Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Thực trạng quá trình tự do hóa dòng vốn tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.9 KB, 12 trang )

t ựdo giao d ịch v ốn; kinh nghi ệm qu ốc t ếvà m ột s ốđề xu ất v ới vi ệt nam

Thực trạng quá trình tự do hóa dòng vốn tại Việt Nam
1. Quá trình tự do hóa lãi suất

Trải qua các thời kì khác nhau Việt Nam đã thi hành các chính sách lãi suất khác
nhau, cụ thể:





Cơ chế thi hành chính sách lãi suất cố định (1989-5/1992)
Cơ chế điều hành khung lãi suất (6/1992-1995)
Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7/2000)
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản theo biên độ (8/2000-5/2002)

Thực tế hiện nay thì ở Việt Nam, Ngân hang nhà nước vẫn áp dụng cơ chế điều
hành lãi suất cơ bản. theo đó thì các NHTM sẽ ấn định lãi suất cho vay tối đa bằng
150% lãi suất cơ bản do NHTW công bố. đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát hoạt
động của các ngân hàng thương mại, đồng thời NHTW tiếp tục điều chỉnh một cách
linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết
khấu để điều tiết thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được tính trên cơ sở xu hướng biến
động của cung-cầu vốn thi trường, mục tiêu chính cảu chính sách tiền tệ và các nhân tố
tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối trong và ngoài nước.
Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch
khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường:


“Trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 7% –
5%/năm),lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến động trong



phạm vi hành lang này.
• Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc
“bơm” tiền ra hoặc “hút” tiền về, từ đó tác động đến cung – cầu vốn, lãi suất thị
trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM.
Từ tháng 5 – 9/2008, NHNN điều hành chính sách tiền tệ “thắt chặt”, các mức lãi
suất chủ đạo được điều chỉnh tăng, lãi suất cơ bản từ 12%/năm lên 14%/năm, lãi suất
tái cấp vốn từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm lên
13%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 11,7%/năm lên 15%/năm. Từ tháng
10/2008 đến nay, NHNN chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ “thắt chặt” để
chống lạm phát sang “nới lỏng” nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh
1


tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam

tế, điều chỉnh giảm mạnh lãi suất cơ bản từ 14% – 13% – 11% – 8,5% – 7%/năm, lãi
suất tái cấp vốn từ 15% – 13% – 12% – 9,5% – 8% – 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ
13% – 11% – 12% – 10% – 7,5% – 6%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 15%
– 14,3% – 13,5% – 11% – 9% – 8% – 7,5% – 7%/năm.1
2. Quá trình tự do hoá ngoại tệ

Sau 3 tuần NHNN chính thức có quyết định nới rộng biên độ tỷ giá, việc điều
chỉnh nới rộng này đã đáp ứng được yêu cầu của các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng
như các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các ngân hàng, không còn bị
gò bó trong khuôn khổ chật hẹp như trước. Đây được coi là một bước tiến quan trọng
tiến tới tự do hoá thị trường ngoại hối.
Đồng thời tiến tới tự do hoá thị trường giao dịch ngoại hối phù hợp với thông lệ quốc
tế, nhất là Việt Nam đang tiến tới thực hiện đầy đủ các nội dung của Hiệp định Thương
mại Việt - Mỹ, cam kết gia nhập WTO...

3 thị trường - 3 tỷ giá
Đến nay sau gần 1 tháng thực hiện cơ chế nới lỏng biên độ giao dịch này, tỷ giá
trên cả 3 thị trường tương đối ổn định, làm giải toả tâm lý kìm nén sự gia tăng giả tạo
về tỷ giá. Đến cuối tháng 7, tỷ giá mua bán của các ngân hàng thương mại với khách
hàng và tỷ giá trên thị trường tự do xoay quanh mức 15.300 VNĐ/USD, tăng khoảng
1,13% so với đầu năm; đặc biệt là không có sự chênh lệch đáng kể về tỷ giá giữa hai
thị trường này.
Ở hầu hết các nước trên thế giới thị trường giao dịch ngoại hối đã được tự do
hoá, các ngân hàng thương mại (NHTM), các nhà kinh doanh hối đoái chủ động giao
dịch trao đổi, mua bán các loại ngoại tệ với nhau tuỳ theo diễn biến của thị trường,
ngân hàng trung ương của các quốc gia đó chỉ can thiệp khi thực sự cần thiết, thực
hiện việc mua vào hay bán ra một loại ngoại tệ nào đó, nhằm chống sự lên giá hay
xuống giá quá mức của đồng nội tệ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ và chiến lược
phát triển nền kinh tế.

