Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thực trạng quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại Nhà nước tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.53 KB, 34 trang )

Đề án môn học
MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính là thị trường dẫn vốn từ những người có vốn dư thừa
tới người thiếu vốn qua các kênh trực tiếp (việc trao đổi vốn không qua trung
gian) hoặc gián tiếp (việc trao đổi vốn qua các tổ chức tài chính trung gian). Sự
phát triển không ngừng cả về chiều sâu lẫn chiều rộng cuả nền kinh tế càng làm
cho kênh chuyển vốn qua các tổ chức tài chính trung gian ngày càng đóng vai trò
quan trọng đặc biệt là hệ thống ngân hàng. Ở nước ta hệ thống NHTMNN đã và
đang chi phối các hoạt động tài chính tiền tệ và có vị trí ảnh hưởng rất lớn tới thị
trường tài chính cũng như sức khoẻ của nền kinh tế Việt Nam. Hơn hết trước yêu
cầu cấp thiết hội nhập và toàn cầu hoá đòi hỏi các NH VN phải có nhứng cải
cách và thay đổi phù hợp. Quá trình cổ phần hoá (CPH) NHTMNN là một trong
những bước đi quan trọng góp phần phát huy vai trò nền tảng thúc đẩy nền kinh
tế. Các NHTMNN VN đang trong quá trình thực hiện các đề án CPH do đó nhất
thiết phải đưa ra giải pháp để thúc đẩy quá trình CPH NHTMNN đúng hướng,
đúng tiến độ và đạt hiệu quả.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bài viết dưới đây em chỉ
đề cập đến giải pháp tài chính để CPH NHTMNN ở VN hiện nay.
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
1
Đề án môn học
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN
I. CÁC KHÁI NIỆM
Để hiểu rõ về CPH NHTMNN trước hết ta phải hiểu thế nào là CPH.
Về bản chất CPH là quá trình đa dạng hoá hình thức sở hữu, đưa các yếu
tố cạnh tranh làm động lực để phát triển hướng kinh doanh.
CPH về cơ bản là quá trình mà ở đó không xoá bỏ hoặc tạo ra tài sản
nhưng được phân bổ lại theo cách thức mới và tạo tiềm năng phát triển mạnh mẽ
hơn.
Xét về hình thức CPH DNNN thì CPH là việc nhà nước bán một hoặc toàn


bộ giá trị cổ phần của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc cá
nhân trong và ngoài nước hoặc cho cán bộ quản lý cán bộ công nhân viên chức
bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để thành lập công
ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Xét về thực chất CPH là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển
hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành
công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra mô hình doanh nghiệp phù hợp
với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện đại.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CPH DNNN, CPH NHTMNN:
1. CPH DNNN ở Việt Nam
CPH doanh nghiệp là con đẻ của nền kinh tế thị trường và đã được hầu hết
các nước trên thế giới áp dụng, đem lại nhiều thành công lớn trong quá trình xây
dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. CPH DNNN là lối ra phù hợp
với khu vực kinh tế nhà nước, nhất là trong điều kiện VN thiếu vốn, nợ nhiều,
quản lý còn yếu kém, công nghệ lạc hậu…
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
2
Đề án môn học
Chủ trương CPH DNNN được đặt ra khi đất nước ta bước vào thời kì đổi
mới theo Quyết định số 143/HĐBT ngày 15/10/1990 và thực hiện thí điểm từ
năm 1992 theo Quyết định số 202/HĐBT ngày 8/6/1992 của Hội đồng Bộ
trưởng.
Qua cổ phần, DN được cơ cấu theo hướng tập trung quy mô lớn, hướng
vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; quy mô vốn của DNNN
được tăng lên đáng kể năm 2001, vốn bình quân của DNNN khoảng 24 tỷ đồng,
nay tăng lên đến 63,6 tỷ đồng. Tài chính DN được lành mạnh hoá thông qua việc
cơ cấu lại các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hoá ứ đọng, tồn kho, máy
móc thiết bị cũ…
Qua thực tế hoạt động hơn 1 năm của 850 DN hoàn thành cổ phần cho
thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện

tăng 139,76%, nộp ngân sách tăng 24,9%, thu nhập người lao động tăng 12%, số
lao động không những không giảm mà bình quân tăng 6,6%, đặc biệt cổ tức bình
quân đạt 17,11%, trong đó 71,4% số DN có cổ tức cao hơn lãi tiền gửi ngân
hàng.
Năm 2004, số DNNN còn lại là 4300, trong đó phải tiến hành đa dạng hoá
hoặc CPH khoảng 2400 doanh nghiệp. Tính đến nay qua 15 năm thực hiện CPH
DNNN, tổng giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại các DNNN đã CPH mới đạt
xấp xỉ 15% tổng vốn nhà nước có được đến cuối năm 2005. Số DN tiếp tục duy
trì 100% vốn nhà nước cho đến năm 2005 còn lại khoảng 1.200 DN. Toàn bộ các
DN không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn (khoảng 1.460 DN) sẽ được
sắp xếp theo hình thức CPH; trường hợp không cổ phần hoá thì chuyển sang lựa
chọn các hình thức như giao, bán, giải thể, phá sản DN.
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
3
Đề án môn học
Xuất phát từ thực trạng này, Chính phủ đã chỉ đạo cần đẩy mạnh hơn nữa
quá trình sắp xếp, CPH DNNN. Thể chế hoá các Nghị quyết Trung ương về đẩy
nhanh, đẩy mạnh CPH DNNN, một loạt biện pháp đã được đề ra nhằm thực hiện
bằng được mục tiêu hoàn thành sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2006 – 2010,
một giải pháp quyết liệt nhằm đẩy mạnh quá trình này là mở rộng (đối tượng)
CPH, đây cũng chính là cơ sở của quá trình tăng tốc CPH DNNN
2.CPH NHTMNN:
CPH NHTMNN về thực chất là quá trình chuyển đổi các NHTMNN có
một chủ sở hữu là Nhà nước, thành các NHTM có nhiều chủ sở hưu với nhiều cổ
đông khác nhau. tính đến nửa đầu năm 2004,tổng giá trị tài sảncủa các
NHTMNN chiếm tới hơn 73.80% tổng giá trị tài sản thể hiện trên cân đối kế
toán của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và luôn là
ngành kinh tế then chốt của bất kì một quốc gia nào. với xu thế hội nhập tất yếu
như hiện nay, các ngân hàng phải không ngừng nỗ lực để giành thế chủ động

trên thị trường nội địa, sẵn sàng tiến bước ra thị trường quốc tế. NHTMNN có thị
phần hoạt động chiếm trên 70% trên toàn quốc vì vậy các NHTMNN phải tiến
những bước vững chắc trước tiên để đưa cả hệ thống ngân hàng tiến bước trong
điều kiện mới. Việc cổ phần hoá NHTMNN lá cần thiết
Hiện tại các ngân hàng thương mại nhà nước bao gồm: NH nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), NH công thương Việt Nam (ICB),
NH ngoại thương Việt Nam( VCB), NH đầu tư và phát triển (BIDV), NH phát
triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long( MHB)
Những năm trước đây các NHTMNN đóng vai trò chủ đạo trên các
phương diện ngân hàng- tài chính: như thị phần huy động và cho vay, tài sản có.
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
4
Đề án môn học
Từ năm 2000, các tỉ lệ này giảm đi không ít, tuy nhiên đến nay dư nợ cho vay
của các NHTMNN vẫn chiếm trên 70% trên tổng dư nợ cho nền kinh tế. Về huy
động vốn của các NHTMNN cũng chiếm trên 70% tổng nguồn vốn huy động của
các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Các NHTMNN hiện nay
có rất nhiều chi nhánh từ tỉnh, thành phố, huyện, liên xã. Đó là lực lượng tài
chính chủ đạo trong cung cấp tín dụng và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
Nhìn chung NHTMNN ở Việt Nam đang đống vai trò chủ chốt trên thị trường
ngân hàng song tình hình tài chính của các NHTMNN còn hạn chế, mức độ rủi
ro cao, năng lực cạnh tranh thấp. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế như hiện nay: gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), khu vực mậu dịch
tự do ASEAN (AFTA) và hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kì đã và đang
tạo ra nhiều sức ép cho hệ thống NHTMNN. Đó là những thách thức: phải gia
nhập vào “ sân chơi” cạnh tranh khốc liệt và công bằng với các ngân hàng nước
ngoài có ưu thế về vốn, kinh nghiệm quản lí, công nghệ tiên tiến nhất
Đồng thời cũng mở ra những cơ hội phát triển cụ thể là:
- Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng tạo điều kiện cho các ngân hàng
nhanh chóng tiếp cận với các kiến thức và kinh nghiệm quản lí từ các nước tiên

