an toàn thì sẽ
giúp ổn định kinh tế vĩ mô của một quốc gia, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
cho doanh nghiệp, tâm lý yên tâm làm ăn, sinh sống cho người dân.
1.3.1.4.

Góp phần giải quyết việc làm , nâng cao thu nhập và mức sống thực tế cho các
tầng lớp dân cư:

Có thể nói đây là tác dộng có ý nghĩa quan trọng nhất bởi mục tiêu cuối cùng
của sự tăng trưởng là con người, hướng tới con người. Con người vừa là động lực
vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Hoạt động ngoại thương thông qua cách giải quyết quan hệ xuất khẩu- nhập
khẩu có tác động trực tiếp đến việc làm và do đó, đến thu nhập và mức sống thực tế
của người dân.
Hiện nay, để phát triển kinh tế các nước đều cố gắng tận dụng mọi lợi thế mà
nước mình có được. Đối với các nước đang phát triển thường có dân số đông, lao
động dư thừa nhiều, nhất là lao động của nền sản xuất hàng hóa còn kém, vốn đầu
tư cho phát triển thiếu. Vì thế, nên hướng sản xuất hàng hóa xuất khẩu vào những
ngành sử dụng lợi thế của đất nước. Khi xuất khẩu tăng trưởng thường kéo theo sự
gia tăng sản xuất trong nước. Cầu lao động tăng nhanh dẫn tới giải quyết công ăn
việc làm cho phần lớn lao động dư thừa. Người lao động có việc làm tức là có thu
nhập, bởi vậy mức sống của họ được cải thiện đáng kể.
11


Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu không chỉ đáp ứng cho sản xuất mà còn
cho cả tiêu dùng. Hàng nội vì phải cạnh tranh với hàng ngoại nên không ngừng
nâng cao chất lượng và hạ giá bán. Người được lợi ở đây chính là người tiêu dùng
ngày càng được sử dụng những hàng hóa đa chủng loại và chất lượng cao.
1.3.2. Tác động tiêu cực
1.3.2.1.

Có thể tạo ra những bất bình đẳng giữa các nước

Các quốc gia phát triển luôn đưa ra mở cửa thị trường, đẩy mạnh đầu tư,
chuyển giao công nghệ, nhưng thực tế khi quyền lợi bị xâm hại họ sẵn sàng đập
“cây gậy” chống bán phá giá, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm tiêu chuẩn kỹ thuật
một cách vô lý lên đầu bất cứ quốc gia nào mà họ cho là vi phạm (Điển hình như vụ

kiện chống bán phá giá cá basa của Việt Nam). Điều trớ trêu là những đối tượng
trực tiếp chịu những “cú đánh” này lại là những người nông dân nghèo, những
người vốn dĩ cuộc sống đã phải chịu quá nhiều khó khăn.
1.3.2.2.

Gây ô nhiễm môi trường

Bên cạnh tác động tiêu cực về cạnh tranh bất bình đẳng, thương mại quốc tế
còn đem lại cho các quốc gia đang phát triển “nguồn tài nguyên dồi dào” – rác thải.
Những thứ mà các quốc gia phát triển thải ra: rác thải công nghiệp, y tế, sinh hoạt…
việc tái chế hay tiêu hủy trở nên đắt đỏ và ô nhiễm. Vì vậy, có xu thế xuất khẩu
những thứ này sang các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam, biến những
nơi này thành bãi rác, nơi tái chế và vùng ô nhiễm khổng lồ. Chúng ta cảm tưởng
những chiếc ô tô, ti vi, hay các máy móc được bán sang Việt Nam với giá rẻ đó là
một sự “cảm thông” của các quốc gia phát triển với những nước nghèo. Sự thực là
các quốc gia đang phát triển khó có thể nào chống lại các luồng hàng hóa như vậy.
Trong các hiệp định về tự do hóa thương mại, việc sử dụng hàng rào bảo hộ kinh tế
sẽ gặp nhiều khó khăn, còn áp dụng hàng rào kỹ thuật các quốc gia đang phát triển
lại không có lợi thế do trình độ công nghệ thấp ở các quốc gia này.
Nhiều lĩnh vực được các nhà đầu tư nước ngoài chuyển sang các nước đang
phát triển, đang dần hủy hoại môi trường ở những quốc gia này và tất nhiên trong
đó có Việt Nam. Với những hàng rào về môi trường nghiêm ngặt ở quốc gia mình,
12


nhiều doanh nghiệp ở các nước phát triển khó có thể sản xuất, kinh doanh với công
nghệ hiện có, và họ nghĩ ra nơi đầu tư lý tưởng đó là các nước đang phát triển – nơi
mà đang chú trọng thu hút nguồn vốn đầu tư nên vấn đề môi trường không kiểm
soát chặt chẽ.
1.3.2.3.