1 />
2


tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam

Ở Việt Nam hiện nay đang hình thành 3 thị trường giao dịch ngoại hối: thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường mua bán ngoại tệ giữa các TCTD với khách
hàng và thị trường tự do.2
Từ năm 2007 đến nay thì Việt Nam đang hoàn thiệ quá trình gia nhập WTO nên
tốc độ gia tang đầu tư nước ngoài ở Việt Nam cũng tang nên một cách mạnh mẽ trở lại.
Nhìn chung số lượng vốn đầu tư FDI vào việt nam trong nhưng năm này đều tang nên
cả về số lượng vốn đăng kí và số lượng vốn giải ngân. Bằng chứng là theo tập đoàn tài
chính đầu tư Goldman Sachs (Hoa Kỳ) Việt Nam được đánh giá rất cao về tốc độ tăng
nhanh, mở ra cơ hội cho việc đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thông qua đó thì

nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài tràn vào Việt Nam cũng tăng nên, cho thấy cái chính
sách tự do vốn ngoại tệ.
Như vậy ta có thể nó qua trình tự do hóa dòng vốn ở Việt Nam vẫn chưa hoàn
chỉnh.
3. Những ảnh hưởng và hạn chế còn tồn đọng tại Việt Nam
• Ảnh hưởng của quá trình tự do hoá dòng vốn với nguy cơ rủi ro về tỷ giá

Việc dòng vốn nước ngoài chảy ồ ạt vào Việt Nam sẽ gây ra một lượng ngoại tệ
lớn lưu thông trong nước sẽ tác động đến tỉ giá hối đoái. Ngay cả khi chúng ta kiểm
soát tỉ giá hối đoái thì cố định, thì trên thị trường dưới tác động của cung cầu ngoại tệ
thì cũng tác động không nhỏ đến sự thay đổi của tỉ giá ngoại tệ. Do một thực tế đó là
Việt nam thì chưa kiểm soát hết được số lượng ngoại tệ trôi nổ trên thị trường. Rủi ro
về tỉ giá hối đoái sẽ tác động đến không chỉ các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp mà
còn ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu và hệ thống các ngân hang thương mại.


Ảnh hưởng của quá trình tự do hoá dòng vốn với nguy cơ lạm phát
Việc gia tăng ngoại tệ thông qua thu hút đầu tư nước ngoài cùng với việc một

lượng lớn ngoại tệ được các việt kiều chuyển tiền về nước làm gia tăn gtir lệ lạm phát.
Việc cung ngoại tệ tăng làm tăng. Trong khi lượng cầu về ngoại tệ lại thấp. và để đảm
bảo chính sách ổn định tỉ giá hối đoái ngân hàng nhà nước lại phải đi thu mua ngoại tệ
dẫn đến việc đưa đồng nội tệ vào tiêu thụ làm tăng lượng tiền cơ sỏ dẫn đến lượng tiền

2 />
3


tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam


lưu thông tăng nên, làm tăng tỉ lệ lạm phát. Lạm phát tăng làm tăng chi phía nhập khẩu
làm ảnh hưởng đến phát triển của đất nước.


Bên cạch đó thì trong vấn đề quản lý điều hành chính sách tỷ giá còn một số
hạn chế:
Việc quản lý tỷ giá vẫn mang tính hành chính, mặc dù tỷ giá do ngân hang nhà