tiến trên thế giới, tận dụng được nguồn vốn, công nghệ hiện đại của nước ngoài.
Áp dụng các chuẩn mực quốc tế làm cho hệ thống ngân hàng minh bạch, hoạt
động có hiệu quả và an toàn hơn.
- Cạnh tranh là động lực để các ngân hàng nâng cao chất lượng hoạt động,
mở rộng phạm vi, tăng cường khả năngthanh toán cùng với việc đa dạng hoá sản
phẩm dịch vụ ngân hàng
Do vậy, yêu cầu đối với các NHTMNN hiện nay là phải nâng cao năng lực
cạnh tranh, nâng cao nội lực. Cổ phần hoá được coi là giảI pháp giúp đẩy nhanh
mục tiêu trên, là một bước đi đầu đảm bảo vừa tăng vốn để đạt chuẩn mực quốc
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
5
Đề án môn học
tế vừa tạo dựng cơ chế quản lí kinh doanh ngân hàng hiện đại phù hợp với xu thế
của thời đại. Sự lớn mạnh của các NHTMNN sau cổ phần hoá góp phần quan
trọng vào việc xây dựng một hệ thống tài chính vững mạnh, nhà nước cũng sẽ
đảm bảo được quyền kiểm soát hay chi phối đến hoạt động của các ngân hàng
với một tỉ lệ cổ phần nhất định
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CPH NHTMNN VN HIỆN NAY:
1. Điều kiện hiện nay của các NHTMNN VN:
Việt Nam đã và đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới với việc tích cực thực thi các cam kết về Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và đàm phán gia nhập Tổ chức Thư-
ơng mại thế giới (WTO). Để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế
và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập thì một trong những yếu tố có ý
nghĩa quyết định là nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp
và của hàng hoá, dịch vụ.
Nhận thức được tính cấp thiết và tầm quan trọng trong việc nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ, Chính phủ đã
có nhiều chủ trương nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và chủ động hội nhập,
trong đó: sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp

Nhà nước, đẩy mạnh tiến độ cổ phần hóa (CPH) và mở rộng diện các doanh
nghiệp Việt Nam cần CPH, kể cả một số doanh nghiệp lớn, trong đó có các ngân
hàng thương mại nhà nước (NHTMNN).
Ngân hàng là ngành kinh tế huyết mạch của đất nước, ảnh hưởng đến toàn
bộ hoạt động của nền kinh tế, với tính chất hoạt động tương đối đặc thù. Vốn tự
có của ngân hàng, ngoài chức năng thông thường, còn được coi là tài sản cầm cố
bắt buộc để huy động vốn từ công chúng. Và muốn huy động được nhiều vốn từ
công chúng một cách an toàn cho nền kinh tế, thì càng cần phải có nhiều vốn
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
6
Đề án môn học
cầm cố. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, song song với tiến trình hội nhập
quốc tế, trớc môi trường hoạt động ngày càng cạnh tranh quyết liệt, các
NHTMNN Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn lớn trong quá trình
tái cơ cấu hoạt động: Đó là, so với tiêu chuẩn quốc tế, quy mô vốn tự có của các
NHTMNN Việt Nam còn thấp, hệ số an toàn vốn CAR (tính bằng tỷ lệ vốn tự có
/ tổng tích sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro) so với chuẩn mực quốc tế là 8% thì
còn cách xa, theo thống kê gần đây, tỷ lệ an toàn vốn của các NHTMNN hiện chỉ
đạt khoảng 4% (trong khi đó, tỷ lệ này ở hầu hết các ngân hàng thương mại cổ
phần đã đạt 8%). Hơn nữa, các ngân hàng của ta đang có nhu cầu cấp thiết là
phải duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng hợp lý để phục vụ tăng trưởng nền kinh
tế, và với tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân như hiện nay, đến cuối năm
2005, tỷ lệ an toàn vốn của các NHTMNN chỉ đạt khoảng 3%, đến cuối 2010, tỷ
lệ này chỉ còn xấp xỉ 1%... Để đảm bảo yêu cầu an toàn vốn theo chuẩn mực
quốc tế, hằng năm ngân sách nhà nước phải cấp bổ sung vốn tự có cho các
NHTMNN hàng chục nghìn tỷ đồng. Đây là điều rất khó thực hiện được và cũng
không mang lại hiệu quả kinh tế thực... Về phương diện quản trị điều hành, tuy
đã được tăng cường một bước, song vai trò của quản trị điều hành vẫn chưa tạo
ra động lực mạnh thật sự. Phương thức quản lý còn nhiều bất cập, phân phối thu
nhập cha gắn với hiệu quả lao động; chế độ khen thưởng, động viên lao động còn

