Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Đặc sắc nghệ thuật kết cấu truyện ngắn nguyễn minh châu sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.66 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

LĂNG THỊ THU LOAN

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT KẾT CẤU
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
SAU 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

LĂNG THỊ THU LOAN

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT KẾT CẤU
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
SAU 1975
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG

HÀ NỘI, 2016




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn
sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS. Đoàn Đức Phương, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới các thầy, cô giáo trong tổ Lý luận
văn học, Phòng Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian của khóa học.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình và bạn bè thân thiết đã luôn
quan tâm, chia sẻ với tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 6 tháng 7 năm 2016
Học viên

Lăng Thị Thu Loan


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn trực tiếp của PGS.TS. Đoàn Đức Phương. Trong quá
trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu và tham khảo kết quả nghiên cứu của các tác
giả đi trước với tấm lòng biết ơn và trân trọng.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 6 tháng 7 năm 2016
Học viên

Lăng Thị Thu Loan



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 11
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 11
6. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 12
7. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 13
8. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 13
NỘI DUNG..................................................................................................... 14
Chƣơng 1. KHÁI LUẬN VỀ KẾT CẤU VÀ TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 ............................................................ 14
1.1. Khái luận về kết cấu........................................................................... 14
1.1.1. Khái niệm kết cấu ..................................................................................... 14
1.1.2. Kết cấu truyện ngắn .................................................................................. 15
1.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ..................................... 17
1.2.1. Quan niệm sáng tác của Nguyễn Minh Châu......................................... 17
1.2.2. Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ........................... 21
Chƣơng 2. KẾT CẤU VỚI TỔ CHỨC CÁC YẾU TỐ NỘI DUNG ........ 32
2.1. Kết cấu với tổ chức hệ thống hình tƣợng nhân vật......................... 32
2.1.1. Khái niệm nhân vật văn học và cách phân loại nhân vật ...................... 32
2.1.1.1. Khái niệm ............................................................................... 32
2.1.1.2. Phân loại ................................................................................ 34
2.1.2. Kết cấu nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ..... 35
2.1.2.1. Miêu tả ngoại hình và hành động .......................................... 36
2.1.2.2. Biểu hiện nội tâm ................................................................... 42
2.1.2.3. Sử dụng ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật .............................. 46



2.2. Kết cấu với tổ chức cốt truyện .......................................................... 53
2.2.1. Khái niệm cốt truyện và cách phân loại cốt truyện................................ 53
2.2.1.1. Khái niệm ............................................................................... 53
2.2.1.2. Phân loại ................................................................................ 55
2.2.2. Tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ...... 56
2.2.2.1. Cốt truyện tâm lý .................................................................... 58
2.2.2.2. Cốt truyện luận đề .................................................................. 62
2.2.2.3. Cốt truyện hồi cố .................................................................... 67
Chƣơng 3. KẾT CẤU VỚI TỔ CHỨC NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT ..... 73
3.1. Kết cấu với tổ chức điểm nhìn trần thuật ........................................ 73
3.1.1. Khái niệm điểm nhìn trần thuật và phân loại điểm nhìn ....................... 73
3.1.1.1. Khái niệm ............................................................................... 73
3.1.1.2. Phân loại ................................................................................ 74
3.1.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 …78
3.1.2.1. Điểm nhìn bên ngoài .............................................................. 79
3.1.2.2. Điểm nhìn bên trong .............................................................. 83
3.1.2.3. Di chuyển và kết hợp điểm nhìn ............................................. 88
3.2. Kết cấu với tổ chức tình huống truyện ............................................. 91
3.2.1. Khái niệm tình huống truyện và cách phân loại tình huống ......... 91
3.2.1.1. Khái niệm ............................................................................... 91
3.2.1.2. Phân loại ................................................................................ 93
3.2.2. Tình huống truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ... 95
3.2.2.1. Tình huống tương phản .......................................................... 96
3.2.2.2. Tình huống nhận thức ............................................................ 99
3.2.2.3. Tình huống bi kịch................................................................ 102
KẾT LUẬN .................................................................................................. 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 109



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau năm 1975, đất nước ta bước ra khỏi chiến tranh và trở về với “quỹ
đạo” của cuộc sống hòa bình, công cuộc đổi mới đất nước diễn ra đòi hỏi phải
có sự gắn liền với công cuộc đổi mới trên mặt trận văn hóa và tư tưởng, trong
đó có văn học. Tại thời điểm đó, với tư cách là một người nghệ sĩ công dân,
nghệ sĩ dấn thân, Nguyễn Minh Châu đã đi từ ý nguyện “canh tân đất nước”
đến ý nguyện “canh tân văn học”. Có lẽ chính quá trình chiêm nghiệm cuộc
sống và thể nghiệm nghệ thuật ở cả hai quãng thời gian trước và sau 1975 đã
trở thành một yếu tố quan trọng để ông nhìn về một “thời xa vắng”, nhưng
không phải tìm vào quá khứ để quay lưng với hiện tại mà là để tự nhìn nhận
lại mình, “tự thay máu” chính mình để nhìn rõ tương lai và quan trọng hơn
hết, để tìm con đường đổi mới văn học, nói như nhà nghiên cứu và phê bình
ương Trí Nhàn thì đây là một “sự dũng cảm rất điềm đạm” [30, tr.23]. Ông
nổi lên với vai trò và vị trí quan trọng mà nhà văn Nguyên Ngọc đã khẳng
định: “Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài
năng nhất của văn học ta hiện nay” [26, tr.11]. Những sáng tác tiểu thuyết từ
Miền cháy cho đến Mảnh đất tình yêu đã mang đến một sắc diện mới trong
sáng tác của nhà văn, nhưng có thể khẳng định rằng những sáng tác truyện
ngắn từ Bức tranh cho đến Phiên chợ Giát mới thực sự là những tìm tòi mới,
với những cái nhìn mới về hiện thực và con người.
Dù Nguyễn Minh Châu đã ra đi về miền miên viễn, nhưng sáng tác
truyện ngắn sau 1975 của ông vẫn hiện lên như một thanh nam châm đầy ma
lực, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của công chúng bởi những thể nghiệm và
tìm tòi đầy tính sáng tạo trong công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà, trên
cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh những phương diện mà