nước công bố hoàn toàn dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường và biên độ giao
động giữa các ngân hàng thì đã được điểu chỉnh lên 0.25% nhưng tỷ giá này vẫn chưa
thực sự hợp lý giữa các ngân hang thuiwng mại. thị trường ngoại hối thì luôn luôn giao
động, thay đổi thường xuyên, giới hạn tuy rộng nhưng vẫn tương đối chặt chẽ với các
hoạt động kinh doanh. Bới đôi khi sự biến động vượt ra ngoài độ rộng này như vậy thì
các chính sách thay đổi của ngân hàng trung ương không bắt kịp với thị trường.
Chính sách này thì cũng chưa thể hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô, chưa gắn
chặt với mục tiêu vĩ mô, chưa thể hiện là công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ.
Mặt khác các ngân hàng thương mại trong nước vẫn đang chịu một khoản nợ
xấu khá lớn. một lượng tiền lớn có nguồn gốc không minh bạch được đẩy vào thị
trường chứng khoán và bất động sản làm tạo ra các bong bóng tài sản.
Một điều quan trọng nhất mà ở Việt Nam hay bất kì nước nào đều mắc phải đó
là vấn đề “bộ ba bất khả thi” đó là ổn định giá, tự do hóa dòng vốn và chính sách tiền
tệ động lập.
Câu hỏi đặt ra ở đây đó là ở Việt Nam thì ngân hàng trung ương nên theo đuổi
chính sách nào và nếu ngân hàng trung ương muốn theo đuổi chính sách tự do hóa
dòng vốn thì nên làm thế nào để có thể có được hiệu quả cao nhất?
Một số đề xuất trong vấn đề tự do hóa dòng vốn
Bất kì một đất nước nào dù là phát triển hay là đang phát triển thì không thể
tránh khỏi việc đứng trước việc phải lựa chon 2 trong 3 chính sách. Ở Việt Nam ngân
hàng trunng ương thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái ấn định và tự do hóa dòng vốn.
Tuy nhiên thì việc thực hiên chính sách tỷ giá hối đoái cũng có sự lới lỏng trong phạm

vi cho phép. Qua đây ta có thể thấy rằng Ngân hà ng trung ương thì vấn muốn giữ cả
chính sách tiền tệ và không muốn để mất tỷ giá hối đoái. Đây cũng chính là nguyên
nhân làm cho chính sách tự do vốn ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Và chính sách tiền
tệ ở Việt Nam thường không phát huy tác dụng. Vì vậy chính phủ phải có những chính
sách lựa chọn phù hợp với nền kinh tế của đất nước và phù hợp với chính sách khi ra
4


tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam

nhập WTO. Tự bài học rú ra từ các nước lớn xung quanh như Trung Quốc, Thái Lan,..
hay là các nước lớn khác bên kia Thái Bình Dương như Mehico,.. và nhìn lại thực
trang còn thiếu sót ở Việt Nam thì ta có thể dưa ra những biện pháp sau:
Thứ nhất, trong vấn đề thâm hụt tài khoản vãn lai, thì hiện nay ở việt nam trong
2 năm gần đây đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, xong để đảm bảo cho có tính ổn định
lâu dài thì chính phủ cần phải có những chính sách thích hợp trong việc khuyến khích
cũng như hỗ trợ cho các doanh nghiệp có mặt hàng xuất khẩu sang nước ngoài. Bên
cạch đó cũng cần tích cực đẩy mạnh các ngành công nghiệp thế mạnh trong nước tạo
khung chính sách mở cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước có cơ hội xuất khẩu
mặt hàng của mình ra nước ngoài. Nói cách khác chính là đẩy mạnh quá trình xuất
khẩu ra nước ngoài.
Thứ hai, bong bóng tài sản cũng là một mối lo ngại lớn đói vói thị trường. để
giảm thiểu cung như khống chế thì chính phủ cần có những biện pháp chặt chẽ trong
việc khiểm soát giá bất động sản cung như giá chứng khoán . bên cạch đó cũng nên có
những chính sách xây dựng cơ sỏ hạ tầng sao cho phù hợ với có chế thị trường mở.
Thứ ba, trong vấn đề vay ngoại tệ thì chính phủ cần phải có những tính toán cẩn
thận trong việc trả nợ cũng như có biện pháp kiểm soát số lượng ngoại tệ trôi nỏi trên
thị trường.
Thứ tư, quản lý đầu tư công ở Việt Nam còn rất nhiều những bất cập, những
khoản đầu tư công ở việt nam thường không đem lại hiệu quả cáo. Vị đậy chính phủ