bị hạn chế bởi các ràng buộc theo quy định của Nhà nước. Vì vậy, lợi ích và
trách nhiệm của các bên liên quan: Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động ch-
ưa được phân định rõ ràng, chưa tạo dựng đựơc mối liên kết để cùng tồn tại và
phát triển.
Chúng ta đã biết, Việt Nam vừa vượt qua vòng đàm phán thứ 8 để gia
nhập WTO vào năm 2005. Một trong những yêu cầu của WTO đối với Việt Nam
là cần đẩy mạnh, đẩy nhanh hơn nữa những cải cách trong lĩnh vực tài chính,
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
7
Đề án môn học
ngân hàng. Đây là một thách thức, nhưng đồng thời cũng là một động lực thúc
đẩy chương trình tái cơ cấu lại các NHTM. Quá trình CPH cũng nằm trong nỗ
lực nhằm tăng cường sự lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.
2.CPH NHTMNN tạo điều kiện phát huy vai trò của thị trường tài
chính
2.1.CPH NHTMNN kích thích tăng nguồn vốn tiết kiệm tài trợ cho nhu
cầu mở rộng đầu tư, nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế .
CPH NHTMNN về thực chất là quá trình chuyển đổi các NHTMNN có
một chủ sở hữu là Nhà nước, thành các NHTM có nhiều chủ sở hữu với nhiều cổ
đông khác nhau. tính đến nửa đầu năm 2004,tổng giá trị tài sảncủa các
NHTMNN chiếm tới hơn 73.80% tổng giá trị tài sản thể hiện trên cân đối kế
toán của các tổ chức tín dụng. Rõ ràng, với tiềm lực tài chính và uy tín của mình,
khi thực hiện CPH NHTMNN rất có lợi thế trong việc thu hút vốn từ các chủ thể
khác nhau của nền kinh tế trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu về vốn của nền
kinh tế. Trong vài năm trở lại đây, nhu cầu về vốn của nền kinh tế ngày càng lớn,
trên thực tế , nhiều chương trình , dự án lớn mang tầm cỡ quốc gia thuộc nhiều
lĩnh vực, các công trình trọng tâm đã và đang được tài trợ với vốn đầu tư chủ yếu
là từ các NHTMNN (các chương trình phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế
miền núi Tây nguyên, phát triển đồng bằng sông Cửu Long của Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển VN). Từ thực tế đó, việc CPH các NHTMNN trong thời gian tới