Nền kinh tế non trẻ dễ bị chi phối

Luồng tiền đầu tư có từ nhiều nguồn trong đó có cả từ những tập đoàn tư bản
lớn mà vốn, công nghệ, trình độ quản lý đã đạt mức cao. Với những điều kiện đó,
khi các tập đoàn này vào, họ có thể sử dụng nhiều biện pháp thậm chí mang tính
“thanh toán”. Gần như các doanh nghiệp trong nước rất khó khăn trong việc cạnh
tranh, hoặc phải chấp nhận làm các công ty con cho những tập đoàn này. Một dẫn
chứng kinh điển là trường hợp một tập đoàn nước ngọt hàng đầu thế giới đã chịu lỗ
nhiều năm liền để có thể thâu tóm vốn sở hữu và chiếm lĩnh thị phần ở Việt Nam –
đây là một bài học mà cho tới này vẫn còn nguyên tính thời sự.
Một khía cạnh không thể không nhắc tới về ảnh hưởng của thương mại quốc
tế là đầu tư tài chính. Với xu thế toàn cầu hóa, một nhà đầu tư không cần phải cất
công lặn lội đường xá xa xôi để đem nguồn tiền đi sinh lời. Họ có thể ngồi tại New
York, Paris, Tokyo hay London để chi phối hoạt động tài chính ở cách đó nửa vòng
trái đất. Các luồng vốn tài chính đổ vào các quốc gia dưới dạng đầu tư chứng
khoán, bất động sản trong một thời điểm nó có thể đẩy các thị trường này phát triển
rất nhanh. Nhưng khi thấy đã “đút túi” được một khoản lớn, các nhà đầu tư nước
ngoài lại có động thái rút vốn khiến thị trường rơi vào tình trạng suy thoái, nhiều
doanh nghiệp phá sản, đời sống nhiều người dân rơi vào tình trạng khó khăn. Đây là
bài học lớn rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính lớn ở Đông Nam Á năm 1997.

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VIỆT NAM

2.1. Thực trạng nền ngoại thương Việt Nam (giai đoạn 2010-2015):
Về giá trị xuất nhập khẩu:

13



Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng hoá qua các năm đều
tăng, Việt Nam tiếp xuất siêu trong giai đoạn 2012-2014.
Trong đó, xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đã có sự hồi
phục, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này giai đoạn 2011-2015 tăng trưởng ở
mức trung bình 7,9% và kim ngạch nhập khẩu tăng trung bình 4%. Tuy nhiên,
chiếm thế mạnh trong cơ cấu kim ngạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2011-2015
và tăng trưởng xuất nhập khẩu cao vẫn chủ yếu ở những nhóm mặt hàng do khối
các doanh nghiệp FDI sản xuất với mức tăng trưởng xuất khẩu trung bình giai đoạn
2011-2015 là 24% và 19% ở lĩnh vực nhập khẩu.
Cụ thế, về xuất khẩu:
- Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2011-2015 tăng trung bình 17,48%,
trong đó, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước
tăng trung bình 7,9%, trong khi đó, con số này ở các doanh nghiệp FDI là 24%. Cụ
thể:

Biểu đồ 2. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2011-2015 (tỷ USD)
Về nhập khẩu:
-Tổng kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2011-2015 tăng trung bình 11,6%,
trong đó, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước
tăng trung bình 4%, trong khi đó, con số này ở các doanh nghiệp FDI là 19%. Cụ
thể:

Biểu đồ 2. : Tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2011-2015 (tỷ USD)
(Nguồn: Bộ Công Thương)
Về các loại mặt hàng xuất nhập khẩu:
Cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam có những chuyển dịch tích
cực, phù hợp với lộ trình thực hiện mục tiêu của Chiến lược phát triển xuất nhập
khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030, cụ thể nhóm hàng
14



công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất, trung bình 67% giai đoạn 2011-2015,
theo sau lần lượt là nhóm hàng nông sản, thủy sản 17% và nhóm hàng nhiên liệu
khoáng sản 8%.
Trong đó, tăng trưởng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến đóng góp
vai trò quan trọng trong tăng trưởng, mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện tiếp
tục là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất (trung bình hơn 18,9 tỷ USD,
chiếm 14% kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2011-2015). Xuất khẩu của hầu hết mặt
hàng trong nhóm hàng nông sản, thủy sản cơ bản giữ được tốc độ tăng trưởng ổn
định tại các thị trường truyền thống (tuy nhiên, cần tiếp tục phát triển tại các thị
trường mới, tiềm năng).
Cụ thể, về xuất khẩu:
Năm
Mặt hàng
Tổng giá trị xuất khẩu
DN 100% vốn trong nước
DN có vốn ĐTNN
Mặt hàng chủ yếu
Nhóm nông, lâm, thuỷ sản
Thủy sản
Cà phê
Gạo
Cao su
Nhóm nhiên liệu và khoáng sản
Than đá
Dầu thô
Xăng dầu các loại
Nhóm công nghiệp chế biến
Túi sách, vali, mũ, ô dù
Gỗ và sản phẩm gỗ

Hàng dệt và may mặc
Xơ, sợi dệt các loại
Giầy, dép các loại
Đá quý và kim loại quý

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

2010
2011
2012
2013
2014
2015
Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá
72,237
96,906 114,529 132,175 150,217 162,439
33,084
41,781
42,277
43,752
49,037
47,306

34,195
47,883
64,023
81,187 101,180 115,132
15,275
5,016
1,851
3,248
2,388

19,748
6,112
2,752
3,657
3,234

20,968
6,093
3,673
3,673
2,860

19,853
6,734
2,694
2,986
2,526

22,145
7,825

3,557
2,935
1,780

20,654
6,601
2,567
2,902
1,539

8,070
1,611
4,958
1,346

11,220
1,632
7,241
2,114

11,479
1,239
8,229
1,827

9,604
921
7,236
1,228


9,040
555
7,224
1,055

5,012
185
3,806
809

38,751
959
3,436
11,210

59,352
1,285
3,957
14,043
1,789
6,549
2,669

74,256
1,519
4,666
15,093
1,842
7,262
546


93,181
1,938
5,496
17,891
2,132
8,366
573

110,374
2,536
6,230
20,911
2,542
10,326
672

128,153
2,878
6,800
22,630
2,524
12,002
606

5,122
2,824

15



Sắt thép các loại
Sản phẩm từ sắt thép
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và

1,050
828

1,682
1,131

1,642
1,376

1,774
1,532

1,998
1,734

1,653
1,755

linh kiện

3,590

4,662

7,838


10,677

11,434

15,807

6,397

12,717

21,517

23,598

30,645

702

1,688

1,655

2,220

3,085

3,057

4,366


5,537

6,033

7,315

8,162

1,578
10,141

3,464
6,586

4,580
7,826

4,938
9,537

5,678
8,659

5,881
8,621

Điện thoại các loại và linh kiện
Máy ảnh, máy quay phim và linh
kiện

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ
tùng khác
Phương tiện vận tải và phụ tùng
Hàng hoá khác

Bảng 2. : Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010-2015 (nghìn USD)
(Nguồn: Bộ Công Thương)
Về nhập khẩu
Nhập khẩu tiếp tục phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất và xuất khẩu. Nhập
khẩu nhóm hàng không khuyến khích giảm. Điều này thể hiện việc điều hành kiểm
soát nhập khẩu hiệu quả, tuy nhiên cũng thể hiện sức mua của thị trường trong nước
đối với hàng tiêu dùng giảm. Tuy nhiên, tỷ lệ nhập khẩu lớn về nguyên, nhiên liệu,
nhất là nguyên liệu gia công sản xuất... thể hiện tính gia công trong ngành còn lớn,
còn phụ thuộc nhiều vào thị trường cung cấp ở nước ngoài, làm cho nền kinh tế gặp
bất lợi mỗi khi giá cả thế giới biến động tăng, làm tăng chi phí sản xuất trong nước,
giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
Về thị trường xuất nhập khẩu:
Về xuất khẩu:
Xuất khẩu sang thị trường khu vực truyền thống giữ vững: do khủng hoảng
kinh tế, tuy sức mua chung của thị trường thế giới suy giảm nhưng các thị trường
xuất khẩu truyền thống của Việt Nam như thị trường Đông Nam Á, EU, Nhật Bản,
Hoa Kỳ tiếp tục được giữ vững và tăng trưởng.