nên tăng cường giám sát và cũng nên có những đầu tư mang tính trọng điẻm không
nên đầu tư một cách dàn trải mang lại hiệu quả không cao, tốn kém tiền bạc của đát
nước.
Thứ năm, nợ xấu là vấn đề nan giải không phải chỉ trong một sớm một chiều
cao thể giả quyết ngay được. chỉnh phủ cần phải có nhưng biện pháp hỗ trợ các ngân
hàng thương mại, trách hiện tượng xụp đổ của ngân hàng khéo theo theo sự tan vỡ của
cả một hệ thống tài chính.
Một số điều cần xem xét trong quá trình tự do hóa dòng vốn ở Việt Nam.3
Sau 20 đổi mới và 15 năm hội nhập, môi trường kinh tế của Việt Nam đã có
nhiều thay đổi lớn. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy nhanh, đặc biệt
3 />
5


tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam

là khi Việt Nam gia nhập WTO trong năm 2006. Để thực hiện thành công quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải tiến hành các bước cải cách kinh tế mạnh mẽ hơn
nữa, trong đó có cơ chế quản lý ngoại hối đối với các giao dịch tài chính quốc tế, bao
gồm các giao dịch thanh toán vãng lai và các giao dịch vốn.
Tiến trình tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế có tầm quan trọng và có ý
nghĩa quyết định đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội, an ninh tài
chính -tiền tệ, ổn định chính trị - xã hội và chủ quyền tiền tệ quốc gia.
Do vậy, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần có các giải pháp và bước đi
phù hợp để khi tiến hành tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế phù hợp nhằm tránh
những bất lợi khi mở cửa rộng hơn và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế
giới.
Lợi và bất lợi của tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế
Tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế sẽ đem lại những lợi ích sau đây: Thứ
nhất, cùng với xu thế mở cửa, giao lưu quốc tế ngày càng tăng, nhu cầu chi trả, thanh

toán cho các giao dịch vãng lai ngày càng lớn, nhưng đây chủ yếu là những khoản
thanh toán, chi trả cho các nhu cầu thường xuyên cần thiết với kim ngạch không lớn.
Việc tự do hoá các giao dịch này trước hết sẽ giảm bớt chi phí xã hội, giảm bớt phiền
hà cho người dân khi có nhu cầu mua ngoại tệ chuyển ra nước ngoài vì những mục
đích hợp pháp, các nhà đầu tư chuyển lợi nhuận về nước khi kinh doanh có lãi; xoá bỏ
cơ chế xin-cho (Giấy phép và giấy phép con); làm giảm tâm lý cất giữ ngoại tệ, mang
ngoại tệ lậu ra nước ngoài… Thứ hai, tự do di chuyển luồng vốn quốc tế sẽ cho phép
các nước có nguồn tiết kiệm hạn chế sẽ thu hút được nguồn tài chính của các nước
khác cho các dự án đầu tư có hiệu quả trong nước, cho phép các nhà đầu tư đa dạng
hoá các hình thức đầu tư của mình; đồng thời, phân tán rủi ro thông qua việc đầu tư
rộng rãi hơn. Tự do hoá việc chu chuyển vốn cũng có vai trò làm thúc đẩy hoạt động
thương mại giữa các nước. Cụ thể là tự do hoá giao dịch vốn sẽ cho phép dân cư,
doanh nghiệp (DN) và thậm chí là các quốc gia có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng
bằng cách vay từ nước ngoài khi thu nhập của mình thấp và khi thu nhập tăng lên thì
trả nợ nước ngoài. Ngược lại, bằng cách cho nước ngoài vay, dân cư và DN có thể
giảm bớt tính dễ tổn thương của mình trước những bất ổn kinh tế trong nước. Các DN
có thể tự bảo vệ mình khi giá thành trong nước tăng đột biến thông qua việc đầu tư vào
6


tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam

các chi nhánh của công ty ở nước ngoài. Tự do hoá giao dịch vốn có thể cho phép các
nhà đầu tư thu được tỷ lệ lợi nhuận cao hơn sau khi đã loại trừ các khoản rủi ro. Tỷ lệ
lợi nhuận cao hơn có thể sẽ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Như vậy, sẽ tạo ra tăng
trưởng kinh tế nhanh hơn.
Bên cạnh những lợi ích trên, tự do hoá các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn
cũng có những bất lợi sau:
Một là, việc tự do hoá các giao dịch vãng lai có thể tạo điều kiện cho các hoạt
động lợi dụng chính sách quản lý thông thoáng của Chính phủ và Ngân hàng Trung