2
các tác giả đi trước đã nghiên cứu, chúng tôi đi sâu tìm hiểu về nghệ thuật kết
cấu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975, một yếu tố
thuộc về kỹ thuật và thủ pháp sáng tác. Đây sẽ là một minh chứng góp phần
khẳng định tài năng và sự sáng tạo của nhà văn để tạo nên một tiếng nói riêng,
một giọng điệu riêng, một phong cách Nguyễn Minh Châu trên văn đàn

iệt

Nam hiện đại.
Mặt khác, có thể nói kết cấu chính là sự hiện thực hóa, cụ thể hóa ý đồ
sáng tác của nhà văn thông qua cách thức tổ chức tác phẩm, bởi “trong quá
trình quan sát đời sống, tích lũy tài liệu, hình thành ý đồ sáng tác, nhà văn đã
bắt đầu vận dụng các nguyên tắc kết cấu để tổ chức nên văn bản tác phẩm”
[51, tr.101]. Chất liệu hiện thực thông qua cách bố trí, sắp xếp và tổ chức của
kết cấu sẽ hình thành nên hình thức nghệ thuật mang nội dung tự sự cụ thể. Là
một yếu tố thuộc phương diện hình thức, kết cấu giữ vai trò quan trọng trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ đối với các yếu tố thuộc phương diện nội dung.
Nhờ có kết cấu mà tác phẩm trở thành một chỉnh thể thống nhất dựa trên mối
liên hệ giữa các yếu tố bên trong (nội dung) và bên ngoài (hình thức) với mục
đích sáng tạo của nhà văn. Điều này vừa góp phần biểu hiện thế giới nghệ
thuật, vừa đem lại tính hiệu quả cao cho sự tập trung chủ đề và sự thống nhất
trong tư tưởng của nhà văn. Từ đó, tác phẩm sẽ trở nên có linh hồn và có
được một sức sống lâu bền đối với bạn đọc qua nhiều thế hệ. Vì vậy, việc
nghiên cứu nghệ thuật kết cấu chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống các
phương tiện tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng.
Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975 còn được chọn
giảng trong chương trình Ngữ văn mới ở các cấp học (Bến quê - THCS và
Chiếc thuyền ngoài xa - THPT). Vậy nên việc nghiên cứu nghệ thuật kết cấu
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ngày càng có ý nghĩa thiết thực đối

với công việc giảng dạy và học tập trong nhà trường.


3
ới tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Đặc sắc nghệ thuật
kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 cho luận văn của mình. Đây
sẽ là cơ hội để người viết tìm hiểu và khẳng định vai trò cũng như nhiệm vụ
của kết cấu đối với việc tổ chức các yếu tố nội dung và tổ chức nghệ thuật
trần thuật, trong những sáng tác truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn
sau 1975 trên tinh thần khoa học.
2. Lịch sử vấn đề
Kể từ khi truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập (1960) ra đời, cho đến
tác phẩm cuối cùng Phiên chợ Giát (1989) được Nguyễn Minh Châu hoàn
thành trên giường bệnh, trong suốt quãng thời gian gần 30 năm lao động nghệ
thuật không mệt mỏi đó, tính cho đến nay, sáng tác của ông luôn nhận được
sự quan tâm và chú ý của công chúng cùng với nhiều bài viết, chuyên luận và
những công trình nghiên cứu khoa học.
Cuốn Nguyễn Minh Châu, con người và tác phẩm (Tôn Phương Lan và
Lại Nguyên Ân biên soạn), Nguyễn Minh Châu, tài năng và sáng tạo nghệ
thuật (Mai Hương sưu tầm, biên soạn và giới thiệu), Nguyễn Minh Châu về
tác gia và tác phẩm (Nguyễn Trọng Hoàn giới thiệu và tuyển chọn) là sự tổng
hợp nhiều bài viết của giới nghiên cứu và phê bình trong việc đi sâu tìm hiểu
con người và sáng tác của nhà văn trên cả ba mảng: tiểu thuyết, truyện ngắn
và tiểu luận phê bình. Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu, người viết chỉ
điểm qua những ý kiến và bài viết có liên quan đến truyện ngắn của ông.
Trước 1975, với việc xây dựng được không khí huyền diệu và hào
hùng của thời kháng chiến, đặc biệt là hình tượng người anh hùng, truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu đã được dư luận chào đón nồng nhiệt. Có thể kể đến
bài viết của những tác giả như: Nguyễn Kiên với Đọc Những vùng trời khác
nhau của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thanh Hùng với Cái đẹp và cái hay

của Mảnh trăng cuối rừng, Nguyễn Hòa với Cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy,


4
Nguyễn Thanh Tú với Nghệ thuật kể chuyện trong Mảnh trăng cuối rừng,
Nguyễn

ăn Bính với Vẻ đẹp của nhân vật Nguyệt và nghệ thuật xây dựng

nhân vật của Nguyễn Minh Châu,…
Sau 1975, hàng loạt truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu lần lượt được
công bố đã tạo nên sự kiện có tiếng vang trong đời sống văn học. Đáng lưu ý
là cuộc hội thảo Trao đổi về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu những năm
gần đây do báo