16


Thị trường Châu Á: vẫn là thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu thị
trường xuất khẩu của Việt Nam, chiếm 49.7%, với kim ngạch xuất khẩu ước đạt
74.5 tỷ USD, tuy nhiên về tốc độ tăng trưởng lại tăng thấp (các nước thuộc nhóm
Đông Nam Á tăng 3.1%) hơn so với các khu vực thị trường khác.

Thị trường Châu Âu ước đạt 30.2 tỷ USD, chiếm 20.1% trong cơ cấu thị
trường xuất khẩu, tăng 12.3%, trong đó: khối EU 27 nước đạt kim ngạch 27.9 tỷ
USD, tăng 14.7%; khối các nước ngoài EU có kim ngạch bằng 90% so với cùng kỳ,
nguyên nhân do giảm xuất khẩu sang thị trường Ucraina do bất ổn về chính trị...
Thị trường Châu Mỹ ước đạt 34.5 tỷ USD, chiếm 23% trong cơ cấu thị
trường xuất khẩu, tăng 22.3%, trong đó: thị trường Hoa Kỳ đạt kim ngạch 28.5 tỷ
USD, tăng 19.6%, đây là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, với mức tăng
trưởng xuất khẩu cao hơn mức tăng chung của cả nước trong bối cảnh kinh tế thế
giới suy giảm đã cho thấy tầm quan trọng của thị trường này.
Thị trường Châu Phi ước đạt 2.2 tỷ USD. Trong đó, thị trường Bắc Phi vẫn
duy trì mức độ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2011-2015.
Thị trường Châu Đại Dương ước đạt 4.3 tỷ USD, mức tăng đồng đều tại hai
thị trường chính là New Zealand và Australia (14%).

Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường lớn giai đoạn
2011-2015

(Nguồn: Bộ Công Thương)

Về nhập khẩu
Nhập khẩu từ thị trường Châu Mỹ và Châu Đại Dương có mức tăng cao
(25.6%), chủ yếu tăng ở thị trường Hoa Kỳ (20.3%) và thị trường Australia
(31.2%), đặc biệt các nước Mỹ La tinh và Caribe (39.6%); tiếp đến là thị trường
Châu Á tăng 12.3% và vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất là 81.1% kim ngạch nhập khẩu
cả nước. Trong đó, chủ yếu nhập từ các nước Đông Á chiếm hơn 60.9%, từ Đông
Nam Á chiếm hơn 15.5%, riêng Trung Quốc chiếm hơn 29.5% tổng kim ngạch
nhập khẩu. Nhập khẩu từ thị trường Châu Âu bằng 94.5%.
Về tác động của các hiệp định thương mại tự do:
17



Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) sau khi ký kết, triển khai đã hỗ trợ
cho phát triển mặt hàng và thị trường xuất khẩu đóng góp vào tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu.
Tác động của ngoại thương đối với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn
2011-2015
Tăng trưởng kinh tế
2011

2012

2013

2014

2015

nhập khẩu (%)
Tốc độ tăng kim ngạch

25.8

6.6

15.4

12.6

12.0


xuất khẩu (%)
Tốc độ tăng GDP (%)

34.2
16.9

18.2
15.0

15.4
9.9

13.7
8.8

8.1

Tốc độ tăng kim ngạch

Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2015
(Nguồn: Worldbank data và tổng cục thống kê)
Để phân tích, đánh giá được tác động của ngoại thương đến tăng trưởng
kinh tế Việt Nam thời kỳ 2011-2015, ngoài các số liệu liên quan đến tổng sản phẩm
trong nước (GDP), ta cần biết thêm các số liệu kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu
của thòi kỳ đó. Bảng số liệu dưới đây sẽ phản ánh sự gia tăng quy mô, tốc độ tăng
trưởng GDP trong mối quan hệ tỷ lệ thuận vói sự gia tăng quy mô và tốc độ tăng
trưởng ngoại thương, từ đó, ta có thể thấy ngoại thương có vai trò rất quan trọng
của tăng trưởng xuất khẩu.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế


Năm
2011
2012
2013
2014
2015

Nông, lâm nghiệp Công nghiệp và Dịch

Thuế sản phẩm trừ

và thuỷ sản

xây dựng

vụ

trợ cấp sản phẩm

19.57
19.22
17.96
17.7
18.1

32.24
33.56
33.19
33.21
34.0


36.73
37.27
38.74
39.04
40.0

11.46
9.95
10.11
10.05
7.9

18

Tổng số
100
100
100
100
100.0


Bảng 2.3: Cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2015
(Nguồn: tổng cục thống kê)
Ngoại thương với các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ có vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng của nó tác động đến toàn bộ quá trình tái sản xuất
hàng hóa, từ sản xuất, lưu thông, phân phối đến tiêu dùng. Đặc biệt đối với các
ngành sản xuất vật chất cơ bản như công nghiệp, nông nghiệp… ngoại thương đã
tác động trực tiếp đến cả đầu vào và đầu ra của quá trình tái sản xuất, do đó đã góp

phần thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cụ thể:
Ta thấy cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2015 có sự chuyển dịch tích
cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (tỉ trọng khu vực công nghiệp và
dịch vụ tăng, tỉ trọng khu vực nông nghiệp giảm).
2.2.

Định hướng chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam
Trên cơ sở quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế thời kỳ 2011-2020, quan

điểm cụ thể để phát triển xuất nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian tới là:
Về xuất khẩu:
Chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn đến 2020 cũng đề ra
mục tiêu là: “Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và
chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất
khẩu dịch vụ; mở rộng và đa dạng hóa thị trường và phương thức kinh doanh; hội
nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới”.
Trên cơ sở mục tiêu định hướng chung nêu trên, một số định hướng cụ thể
phát triển xuất khẩu trong giai đoạn 2011-2020 là:
- Xác định phát triển xuất khẩu các mặt hàng mới phù hợp với xu hướng biến
đổi của thị trường thế giới và lợi thế của Việt Nam là khâu đột phá trong phát triển
xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Các mặt hàng mới là các mặt hàng
chế tạo công nghệ trung bình và công nghệ cao.

19


- Giai đoạn 2011-2015 tập trung phát triển xuất khẩu những mặt hàng có lợi
thế về điều kiện tự nhiên và lao động rẻ như thuỷ sản, nông sản, dệt may, điện tử,

các sản phẩm chế tác công nghệ trung bình… Tuy nhiên cần chuẩn bị điều kiện để
gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến.
- Giai đoạn 2016-2020 tập trung phát triển các mặt hàng công nghiệp mới có
giá trị gia tăng cao, hàm lượng công nghệ và chất xám cao, trên cơ sở thu hút mạnh
đầu tư trong nước và nước ngoài vào các ngành sản xuất định hướng xuất khẩu,
những ngành chế tạo công nghệ trung bình và công nghệ cao.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng giảm xuất khẩu hàng thô,
nông sản, thuỷ sản, tăng tỷ trọng hàng công nghiệp, đặc biệt là hàng công nghiệp
chế tạo như điện tử, viễn thông, vật liệu xây dựng, đồ gỗ…
- Không khuyến khích phát triển sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng thu hút
nhiều lao động rẻ, ô nhiễm môi trường, giá trị gia tăng thấp. Chú trọng phát triển
các mặt hàng xuất khẩu thân thiện môi trường, hạn chế sử dụng năng lượng và tài
nguyên.
- Tập trung phát triển thị trường cho các sản phẩm có sức cạnh tranh lớn, có
giá trị gia tăng cao hoặc các nhóm sản phẩm có tỷ trọng kim ngạch lớn. Trước hết là
khai thác cơ hội mở cửa thị trường từ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế để đẩy
mạnh xuất khẩu và các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc, ASEAN… Khai thác các thị trường tiềm năng như Nga, Đông Âu, châu Phi
và châu Mỹ La tinh…
Về nhập khẩu:
- Khuyến khích nhập khẩu công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ
nguồn trên cơ sở khai thác lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do với các nước
có nền công nghiệp phát triển.
- Hạn chế nhập khẩu các loại hàng hóa sản xuất trong nước, nhập khẩu hàng
xa xỉ, có chính sách phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp
thay thế nhập khẩu.
- Áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước,
hạn chế ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe, thông qua việc xây dựng
20