ương (NHTƯ) để tìm cách tạo các giấy tờ giả, mục đích giả nhằm chuyển tiền ra nước
ngoài với kim ngạch nhỏ nhưng nhiều lần phục vụ cho hoạt động buôn lậu, rửa
tiền…Việc tự do hoá giao dịch vãng lai cũng có thể sẽ là một khe hở để các nhà đầu
tư, kinh doanh nước ngoài chuyển tiền lãi về nước dưới những chiêu bài khác nhau để
trốn thuế.
Hai là, các thị trường tài chính được tự do hoá cũng dễ bị bóp méo bởi các
thông tin không đầy đủ và các vấn đề khác dẫn đến các giao dịch sẽ đưa lại kết quả
làm thiệt hại đến lợi ích của công chúng. Các thông tin của thị trường tài chính thường
là không ăn khớp với nhau. Người đi vay thường không thông tin đầy đủ về mình cho
người cho vay, nhất là khi người vay gặp khó khăn về tài chính thì cố ý che giấu thông
tin để vay được khoản tín dụng có thể có mức độ rủi ro cao hơn dự đoán của cán bộ tín
dụng. Điều đó dễ dàng đưa đến những rủi ro hoặc những xáo động của thị trường tài
chính về sau này. Sự không ăn khớp đó, ít nhất sẽ giảm hiệu quả của thị trường tài
chính và xa hơn nữa, nó có thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng tài chính tốn kém.
Vấn đề đáng quan ngại nữa là rủi ro đạo đức. Các nhà đầu tư luôn nghĩ rằng Chính phủ
sẽ tung tiền ra để cứu các định chế tài chính gặp khó khăn khi các định chế này không
có đủ các biện pháp phòng ngừa hoặc có đủ các chế tài bắt buộc người đi vay không
được quá mạo hiểm thực hiện các dự án có rủi ro cao. Điều đáng quan ngại hơn là
phản ứng gay gắt của các nhà đầu tư khi có khủng hoảng. Nó sẽ dẫn đến những biến
động không thể lường trước được của thị trường và thậm chí có thể dẫn đến khủng
hoảng tài chính. Một điều đáng lưu ý nữa là tự do hoá chu chuyển vốn càng làm cho
các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn
dồi dào từ bên ngoài và các khoản đầu tư đầy rủi ro. Một cuộc khủng hoảng tiền tệ
7


tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam

hoặc một cuộc phá giá đồng tiền không lường trước được có thể làm mất khả năng
thanh toán của các ngân hàng và làm phá sản các khách hàng của các ngân hàng này vì

dưới một cơ chế quản lý lỏng lẻo, họ đã huy động hoặc vay một khối lượng lớn bằng
ngoại tệ và không có biện pháp che chắn, phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Hơn nữa, tự do hoá
chu chuyển vốn sẽ làm tăng khả năng bất ngờ chuyển vốn hàng loạt ra nước ngoài khi
có biến động và buộc Chính phủ phải nâng lãi suất lên để bảo vệ cho chính sách tỷ giá
cố định mặc dầu Chính phủ không muốn làm điều đó. Như vậy, việc tự do hoá chu
chuyển vốn có thể làm tăng sự mất lòng tin vào hệ thống Ngân hàng.
Kinh nghiệm của các nước
Các nước công nghiệp phát triển tiên tiến như Mỹ, Italia, Canada, CHLB Đức,
Anh¦ đều áp dụng cơ chế mở. Nhà nước không kiểm soát hoạt động liên quan các giao
dịch tài chính quốc tế.
Về nguyên tắc, mọi giao dịch chu chuyển vốn vào và ra khỏi đất nước dưới các
hình thức đều được tự do hoá. Tỷ giá hối đoái cũng được thả nổi. Đồng bản tệ của các
nước này đều là các đồng tiền tự do chuyển đổi. Trên lãnh thổ của các nước này, người
dân cũng như khách vãng lai chỉ sử dụng đồng bản tệ. Khi cần, họ có thể đổi tiền tại
NHTM hoặc các đại lý được uỷ quyền của các NHTM. Tuy nhiên, tại một số nước, khi
mang ngoại tệ theo người ra khỏi đất nước, người mang tiền phải khai báo hải quan và
đối với các NHTM thực hiện những dịch vụ chuyển tiền với giá trị lớn (hạn mức thay
đổi tuỳ từng nước) cho khách hàng thì phải báo cáo NHTƯ và Cơ quan chống rửa tiền
quốc gia để đề phòng việc rửa tiền phi pháp.
Với việc áp dụng cơ chế này, các nước công nghiệp phát triển tiên tiến đã thu
hút được một khối lượng vốn lớn phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế và hiện đại
hoá đất nước và tạo điều kiện cho các DN và doanh nhân có thể tìm kiếm cơ hội đầu tư
mang lại lợi nhuận cao hơn do việc phân bổ nguồn vốn được thực hiện một cách hiệu
quả hơn. Trong những năm cuối của thập kỷ 80 và những năm đầu của thập kỷ 90 của
thế kỷ XX, một số nước công nghiệp mới (NIC) như Hàn Quốc, Singapore, đảo Đài
Loan và cả các nước đang phát triển thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế như
Thái Lan, Malaysia và Indonesia đã áp dụng cơ chế mở. Kết quả là các nước này đã
thu được những lợi ích do cơ chế quản lý mở mang lại, nhưng đồng thời cũng đã phải
đối mặt với những mặt trái của nó. Các luồng vốn, chủ yếu là vốn ngắn hạn, chảy vào
8



tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam

mạnh mẽ và biến động lớn đã gây khó khăn cho NHTƯ trong việc kiểm soát tiền cung
ứng; tranh thủ lãi suất trên thị trường quốc tế thấp và điều kiện vay vốn dễ dàng trong
thời kỳ đó, các DN và NHTM vay vốn nước ngoài với khối lượng lớn làm cho gánh
nặng nợ quốc gia tăng vượt khả năng chịu đựng của nền kinh tế trong khi nguồn vốn
vay từ nước ngoài chủ yếu được đầu tư vào các dự án kém hiệu quả, trong đó có kinh
doanh bất động sản, tạo nên một nền kinh tế bong bóng và hậu quả của nó là cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á năm 1997. Kinh nghiệm của các nước này cho
thấy, chỉ khi nào tạo lập được một cách đầy đủ và đồng bộ các điều kiện cần thiết về
cơ sở kinh tế, tài chính, pháp lý thì mới có thể thực hiện việc tự do hoá hoàn toàn các
giao dịch tài chính quốc tế.
Trong khi đó, nhiều nước đang phát triển, trong đó có một số nước thuộc hệ
thống XHCN trước đây, các nước có nền kinh tế có quy mô nhỏ, vừa và lớn ở Châu
Âu, Châu Á, Mỹ La-tinh và Châu Phi đã thực hiện việc chuyển đổi cơ chế quản lý
kinh tế trong đó có cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng từng bước tự do hoá hoặc bãi
bỏ các kiểm soát đối với các giao dịch tài chính quốc tế. Tuỳ theo điều kiện và trình độ
phát triển kinh tế của từng nước, mức độ và bước đi có khác nhau nhưng theo định
hướng chung là mở cửa, hội nhập và tự do hoá từng bước vững chắc trên nguyên tắc
ổn định và đảm bảo an ninh tài chính và chủ quyền tiền tệ quốc gia. Trong quá trình
thực hiện tự do hoá, Chính phủ các nước này vẫn dành cho mình quyền áp đặt các
kiểm soát ngoại hối đối với các giao dịch này khi cần thiết.
Cơ chế này được áp dụng khá rộng rãi tại các nước Châu Á và tại các nước Mỹ
La-tinh. Các nước đã thực hiện mở cửa thị trường từng bước, trước hết là tự do hoá
các giao dịch vãng lai, nới lỏng biên độ tỷ giá và cuối cùng là tự do hoá tỷ giá và lãi
suất ngoại tệ và tự do hoá các giao dịch vốn song song với cải cách mạnh mẽ khu vực
Ngân hàng - Tài chính; đồng thời, Nhà nước giành cho mình quyền áp đặt các kiểm
soát khi cần thiết. Tuy vậy, do tiến độ tự do hoá thực hiện quá nhanh, nhất là tự do hoá