ăn Nghệ tổ chức vào tháng 6 năm 1985. Bên cạnh những ý

kiến còn tỏ ra băn khoăn và nghi ngờ thì đã có ý kiến nêu cao sự tìm tòi và
đổi mới của nhà văn. Phong Lê cho rằng: “Đúng là Nguyễn Minh Châu là
người có giọng điệu riêng, mà nói đúng hơn, anh là người đa giọng điệu. Cái
đa giọng điệu, cái đa thanh của cuộc đời đã vào anh. Tất cả các cung bậc có
trong đời: cái cao thượng, cái ti tiện; cả cái bi lẫn cái hài, anh đều đưa vào
truyện” [25, tr.299]. Lê Thành Nghị cho rằng: “Tác giả thay đổi “chất
giọng”, thay đổi góc nhìn phần lớn để truy tìm đến tận cùng những biểu hiện
tâm lý phức tạp, tác giả lựa chọn chất châm biếm - trào lộng (Bức tranh,
Khách ở quê ra,…), nhiều thiên truyện như một giả định, vấn đề được nêu ra
như một luận đề, các chi tiết nhiều khi mang màu sắc minh họa” [25, tr.301].
Sau cuộc hội thảo, giới nghiên cứu và phê bình đã dần đi đến khẳng định quá
trình đổi mới tích cực và hiệu quả của Nguyễn Minh Châu. Ngô Thảo với bài
Đọc những tác phẩm mới của Nguyễn Minh Châu, sau khi phân tích Người

đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, tác giả đã đánh giá cao năng lực của nhà
văn trong việc phân tích và thể hiện những biến động tâm lý khá phức tạp của
nhân vật. Bên cạnh đó, tác giả nhận xét: “Đưa nhân vật cũng như người đọc
đối diện với cuộc sống trần thế, những vấn đề trần thế đang là một xu hướng
trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Cách nhìn ấy làm cho truyện ngắn
có chiều sâu, lối nhìn đời có chiều sâu (…) Hạng, Bức tranh, Đứa ăn cắp,
Sắm vai, Giao thừa, và cả Mẹ con chị Hằng, mỗi truyện một vẻ, nhấn về một


5
phía, nhưng đều có chung âm điệu phê phán khá gay gắt những thói đời, khi
tác giả thể hiện lại nó một cách khách quan” [25, tr.354-355]. Trần Đình Sử
với bài viết Bến quê - một phong cách trần thuật giàu chất triết lý đã nhận
xét: “Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh, rồi tập Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
xuất hiện như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới
(…) hướng ngòi bút của anh vào việc phát hiện các hiện tượng đời sống trong
chiều sâu triết học và lịch sử, thể hiện nhu cầu chiêm nghiệm, tự đối thoại với
chính mình và với ý thức của mình” [25, tr.188-189]. Lại Nguyên Ân với bài
Sáng tác truyện ngắn gần đây của Nguyễn Minh Châu, trên cơ sở nhận xét về
xu hướng triết lý nhận thức của nhà văn, tác giả đã tạm xếp thử các truyện ấy
vào một số dạng chính sau: “Từ loại truyện “tự thú” mà trung tâm thường là
một nhân vật đang “sám hối”, đang tự phân tích, phê phán bản thân về đạo
đức, lối sống, nhà văn đã chuyển sang thể nghiệm loại truyện tuy có dạng thức
“tự nhiên”, khách quan nhưng phê phán gay gắt những lối sống vô ý thức,
vâng theo những chuẩn mực thông tục, không hề lường tới hậu quả, không hề
biết tới thực chất lối sống của mình là gì. Thêm một bước nữa, nhà văn đi tới
loại truyện cũng có dạng khách quan tự nhiên, nhưng không phải để lên án,
phê phán đối tượng cụ thể nào mà chủ yếu để nhận thức những tình thế,
những khía cạnh trái ngược vốn có trong đời sống con người” [25, tr.269].

Phạm ĩnh Cư với bài viết Về những yếu tố tiểu thuyết trong truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu đã khẳng định: Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát “xuất
hiện lối hành văn “giao hưởng” vang vọng dư âm những giọng nói khác nhau
(…) xuất hiện nhân vật tiểu thuyết đích thực - một con người nhiều chiều, một
tính cách vừa mâu thuẫn vừa thuần toàn, vừa cá biệt vừa tiêu biểu, vừa là sản
phẩm của quá khứ lịch sử tối tăm, vừa tỏa sáng của nhân tính vĩnh hằng của
những giá trị đạo đức muôn đời, một người nông dân chân lấm tay bùn nhưng


6
đồng thời lại là một “nhà tư tưởng” có thế giới riêng, có tiếng nói riêng,
tiếng nói ấy lan xa khắp nơi trong tác phẩm, hòa điệu và nghịch điệu phức
tạp với tiếng nói tác giả” [25, tr.349]. Đỗ Đức Hiểu với bài Đọc Phiên chợ
Giát của Nguyễn Minh Châu đã khẳng định truyện ngắn “có một tầm cỡ lớn”
và đánh giá cao về mặt nghệ thuật như sau: “Phiên chợ Giát là một truyện
mở; từ cái lô gích của ngôn ngữ trên bề mặt, truyện đi tới ngôn ngữ thứ hai,
ngôn ngữ biểu tượng, xiêu vẹo, những ảo giác, với những cơn sốc, những
nghịch lý, tức là một thế giới quyện nhòe của hư và thực, đó là những kí hiệu
riêng của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn này” [25, tr.204]. Nguyễn
ăn Hạnh với Nguyễn Minh Châu những năm tám mươi và sự đổi mới cách
nhìn về con người, qua phân tích Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, tác giả nhận xét: “Khẳng định
cái đẹp, chất thơ của đời sống, nhưng Nguyễn Minh Châu không thi vị hóa
cuộc sống, không nhìn cuộc sống một chiều, dễ dãi. Cuối cùng anh hiểu rằng
cuộc sống, bao giờ cũng vậy, có cả ánh sáng và bóng tối, có cả dương và âm,
rằng bản chất con người hoàn toàn không đơn giản, và mỗi bước đi lên của
xã hội, của cuộc sống cực kì chật vật, mâu thuẫn, đầy thăng trầm và nhiều khi
rất đau đớn” [25, tr.277-278],…
Nhân Kỷ yếu Hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn Minh Châu vào năm
1995, giới nghiên cứu và phê bình đã tiếp tục khẳng định tài năng và sự sáng