các biện pháp phi thuế quan phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, các
biện pháp tự vệ khẩn cấp, áp thuế chống bán phá giá, các tiêu chuẩn kỹ thuật, các
biện pháp kiểm dịch động thực vật…
- Ngăn chặn việc nhập lậu hàng từ các nước ASEAN và Trung Quốc để bảo
vệ hàng sản xuất trong nước. Tranh thủ mở cửa thị trường trong các FTA mới để đa
dạng hóa thị trường nhập khẩu và nhập khẩu công nghệ nguồn.
2.3. Giải pháp phát triển ngoại thương Việt Nam
2.3.1. Giải pháp xây dựng, củng cố các yếu tố nền tảng cho phát triển
ngoại thương nhanh và bền vững:
Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng: Kết cấu hạ tầng tốt sẽ thúc
đẩy và tạo điều kiện cho các hoạt động ngoại thương thực hiện có hiệu quả. Ngược
lại nó sẽ làm giảm hiệu quả của các hoạt động ngoại thương. Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, quan hệ với các nước
ngày càng gia tăng và được củng cố. Chính vì vậy ngoại thương không ngừng phát
triển, do đó yêu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng luôn được đặt làm ưu tiên hàng đầu.
Đặc biệt xây dựng các khu kinh tế mở, các đặc khu kinh tế và hệ thống sân bay, bến
cảng có tính khu vực và quốc tế, hình thành mạng lưới hạ tầng liên kết và hiện đại,
tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động xuất - nhập khẩu hàng hoá và thu hút đầu
tư nước ngoài FDI.
Nhà nước cần đẩy mạnh cải cách hơn nữa thủ tục hành chính trong hoạt
động xuất nhập khẩu: xoá bỏ các thủ tục rườm rà, tạo môi trường thuận lợi và
thông thoáng cho các hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng thị trường, phù hợp với
các cam kết của WTO. Bản thân các chính sách thông thoáng lại tạo nền tảng cho
cải cách hành chính trong xuất nhập khẩu. Kịp thời phát hiện khó khăn của doanh
nghiệp để bổ sung, sửa đổi nhanh các thủ tục hành chính đảm bảo đơn giản, gọn
nhẹ, công khai, minh bạch. Thủ tục hành chính cũng phải được thể chế hoá để
nghiêm minh, tránh tuỳ tiện trong thực hiện.
Phát triển nguồn nhân lực: chú trọng nâng cao cả về số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực cho xuất khẩu là yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng

và đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế.
21


Đặc biệt chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ hoạt động kinh tế đối ngoại có bản lĩnh
chính trị, vững vàng trong môi trường vừa hợp tác vừa đấu tranh. Trang bị tốt kiến
thức chuyên môn, nghiệp vụ, thông thạo ngoại ngữ, nắm vững luật lệ, pháp luật và
có năng lực đàm phán quốc tế. Có thể nói, phát triển nguồn nhân lực chính là chiếc
“chìa khoá” của sự thành công trong hội nhập, yếu tố quan trọng của sự phát triển
nhanh và bền vững.
2.3.2. Giải pháp cho sản phẩm xuất khẩu
Với việc đề cao xuất khẩu thì việc xem xét, tháo gỡ khó khăn, yếu kém và
tìm giải pháp cho các sản phẩm xuất khẩu là hết sức quan trọng. Qua phần thực
trạng thì chúng ta có thể thấy còn nhiều vấn đề khó khăn cần được khắc phục.
Nâng cao trình độ công nghệ, đặc biệt là công nghệ chế biến, công nghệ sau
thu hoạch:
- Trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước thì việc nghiên
cứu - phát triển công nghệ là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, với yêu cầu đặt ra là
gia tăng giá trị sản phẩm của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới thì cải tiến,
nâng cao công nghệ chế biến cần được ưu tiên hàng đầu. Cùng là mặt hàng gạo
nhưng công nghệ xay xát của chúng ta lạc hậu nên gạo bị gãy nát, độ bóng không
cao nên giá gạo Việt Nam thấp hơn nhiều giá gạo Thái Lan. Công nghệ sau thu
hoạch và chế biến đã có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây nhưng vẫn còn yếu
và chưa đồng bộ, mới chỉ tập trung ở một số ngành, lĩnh vực nhất định với trình độ
trung bình và thấp. Nhiều ngành đòi hỏi công nghệ chế biến cao thì vẫn chưa đáp
ứng hoặc đáp ứng được nhưng còn nhiều hạn chế. Để cải thiện vấn đề trên thì cần
sự phối hợp ở cả nhà nước và doanh nghiệp.
+ Thứ nhất: cùng với phát triển công nghiệp thì cũng cần tăng đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển công nghệ, đặc biệt là công nghệ sau thu hoạch và chế
biến.