các giao dịch vốn, trong khi các cải cách trong khu vực Ngân hàng - Tài chính và pháp
luật thực hiện chậm hơn và không đồng bộ nên tại các nước Thái Lan, Hàn Quốc,
Indonesia, Mexico, Argentina, Brazil đều xảy ra các cuộc khủng hoảng tiền tệ hoặc
khủng hoảng tài chính - kinh tế, thậm chí là khủng hoảng tài chính, kinh tế và chính trị
- xã hội. Khi các cuộc khủng hoảng này xảy ra, các nước phải quay trở lại áp đặt các
hạn chế, kiểm soát về ngoại hối đối với các giao dịch tài chính quốc tế, mà trước hết là
9


tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam

các giao dịch vốn và tỷ giá. Thông thường là các kiểm soát, hạn chế về tỷ giá và giao
dịch vốn. Trong điều kiện khủng hoảng, các nước này đã phải áp dụng những biện
pháp tự vệ. Đây là những hành động cần thiết nhưng nếu các nước này có được một
chiến lược, bước đi phù hợp khi thực hiện quá trình tự do hoá các giao dịch tài chính
quốc tế thì họ có thể tránh được những tổn thất to lớn như vừa qua.
Kinh nghiệm thực tế ở các nước cho thấy rằng tự do hoá các giao dịch vốn
trước khi củng cố và tăng cường hệ thống tài chính của một quốc gia sẽ góp phần làm
trầm trọng hơn các vấn đề vốn có của đất nước. Tự do hoá các giao dịch tài chính quốc
tế có thể cho phép các NHTM trong nước bành trướng các hoạt động đầy rủi ro với
mức độ quá khả năng quản lý của họ. Việc tự do hoá được thực hiện quá nhanh dưới
sức ép của bên ngoài sẽ dễ dẫn đến những nguy cơ khủng hoảng tiền tệ, tài chính và
thậm chí là khủng hoảng kinh tế -xã hội.
Kinh nghiệm thực tế của một số nước có trình độ phát triển kinh tế, điều kiện
kinh tế - xã hội và phong tục tập quán tương đồng với Việt Nam đã thực hiện khá
thành công tiến trình tự do các giao dịch tài chính quốc tế có thể là những kinh nghiệm
quý báu cho Việt Nam khi mở cửa hội nhập sâu hơn và rộng hơn.
Một số nguyên tắc cần xem xét khi thực hiện tự do hoá các giao dịch tài chính
quốc tế
Tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế là vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa

then chốt trong quá trình tự do hoá hoạt động ngoại hối. Thực tiễn về việc tự do hoá
các giao dịch tài chính quốc tế ở các nước trải qua cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ
Châu Á vừa qua là một bài học đắt giá. Trình tự tự do hoá các giao dịch tài chính quốc
tế mà quan trọng nhất là giao dịch vốn là một vấn đề quan trọng nhưng rất phức tạp.
Nói chung, trình tự này phụ thuộc rất lớn vào điều kiện cụ thể của từng nước: Trình độ
phát triển kinh tế và hệ thống tài chính, cơ cấu thể chế, hệ thống luật pháp, thông lệ và
tập quán kinh doanh, khả năng quản lý những thay đổi trong một loạt lĩnh vực liên
quan đến tự do hoá tài chính. Thực tế không hề có một đơn thuốc nào về trình tự từng
bước phải tiến hành và cũng không có một nguyên tắc cụ thể nào cho quá trình tự do
hoá phức tạp và lâu dài các giao dịch tài chính quốc tế. Tuy vậy, để thực hiện việc tự
do hoá các giao dịch tài chính quốc tế, cần xem xét, cân nhắc một số nguyên tắc sau:

10


tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam

- Tự do hoá FDI là bước khởi đầu của tự do hoá giao dịch vốn: Mặc dầu FDI đôi
khi làm nảy sinh một số quan ngại về quyền sở hữu và sự kiểm soát của nước ngoài
nhưng nó mang lại những lợi ích đáng kể, trong đó có việc chuyển giao công nghệ và
tập quán kinh doanh hiệu quả hơn. Nguồn vốn FDI ít bị tác động khi có những biến
động về tài chính dẫn đến việc ồ ạt chuyển vốn ra nước ngoài hơn là nguồn vốn vay
ngân hàng. Nếu có việc chuyển vốn ra nước ngoài thì bản thân nó không gây ra những
vấn đề khủng hoảng tài chính nghiêm trọng như đầu tư tài chính hoặc vay nợ. Bởi vậy,
việc tự do hoá FDI là một bộ phận trong chương trình tự do hoá hoạt động giao dịch
vốn có thể được thực hiện đầu tiên;
- Lành mạnh hoá hệ thống tài chính - ngân hàng trước khi tự do hoá các giao dịch
quốc tế: Sẽ là một sai lầm nếu như tiến hành tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế
khi một bộ phận quan trọng của hệ thống tài chính - ngân hàng mất khả năng thanh
toán hoặc có thể bị đẩy vào tình cảnh mất khả năng thanh toán nếu Chính phủ tiến