tạo của nhà văn. Đinh Trí Dũng với bài viết Nguyễn Minh Châu và sự trăn trở
của một ngòi bút đầy trách nhiệm đã khẳng định: “Nguyễn Minh Châu như
một người lính hành quân không mệt mỏi, luôn trăn trở đào sâu vào những
tầng vỉa mới của đời sống, phát hiện những kiểu người mới, những giá trị
mới. Và giọng văn của Nguyễn Minh Châu cũng có những biến đổi: ân tình,
sâu sắc, nhiều lúc “đầy trắc ẩn” [25, tr.360]. Nguyễn Trung Hiếu với Trở lại
Chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu” đã nhận xét: “Một trong


7
những cái lạ của Nguyễn Minh Châu là Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành. Lạ về nhân vật, lạ về kết cấu và lạ về cả lô gích của chuyện. Nó gây
cảm giác nửa tin nửa ngờ, nhưng nó quả có một sức hấp dẫn bàng hoàng”
[25, tr.185]. Lê Quang Hưng với bài viết Một hình tượng nông dân điển hình
trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu (về nhân vật lão Khúng trong Khách ở
quê ra và Phiên chợ Giát) đã nhận xét: “Nhân vật lão Khúng là sự trộn lẫn
những sắc màu thẩm mĩ đối lập một cách độc đáo để tạo nên “con người”
này: bản năng và lý trí, hoang sơ và lọc lõi, chấp nhận và đấu tranh, đơn
giản mà cũng lắm quanh co giằng xé” [25, tr.212],…
Di sản văn học của Nguyễn Minh Châu vẫn không ngừng nhận được sự
quan tâm, hưởng ứng của dư luận trong và ngoài nước với nhiều bài viết được
đăng trên các báo và tạp chí, ngay cả khi đất nước đã bước sang thiên niên kỉ
mới. N.I.Niculin với bài Nguyễn Minh Châu và sáng tác của anh đã khẳng
định những đóng góp của nhà văn trong việc mở ra cho văn học những cái
mới trên phương diện đề tài và hình tượng nhân vật. Dương Thị Thanh Hiên
với Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã phân tích các hình ảnh biểu tượng tạo
nên chất trữ tình, triết lý cho tác phẩm. Lê Quý Kì với bài viết Nguyễn Minh
Châu viết về chiến tranh và sau chiến tranh, qua phân tích hai truyện ngắn
Cỏ lau và Mùa trái cóc ở miền Nam, tác giả đã khẳng định đóng góp của nhà
văn trong xây dựng nhân vật với những đặc trưng cơ bản của thời đại và sự

phức tạp, chứ không phải là sự giản đơn một chiều: “Nguyễn Minh Châu
buộc nhân vật của ông phải đối mặt với cả quá khứ và hiện tại - một quá khứ
khốc liệt, đầy thử thách chưa xa và một hiện tại đầy rối rắm, phức tạp đang
phơi ra trước mắt (…) Phơi bày những góc khuất trong tâm hồn người lính
trong chiến tranh, nhưng không làm lu mờ chiến thắng của họ, trái lại còn
làm sâu sắc thêm, vĩ đại thêm chiến thắng đó (…) bối cảnh mà các nhân vật
của ông hoạt động ở trong đó. Bối cảnh này, dưới con mắt Nguyễn Minh


8
Châu, thật là ngổn ngang. Ngổn ngang không phải chỉ trên mặt đất, mà ngổn
ngang chính trong lòng người” [26, tr.187-189],…
Ngoài các bài viết được in tổng hợp trong ba cuốn sách nêu trên, ta có
thể kể đến bài viết của các nhà nghiên cứu khác như: Đoàn Đức Phương với
Chiếc thuyền ngoài xa và thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Tác
giả đã nêu rõ tài năng của nhà văn trong phản ánh cách nhìn đa dạng, nhiều
chiều về cuộc sống và con người, phát hiện bản chất thật sau lớp vỏ đẹp đẽ
bên ngoài. Gần đây là Lê Huy Bắc với bài viết Đa văn bản trong Chiếc
thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Tác giả đã khám phá và đi sâu phân
tích bốn tầng văn bản trong truyện ngắn, bao gồm: văn bản về nghệ thuật, văn
bản về nghệ sĩ Phùng, văn bản về nữ quyền và văn bản về nhân đạo.
Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc đến hai cuốn chuyên luận về
Nguyễn Minh Châu và sáng tác của ông. Tôn Phương Lan với Phong cách
nghệ thuật Nguyễn Minh Châu: trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng nghệ thuật
cũng như quan niệm về hiện thực và con người của nhà văn, tác giả đi đến
phác họa những nét cơ bản về phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu
thông qua sự tìm hiểu các bình diện về hệ thống nhân vật, tình huống, điểm
nhìn trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ. Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi
mới văn học Việt Nam sau 1975 của Nguyễn