+ Thứ hai: Đối với các công nghệ cao mà trong nước chưa đáp ứng được thì
chúng ta có thể nhập từ thị trường nước ngoài qua chuyển giao công nghệ.

22


+ Thứ ba: nhà nước có những chính sách thu hút FDI để các doanh nghiệp
đầu tư vào nước ta và thực hiện chuyển giao công nghệ.
Tăng cường nghiên cứu thị trường:
- Để làm được điều này, đòi hỏi cần có trình độ nghiên cứu và phát triển nhất
định, nhưng trên thực tế thì việc đầu tư cho nghiên cứu và phát triển của Việt Nam
còn rất hạn chế. Chúng ta vẫn chạy theo xu hướng bán “ cái chúng ta có” hơn là đáp
ứng “ cái người ta cần”. Và việc đầu tư, quan tâm đúng mức cho khâu nghiên cứu
và phát triển là rất quan trọng trong thời gian tới khi mà chúng ta đang ngày càng
hội nhập hơn vào thương mại quốc tế. Không phải chúng ta có gạo là xuất khẩu
gạo, mà phải nghiên cứu xem thế giới đang cần gì, ưa chuộng loại gạo nào, phẩm
chất ra sao để có thể kịp thời thay đổi giống lúa phục vụ cho việc xuất khẩu đạt hiệu
quả cao, hay cần thiết thay đổi cơ cấu câu trồng để phù hợp với thị trường thế giới.
Gắn kết hơn giữa nhà nước và nhà xuất khẩu:
- Một trong những nguyên nhân khiến cho công tác xuất khẩu của nước ta
vẫn gặp nhiều khó khăn là sự gắn kết giữa nhà nước và doanh nghiệp còn lỏng lẻo,
chưa chặt chẽ. Cần thiết phải làm cho mối quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp
chặt chẽ hơn trên cơ sở nhà nước trợ giúp, tạo môi trường thuận lợi cho doanh
nghiệp phát huy lợi thế, và ngược lại, doanh nghiệp giúp cho nền kinh tế-chính trị
ổn định hơn.
- Về phía doanh nghiệp: cần thiết phải tăng cường đầu tư theo chiều sâu, đổi
mới công nghệ theo hướng hiện đại, thực hành tiết kiệm, tăng năng suất lao động để
hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng, tạo uy tín trên thị trường quốc tế.
- Về phía nhà nước: Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, thành lập các
cơ quan xúc tiến, cơ quan đại diện tại nước ngoài. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có

những chính sách hỗ trợ về tài chính, vật chất cho các doanh nghiệp xuất khẩu có
thể phát huy tiềm năng thế mạnh của mình.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại:
- Đa phần sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chưa có thương hiệu và uy tín
trên thị trường thế giới, đặc biệt còn thiếu các kênh phân phối. Chính vì vậy mà sản
23


phẩm của chúng ta khi xuất khẩu thì phải qua nhiều khâu trung gian trước khi tới
tay người tiêu dùng nước ngoài. Chúng ta vẫn còn phụ thuộc vào thị trường trung
gian để tìm được thị trường và phân phối sản phẩm. Do đó, giải pháp cần chú trọng
giới thiệu hàng hoá Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới để xây dựng
thương hiệu hàng Việt Nam, mở rộng thị trường cho các sản phẩm đã có thương
hiệu. Bên cạnh đó, khi xây dựng và củng cố thương hiệu sản phẩm của mình thì
phải tiến hành đăng ký cho từng loại sản phẩm, nhất là sự chuẩn bị đầu tư nguồn lực
cho các hoạt động đăng ký bảo hộ thương hiệu và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại
nước ngoài. Sản phẩm Việt Nam muốn cạnh tranh được khi ra quốc tế thì nhất thiết
phải xây dựng chiến lược sản phẩm, đây là giải pháp nhằm làm cơ sở và định
hướng, từng bước nâng cao năng lực của mình trên thị trường. Mặt khác, chúng ta
cần xây dựng và phát triển các tổ chức xúc tiến thương mại, trợ cấp thích hợp cho
các doanh nghiệp xuất khẩu. Đây là điều cần thiết, đầu mối giúp các doanh nghiệp
thâm nhập thị trường nước ngoài, cung cấp thông tin thương mại, nghiên cứu thị
trường….Các ngành, các doanh nghiệp phải chủ động tích cực tìm kiếm thị trường
mới, phát triển thị trường Châu Phi, Nam Mỹ và Trung Đông. Đồng thời trong bối
cảnh khó khăn về thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp cần chú trọng tập trung
vào cả thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ.
Đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp nội địa để tạo ra sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế:
- Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa ra thị
trường nước ngoài khá lớn, nhưng đa phần còn nhỏ lẻ, chưa có sự tập trung. Đó là