hành tự do hoá hoạt động tài chính. Do vậy, trước khi thực hiện tự do hoá các giao
dịch tài chính quốc tế, đặc biệt là tự do hoá các giao dịch vốn, thì phải đóng cửa các
định chế tài chính yếu kém, đồng thời phải tiến hành việc củng cố và làm lành mạnh
các định chế tài chính còn lại.
- Tự do hoá các giao dịch vốn phải gắn liền với việc tăng cường kỷ luật tài chính:
Vì hệ thống Ngân hàng có vai trò trung tâm trong các vấn đề về tài chính của các nước
có thị trường mới nổi. Sự bảo lãnh ngầm của Chính phủ khuyến khích nguồn vốn từ
nước ngoài vào không bền vững và quá lớn so với sức hấp thụ của nền kinh tế. Thực tế
cho thấy một khối lượng vốn lớn từ bên ngoài đã chảy vào các nước có sự bảo lãnh
ngầm của Chính phủ. Hệ thống kế toán, kiểm toán và tính minh bạch yếu kém ở các
nước này đã làm suy yếu kỷ luật thị trường. Hơn nữa, khả năng thanh tra, phòng ngừa
và quản lý yếu kém đối với các định chế tài chính và thị trường đã nuôi dưỡng sự tham
nhũng, tín dụng móc ngoặc và đầu cơ. Đối với những nước mà ở đó những tệ nạn này
ở mức nghiêm trọng thì cần phải tiến hành tự do hoá các giao dịch vốn hết sức thận
trọng và từng bước gắn với việc xoá bỏ các tệ nạn nói trên.
- Tạo lập hạ tầng cơ sở cho các thị trường trong nước trước khi tự do hoá các giao
dịch tài chính quốc tế: Thị trường trong nước và hạ tầng cơ sở tài chính cho việc đầu
tư gián tiếp vào các cổ phiếu và công cụ nợ tại các nước có thị trường mới nổi chưa
11


tự do giao dịch vốn; kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất với việt nam

được phát triển. Do vậy, việc tạo dựng cơ sở hạ tầng tài chính cho các thị trường trong
nước là vấn đề rất cần thiết trước khi mở cửa những thị trường này cho bên ngoài. Nền
kinh tế cũng sẽ hưởng lợi từ việc phát triển các thị trường tài chính trong nước khi các
luồng vốn chu chuyển thông qua các thị trường này và không quá phụ thuộc vào hệ
thống ngân hàng.
- Tự do hóa các giao dịch vốn dài hạn trước khi tự do hóa các giao dịch vốn ngắn
hạn: Do những vấn đề đặc thù của vay nợ nước ngoài ngắn hạn, có thể tiến hành tự do

hoá các giao dịch vốn dài hạn, đặc biệt là các giao dịch liên quan đầu tư trực tiếp,
trước khi tự do hoá các giao dịch vốn ngắn hạn.
Một vài kết luận
Hoạt động của các giao dịch tài chính quốc tế là rất đa dạng, phức tạp và có
phạm vi rộng không chỉ tác động và bị tác động bởi các hoạt động chính trị, kinh tế xã hội giới hạn trong biên giới của một quốc gia mà nó còn có tác động và bị tác động
bởi các hoạt động chính trị, kinh tế - xã hội nằm ngoài biên giới quốc gia.
Tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế là một quá trình dỡ bỏ dần các hạn
chế áp dụng đối với các giao dịch nói trên. Quá trình này phải được thực hiện theo một
lộ trình linh hoạt, tuỳ theo điều kiện, khả năng và trình độ phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia cũng như các cam kết đa phương và song phương trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.

12



×