ăn Long và Trịnh Thu Tuyết:

tác giả đã khẳng định vị trí và tài năng của nhà văn trong đổi mới ý thức nghệ
thuật, đổi mới thế giới nhân vật, đổi mới kết cấu và nghệ thuật trần thuật khi
đặt vấn đề nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong sự
vận động của văn xuôi đương đại. Tuy chưa phải là hai công trình nghiên cứu
chuyên biệt về truyện ngắn, nhưng các tác giả cũng đã dành phần lớn dung
lượng trong phân tích tác phẩm truyện ngắn để góp phần minh họa cho phần lý
thuyết thêm thuyết phục.
Sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu còn được đề cập khá
nhiều trong các công trình luận án, luận văn, khóa luận cũng như trong công


9
tác giảng dạy tại các trường phổ thông và chuyên nghiệp trên cả nước. Có thể
kể đến các luận án như: Mạch lạc và hệ thống sự kiện trong một số truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu (Trần Thị Thu Hiền - ĐHSP Hà Nội), Nghệ thuật tự
sự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu (Lê Thị Hoa - ĐHSP
Hà Nội), Hàm ngôn trong một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu (Lương
ăn Hà - ĐHSP Hà Nội),… Những luận văn như: Những đóng góp của Nguyễn
Minh Châu trong quá trình đổi mới của văn học Việt Nam hiện đại (Trần Thị
Thái - ĐHKHXH&N Hà Nội), Lời văn nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu (Nguyễn Thị

ân - ĐHSP Hà Nội 2), Thế giới nghệ thuật truyện ngắn

Nguyễn Minh Châu (Nguyễn Thị Phương Thảo - ĐHKHXH&N

Hà Nội),


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (Phạm Thị Hồng ĐHSP Hà Nội), Phân tích phần hội thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu (Ngô Thị Thu Phương - ĐHSP Hà Nội), Cốt truyện trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975 (Kiều Thị Loan - ĐHKHXH&N Hà Nội),…
Riêng về vấn đề kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã có một
số bài viết và công trình nghiên cứu đề cập đến.
Nguyễn Trọng Hoàn với bài Truyện ngắn Bức tranh - sự đối diện và
thức tỉnh lương tâm, sự khám phá khuôn mặt bên trong của con người đã cho
rằng: Nguyễn Minh Châu đã sử dụng “kết cấu trùng điệp có tính liên khúc”
[25, tr.170] để khám phá ra mặt khuất lấp ẩn sâu trong tâm hồn nhân vật.
Trên cơ sở đề cập đến vấn đề đổi mới kết cấu trên phương diện tổ chức
cốt truyện, Trịnh Thu Tuyết đã khẳng định: “Khảo sát các sáng tác của
Nguyễn Minh Châu ở thập kỉ 80 có thể thấy khung cốt truyện của ông được
nới lỏng đến mức nhiều lúc dường như không còn truyện, chỉ là những mảnh
đời vụn vặt, những trạng thái tâm lí như là vu vơ…, những xung đột chỉ phác
ra mà không giải quyết” [35, tr.145]. Nhận định trên cũng đã bao hàm mảng
truyện ngắn trong đó. Tác giả đưa ra dẫn chứng qua việc phân tích một số


10
sáng tác tiêu biểu gắn với phân loại cốt truyện, có kèm theo tình huống. Đối
với loại cốt truyện triết lý luận đề, tác giả khẳng định: “Trong kiểu cốt truyện
không có biến cố này, không có những đột biến và xung đột khép kín; sự việc
mà tác giả đề cập trong truyện chỉ là “sự bổ sung cho các mâu thuẫn đã có
s n, bất chấp có sự việc ấy hay không”. Nguyễn Minh Châu đã thông qua
những xung đột tâm lý trong truyện mà nêu ra những vấn đề đang tồn tại
trong cuộc sống hàng ngày để nhân vật và người đọc cùng luận bàn, suy
ngẫm” [35, tr.147]. Đối với loại cốt truyện sinh hoạt thế sự, tác giả khẳng
định: “Trong các sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, có một số truyện
ngắn được coi như là “không có cốt truyện”. Thật ra đó là những loại truyện
kể về những “sự việc đơn giản, bình thường” được xây dựng như những bức

tranh đời sống, những cốt truyện không có mở đầu hay kết thúc, vắng bóng
những thắt mở nút hồi hộp, chỉ là sự tái hiện những dòng đời đang tự nhiên
trôi chảy” [35, tr.153]. Đối với loại cốt truyện đời tư được xây dựng dựa trên
tình huống bi kịch, tác giả khẳng định: “Cốt truyện trong các truyện ngắn này
không dừng lại ở một thời điểm cắt ngang mà thường trải dài theo lịch sử của
cả số phận, một cuộc đời với những xung đột tâm lý chồng chéo. Câu chuyện
mở ra trên nền của “tình huống xung đột cố hữu”, hầu như không có cao
trào, thắt mở nút theo kiểu cốt truyện truyền thống” [35, tr.156].
Trên cơ sở khảo sát những tài liệu hiện có trong tay, chúng tôi nhận
thấy trong những giới hạn nhất định, do tính chất về đối tượng, mục đích và
phạm vi nghiên cứu khác nhau nên sự quan tâm của các tác giả mới chỉ dừng
lại ở những bài viết nhỏ, hoặc đề cập đến một vài phương diện thuộc kết cấu.
Song chưa có công trình nào thật chi tiết nghiên cứu về nghệ thuật kết cấu
một cách hệ thống, khi đi sâu vào phân tích vai trò, nhiệm vụ của kết cấu đối
với việc tổ chức các yếu tố nội dung và tổ chức nghệ thuật trần thuật. Trân trọng
và kế thừa nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận văn của chúng tôi đi sâu tìm
hiểu về Đặc sắc nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975.