điểm yếu của chúng ta khi từng doanh nghiệp riêng lẻ tiến quân ra thị trường nước
ngoài để tìm đầu ra cho hàng hóa của mình mà thiếu đi những doanh nghiêp đầu
mối xuất khẩu.
- Thực tế, trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cạnh tranh
không còn là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp riêng lẻ mà cạnh tranh giữa các
tập đoàn lớn, các liên minh doanh nghiệp, là sự cạnh tranh giữa các ngành kinh tế
của các nước khác nhau và giữa các nền kinh tế với nhau. Vì thế cần phải có sự liên
kết giữa các doanh nghiệp nhằm tạo ra sức mạnh chung và tăng cường khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Rõ ràng, nếu các doanh nghiệp Việt Nam vẫn
24


duy trì tình trạng xuất khẩu riêng lẻ, thậm chí cạnh tranh không lành mạnh khi đua
nhau giảm giá để xuất khẩu, kết quả không chỉ là lợi nhuận kinh doanh bị sụt giảm
mà còn bị các doanh nghiệp nước ngoài ép giá hoặc bị kiện phá giá… không chỉ
ảnh hưởng trực tiếp tới doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc gia.
- Như vậy, nếu các doanh nghiệp đơn lẻ biết tập trung lại, hợp tác với nhau
nhằm tạo nên những tập đoàn, những liên minh chuyên xuất khẩu những mặt hàng
nhất định, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sẽ được nâng cao và
phần nào tạo ra sức ảnh hưởng lớn trên thị trường quốc tế.
3.2.3. Giải pháp cho sản phẩm nhập khẩu
Song song với công tác xuất khẩu, chúng ta không chỉ tập trung cho phát
triển xuất khẩu mà xem nhẹ nhập khẩu. Thông qua nhập khẩu mà chúng ta có thể bổ
sung những gì còn thiếu và còn yếu kém cho sản xuất trong nước. Hiện nay, nhập
khẩu cũng còn không ít khó khăn và vấn đề cần có giải pháp tháo gỡ.
Đẩy mạnh nhập khẩu máy móc thiết bị:
- Một trong những vai trò quan trọng của nhập khẩu nói riêng và thương mại
nói chung là chuyển giao công nghệ từ các nước có trình độ công nghệ cao sang các
nước có trình độ công nghệ thấp. Để thực hiện được mục tiêu công nghiệp hóa –
hiện đại hóa thì công nghệ là yếu tố nền tảng cho việc thực hiện mục tiêu trên. Qua

nhập khẩu, chúng ta có thể bổ sung hoàn thiện hệ thống máy móc, thiết bị và công
nghệ còn lạc hậu để tăng cường sản xuất hàng hóa phục vụ không chỉ trong nước
mà còn hướng ra xuất khẩu. Đó là lợi thế của nước đi sau. Chính vì thế mà chính
phủ Việt Nam coi trọng, ưu tiên và khuyến khích nhập máy móc, thiết bị, tư liệu cho
sản xuất. Tuy nhiên, hoạt động này còn nhiều vướng mắc. Nhiều doanh nghiệp vì
lợi nhuận trước mắt mà nhập khẩu các loại máy móc đã qua sử dụng, máy móc
không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, lạc hậu nên đã gây ra nhiều vấn đề khác cho đất
nước như ô nhiễm môi trường, hao phí tài nguyên thiên nhiên, điện, nước,… mà
năng suất không cao. Vấn đề là nước ta chưa có nhiều kỹ thuật viên giỏi nên chưa
thể kiểm định chất lượng trước mà phải qua sử dụng mới kiểm định được. Việc
nhập máy móc, thiết bị không nhất thiết phải là máy móc, thiết bị hiện đại nhất, tiên
tiến nhất, nhưng phải phù hợp với khả năng của Việt Nam, phù hợp với trình độ và
25


×