11
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu Đặc sắc nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu sau 1975, người viết nhằm mục đích tìm hiểu những nét đặc sắc về
nghệ thuật kết cấu trong sáng tác truyện ngắn của nhà văn để thấy được
những nét đặc trưng riêng, đồng thời hiểu rõ hơn phong cách truyện ngắn của
ông. Qua đó tiếp tục khẳng định bút pháp sáng tạo độc đáo và giàu màu sắc
thẩm mĩ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, cũng như vị trí và đóng góp
của ông đối với nền văn xuôi iệt Nam hiện đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu khái luận về kết cấu, bao gồm: khái niệm kết cấu và vai trò

của kết cấu đối với truyện ngắn; tìm hiểu khái quát truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu sau 1975 trên các phương diện: quan niệm sáng tác, đặc điểm về nội
dung và nghệ thuật.
- Tìm hiểu vai trò của kết cấu trong việc tổ chức các yếu tố nội dung,
bao gồm: tổ chức xây dựng nhân vật và cốt truyện.
- Tìm hiểu vai trò của kết cấu trong việc tổ chức nghệ thuật trần thuật,
bao gồm: tổ chức điểm nhìn trần thuật và tình huống truyện.
- Rút ra những kết luận cụ thể và khách quan về nghệ thuật kết cấu
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những nét đặc sắc về
nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975.
- Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn tập trung
vào mảng sáng tác truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau năm 1975,
gồm 23 truyện ngắn, trong đó có 18 truyện ngắn được in tổng hợp trong cuốn
Nguyễn Minh Châu toàn tập - Tập 3: Truyện ngắn (Nxb

ăn học, 2001), 3

truyện ngắn được đăng trên báo (Chú chim, Chợ Tết, Sân cỏ Tây Ban Nha)


12
và được in tổng hợp trong cuốn Nguyễn Minh Châu toàn tập - Tập 5: Tiểu
luận phê bình và Phụ lục (Nxb ăn học, 2001), 2 truyện ngắn (Hạng và Giao
thừa) được in trong cuốn Nguyễn Minh Châu, tác phẩm văn học được giải
thưởng Hồ Chí Minh (Nxb ăn học, 2007).
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: dùng trong phân tích từng truyện
ngắn nhằm làm rõ vai trò, nhiệm vụ của kết cấu trong tổ chức xây dựng nhân

vật, cốt truyện, điểm nhìn trần thuật và tình huống truyện làm nên những nét
đặc sắc về nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau
1975, từ đó rút ra những kết luận khái quát về vai trò và ý nghĩa của nó đối
với việc biểu hiện các giá trị nội dung và tư tưởng của nhà văn.
- Phương pháp hệ thống: sử dụng với mục đích nhằm tạo ra một cái
nhìn hệ thống và logic trong việc hệ thống hóa những yếu tố đặc sắc nhất về
nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975, giúp xác định vị
trí truyện ngắn của nhà văn trong tiến trình vận động của văn xuôi

iệt Nam

hiện đại.
- Phương pháp loại hình: dùng trong việc phân loại và xác định đặc
điểm của nhân vật, cốt truyện, điểm nhìn trần thuật và tình huống truyện,
được đặt trong tương quan với vai trò, nhiệm vụ của kết cấu.
- Phương pháp lịch sử - xã hội: dùng để làm rõ những ảnh hưởng của
hoàn cảnh xã hội đối với sự đổi mới ý thức nghệ thuật, cũng như cái nhìn mới
về con người và cuộc sống chi phối đến đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu giai đoạn sau 1975.
Song song với việc vận dụng phối hợp các phương pháp trên, người
viết còn vận dụng thao tác thống kê; phương pháp so sánh, đối chiếu ở một
chừng mực nhất định và vận dụng lý thuyết về các khoa học liên ngành: Lý
luận văn học, Thi pháp học, Tự sự học,…


13
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về nghệ thuật
kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975. Kết quả nghiên cứu của
luận văn sẽ góp phần khẳng định vị trí và đóng góp của Nguyễn Minh Châu

đối với nền văn học iệt Nam hiện đại.
- Một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu được chọn giảng trong
nhà trường, nên kết quả luận văn nghiên cứu hi vọng sẽ là một tư liệu tham
khảo, giúp ích cho công tác giảng dạy của giáo viên.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái luận về kết cấu và truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
Chương 2: Kết cấu với tổ chức các yếu tố nội dung
Chương 3: Kết cấu với tổ chức nghệ thuật trần thuật


14
NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI LUẬN VỀ KẾT CẤU
VÀ TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975
1.1. Khái luận về kết cấu
1.1.1. Khái niệm kết cấu
Kết cấu là một yếu tố thuộc phương diện hình thức của tác phẩm văn
học và được các nhà nghiên cứu quan niệm như sau:
Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi (đồng chủ biên) cho rằng: kết cấu (tiếng Pháp: composition) là
“toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm”. Để làm rõ hơn khái
niệm kết cấu, nhà nghiên cứu đã phân biệt kết cấu với bố cục và đi đến kết
luận: “Thuật ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp hơn. Tổ
chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan
bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm cả sự liên kết bên
trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Bố cục là một
phương diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm: tổ chức hệ

thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm;
nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ
thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện,… sao cho toàn bộ tác
phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật” [20, tr.156-157].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân cho rằng: kết cấu là
“sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật; tức là sự cấu tạo
tác phẩm, tùy theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình
thức và phối thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu - là kết quả
của nhận thức thẩm mỹ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu


15
có tính nội dung độc lập; các phương thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến và
đào sâu hàm nghĩa của cái được mô tả” [1, tr.167].
Trong cuốn Lí luận văn học, Đoàn Đức Phương cho rằng: “Kết cấu là
sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức,
sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở
đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định” [17, tr.179].
Như vậy, những quan niệm trên nhìn chung là tương đồng và có sự
nhấn mạnh riêng.

ề cơ bản, chúng ta có thể hiểu: kết cấu là sự sắp xếp, tổ

chức các yếu tố bên trong và bên ngoài tác phẩm sao cho tác phẩm trở thành
một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất và sinh động, qua đó bộc lộ quá trình
nhận thức và góp phần khẳng định tài năng cũng như phong cách nhà văn.
1.1.2. Kết cấu truyện ngắn
Truyện ngắn là một thể tài tự sự và được giới nghiên cứu quan niệm
như sau:
Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi (đồng chủ biên) cho rằng: truyện ngắn (tiếng Anh: short story) là
“tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết
các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo
của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một
hơi không nghỉ (…) Truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện
tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm
hồn của con người” [20, tr.370-371].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân cho rằng: truyện
ngắn là “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập
hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của
truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với
việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ” [1, tr.345].


16
Như vậy, từ các quan niệm trên, ta có thể hiểu: truyện ngắn là một thể
tài tự sự có dung lượng nhỏ, thể hiện tính cô đúc trong quá trình phản ánh
hiện thực xã hội và con người, qua đó khẳng định cách nhìn và cách nắm bắt
cuộc sống rất riêng của nhà văn.
Tr.Aimatop đã khẳng định: “Truyện ngắn giống như một thứ tranh
khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô đúc, các phương tiện
phải được tính toán một cách kinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là một công
việc vô cùng tinh tế. Xoay xỏa trên một mảnh đất chật hẹp, chính đó là chỗ
làm cho truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác” [40, tr.146-147]. Mỗi thể
loại văn học sẽ có một phương thức tổ chức riêng. Kết cấu truyện ngắn sẽ
khác so với kết cấu kịch và kết cấu trữ tình.
Trong truyện ngắn cũng như tiểu thuyết, kết cấu đảm nhiệm chức năng
rất đa dạng: hệ thống hóa tính cách của các nhân vật và tạo ra mối quan hệ tác
động qua lại giữa chúng; tổ chức, sắp xếp các sự kiện, biến cố trong tác phẩm
sao cho cốt truyện được gói gọn trong một khung khổ nhất định; tổ chức thời

gian, không gian nghệ thuật; tổ chức điểm nhìn trần thuật; sắp xếp các yếu tố
ngoài cốt truyện,… qua đó bộc lộ chủ đề của tác phẩm và tư tưởng của nhà
văn. Bên cạnh việc tổ chức và sắp xếp các thành tố trên, kết cấu còn làm
nhiệm vụ vừa tạo ra mối liên hệ nội tại giữa chúng để tạo nên một chỉnh thể
nghệ thuật nhất định, vừa tạo nên một chất keo kết dính chúng với hiện thực
đời sống được nhà văn phản ánh trong tác phẩm và đặt trong bối cảnh văn học
của thời đại.
Nhưng điều đáng lưu tâm ở đây là do tính chất về mặt thể loại nên
những tư tưởng mà nhà văn muốn thể hiện có thể dễ dàng được gói gọn lại
trong một khuôn khổ rộng lớn của tiểu thuyết, nhưng lại khó có thể chứa vừa
trong khuôn khổ của truyện ngắn. Chính điều này đã đặt ra yêu cầu người
nghệ sĩ trong sáng tác truyện ngắn cần phải có một lối kết cấu khác, một cấu


17
trúc bố cục khác so với tiểu thuyết. Nguyễn Minh Châu đã khẳng định: “Nếu
tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là một cái mặt cắt của
dòng đời. Vì thế, mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi ở người viết
một công việc tổ chức, cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt” [9, tr.283-284].
Truyện ngắn là một tác phẩm nghệ thuật được nhà văn lấy chất liệu từ hiện
thực đời sống rồi đem “chưng cất” và gói gọn lại trong một dung lượng nhỏ.
Công việc này đòi hỏi sự tinh tế cao, thể hiện cái tài của người nghệ sĩ. Bởi
truyện ngắn nhỏ bé nhưng lại có sức chứa nội tại rất lớn, thậm chí trở thành
một bức tranh bao quát toàn bộ đời sống. Sức chứa ấy có mối liên quan mật
thiết với việc nhà văn vận dụng những nguyên tắc kết cấu để tổ chức xây
dựng tác phẩm nghệ thuật, mà nói như Bùi

iệt Thắng thì “viết truyện ngắn

là “chơi” kết cấu” [56, tr.73]. Chính vì vậy, để đạt được sự “tiết kiệm nghệ

thuật” (M.B.Khrapchenco) và hướng đến sự biểu đạt có hiệu quả cao thì
trong truyện ngắn, kết cấu đảm nhiệm vai trò vô cùng quan trọng.
Những quan niệm về kết cấu và vai trò của kết cấu trong truyện ngắn là
cơ sở để chúng tôi nghiên cứu Đặc sắc nghệ thuật kết cấu truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975.
1.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
1.2.1. Quan niệm sáng tác của Nguyễn Minh Châu
ới tư cách là một nhà văn công dân, nhà văn chiến sĩ, trong quá trình
thể nghiệm đời sống và lao động nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu đã tạo nên
cho mình một vốn sống phong phú cùng năng lực tư duy sắc sảo và tinh tế
trên con đường hình thành nên tài năng sáng tạo. Là một người nghệ sĩ không
chỉ dựa vào cái sẵn có của một bản năng thiên bẩm, cái vốn có của một tài
năng nghệ thuật, ở ông còn luôn có sự quan sát, suy tư và trăn trở về công
việc sáng tác của mình và đồng nghiệp. Xuất phát từ những điều đó, Nguyễn
Minh Châu đã hình thành trong ông một hệ thống ý thức nghệ thuật ngày
càng trở nên toàn diện và sâu sắc trong hành trình sáng tạo của nhà văn.


18
- Về mối quan hệ giữa văn học và đời sống:
ốn là một nhà văn nặng nợ với đời, trong quá trình sáng tác văn
chương, Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Văn học bao giờ cũng phải trả lời
những câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng phải đối mặt với những người
đương thời về những câu hỏi cấp bách của đời sống” [9, tr.64]. Để làm được
điều đó, nhà văn cần phải bám sát thực tế đời sống và hòa mình vào những
biến chuyển chung của thời đại. Ông tâm niệm cuộc đời của người viết văn là
“một cuộc đời không bao giờ được phép ngừng lăn lộn trong đời sống thực tế,
không bao giờ ngừng nghiên cứu và quan sát xã hội, và trong khi chăm chú
đọc cái “cuốn sách khổng lồ” đó, anh ta phải đặt hết cả tâm hồn và trí tuệ
của mình vào, phải tỏ rõ chính kiến và lập trường của mình trước mỗi sự việc,

mỗi hoàn cảnh, mỗi con người” [9, tr.24].
- Về mối quan hệ giữa văn học với hiện thực và con người:
Nguyễn Minh Châu cho rằng điều cần thiết đối với một tác phẩm văn
học là phải đảm bảo được tính chân thật khi phản ánh đời sống. Chính vì vậy,
vào năm 1971, ông đã nhìn lại những hạn chế trong sáng tác văn học giai
đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ và nhận ra rằng: “Hình như cuộc
chiến đấu anh hùng sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và thơ ca đôi khi
tráng lên một lớp men “trữ tình” hơi dày, cho nên ngắm nó thấy mỏng mảnh,
bé bỏng và óng chuốt quá khiến người ta phải ngờ vực” [9, tr.17]. Ông đã tự
“cởi trói thói quen sáng tác”, thoát ra khỏi những “khuôn khổ có s n”, tìm
đến “một khoảng đất rộng rãi” để khám phá đời sống trong tất cả tính đa sự
của nó. Nguyễn Minh Châu đã đi đến quan niệm ngày càng mở rộng và toàn
vẹn hơn về hiện thực. Đó là một hiện thực không hề tô vẽ với cả những vẻ
đẹp và những “khuyết tật” - một hiện thực không như những gì ta mơ tưởng.
Ông viết: “Các nhà văn đang cố nắm bắt không những cái thực mà cả cái hư
ảo của đời sống, không những nắm bắt hiện thực mà còn muốn nắm bắt cái
bóng của hiện thực và cái đó mới là cái hiện thực đích thực” [9, tr.329].


19
Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Cuộc đời và văn học đều có chung
một tiêu điểm là con người” [9, tr.36-37]. Khi nhìn nhận lại văn học giai đoạn
chiến tranh, ông nhận ra rằng nhân vật chỉ là phương tiện để xâu chuỗi các
biến cố lịch sử nên nó thường bị mờ nhạt. Từ đó, ông nghiệm ra rằng: “Phải
viết về con người. Tất nhiên con người không tách rời sự kiện chiến tranh (…)
Rồi trước sau con người cũng đã leo lên trên các sự kiện để đòi quyền sống”
[9, tr.38-39]. ới ông, thế giới bên trong tâm hồn con người chính là cái hiện
thực phong phú và bí ẩn nhất. Trong thời chiến, ông say mê đi tìm “hạt ngọc
ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Trong thời bình, ông đã tiếp cận
con người trong tính hiện thực toàn vẹn và nhận thấy: “Hình như họ luôn

luôn có một cuộc đấu tranh bản thân giữa thiện và ác, lý trí và dục vọng, cái
riêng và cái chung ở bên trong từng con người” [9, tr.88]. Càng ngày ông
càng có sự ưu ái, dùng cả bút lực và tâm lực trong khám phá đời sống nội tâm
con người. Ông tâm niệm: “Nói gì thì nói, rồi thì niềm hạnh phúc lớn nhất và
cũng đồng thời là cái điều khổ ải nhất trần đời của một anh cầm bút xưa nay
vẫn là công việc khám phá ra tất cả những cái gì khó nắm bắt nhất, xảy ra
nơi cái thế giới bên trong con người” [9, tr.97].
- Về trách nhiệm và sứ mệnh của người cầm bút:
Là người luôn ý thức rất rõ vai trò của nhà văn - chiến sĩ trên mặt trận
Đảng, Nguyễn Minh Châu luôn đề cao trách nhiệm của người cầm bút đối với
đất nước và con người: “Một nhà văn chân chính đầy tài năng được đông đảo
người đọc công nhận không phải chỉ vì anh ta có ngòi bút tả cảnh như vẽ, tả
người sinh động và sắc sảo là đủ, mà chủ yếu vì nhà văn đó có tài nắm bắt
được cái thần sắc của những con người và vấn đề trong thời đại mình, trái
tim nhà văn có thể rung động niềm hạnh phúc và đau khổ của số đông người,
nhà văn có thể thấu hiểu và tha thiết với lý tưởng nhân dân đang đổ máu và
mồ hôi để đạt tới như anh hiểu và tha thiết với những điều mình hằng mong


×