sẽ giúp thị trường tài chính VN có một kênh huy động vốn rất hiệu quả, đáp ứng
đầy đủ và kịp thời hơn nhu cầu về vốn của các chủ thể kinh tế khác nhau, góp
phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của nền kinh tế.
2.2. CPH NHTMNN kích thích sự linh hoạt và đem đén thị trường tài
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
8
Đề án môn học
chính VN một môi trường hoàn hảo hơn, nâng cao hiệu quả trong việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN.
Một đặc điểm quan trọng của TTTC, đó là đóng vai trò như một môI
trường cho việc thực thi chính sách tiền tệ của NHNN. Việc CPH NHTMNN tất
yếu sẽ dẫn đến sự gia tăng lượng giao dịch của các chứng khoán vốn (các cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu đãI) và các chứng khoán nợ (tín phiếu, tráI phiếu,
chứng chỉ tiền gửi), cũng như đa dạng hoá các chủ thể tham gia, đây là yếu tố
quan trọng nâng cao tính thanh khoản của hàng hoá trên thị trường thứ cấp. Đến
lượt nó, thị trường thứ cấp phát triển sẽ có những tác động tích cực đến hoạt
động của thị trường sơ cấp – là tiền đề quan trọng đem lại hiệu quả của chính
sách tiền tệ, mà tiêu biểu là nghiệp vụ thị trường mở của NHNN. Kể từ khi được
đưa vào hoạt động ở VN đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã ngày một phát
triển về quy mô, tổ chức và chất lượng hoạt động. Tổng doanh số giao dịch năm
2004 tăng gấp 3 lần năm 2003 và bằng khoảng 16 lần so với năm 2001, khối
lượng giao dịch từng phiên cũng tăng bình quân 82 tỉ đồng/phiên năm 2000 lên
725 tỷ đồng/phiên tính đến giữa năm 2005. Trong số các thành viên của thị
trường mở (27 tổ chức tín dụng được công nhận là thành viên) thì các thành viên
tham gia thường xuyên luôn là các NHTMNN với tỷ trọng giao dịch lớn. Trong
thời gian tới, khi tiến trình CPH NHTMNN được xúc tiến mạnh mẽ, thì hoạt
động của các NHTMNN trên các thị trường sơ cấp và thứ cấp sẽ ngày càng sôI
động. Đây là môI trường thuận lợi để NHNN thực hiện chính sách tiền tệ tích
cực đến nền kinh tế.
2.3. CPH hệ thống NHTMNN tạo nên mối quan hệ chặt chẽ giữa chỉ số

chứng khoán và tình trạng “sức khoẻ” của nền kinh tế.
Ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển, nơI mà TTTC đạt đến sự hoàn
hảo, mỗi một biến động dù là nhỏ về chỉ số chứng khoán (thực chất được xác
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
9
Đề án môn học
định trên cơ sở giá cổ phiếu) đều phản ánh được thực trạng của nền kinh tế,
thông qua chỉ số chứng khoán có thể biết được nền kinh tế đang trên đà tăng
trưởng hay trong xu hướng suy thoái. Điều này rất quan trọng vì nó giúp cho các
chủ thể tham gia vào thị trường (người đI vay, người cho vay) điều chỉnh hành vi
theo hướng có lợi cho mình. Đối với nhà đầu tư, nếu chỉ số chứng khoán biến
động theo hướng không có lợi thì lợi tức dự tính trong tương lai về chứng khoán
của tổ chức phát hành sẽ giảm và nhà đầu tư sẽ chuyển hướng đầu tư sang những
loại chứng khoán hoặc những công cụ đầu tư của các chủ thể khác có lợi hơn cho
mình, còn đối với nhà phát hành – người đi vay sẽ đưa ra các giải pháp cải tiện
tình hình kinh doanh để có thể thay đổi chỉ số chứng khoán theo chiều hướng tốt
hơn nhằm thu hút các nhà đầu tư. Điều này sẽ có những tác động tích cực tới nền
kinh tế. Tuy nhiên, mối quan hệ này chỉ có được khi TTTC hội tụ đủ một số điều
kiện : các chủ thể tham gia vào thị trường, đặc biệt là các tổ chức phát hành
chứng khoán phảI có tiềm lực đủ mạnh; hàng hoá trên TTTC có tính lỏng cao, có
thể dễ dàng chuyển hoá thành tiền
IV. NỘI DUNG CPH NHTMNN
1.Một số quan điểm để tiến hành CPH NHTMNN:
CPH NHTMNN là một nhu cầu cần thiết và thực tế, một xu hướng tất yếu
khi mà định hướng chung của kinh tế nước ta là hội nhập với kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, cần nắm được một số quan điểm sau để tiến hành CPH có hiệu quả:
Một là, CPH các NHTMNN phải nằm trong kế hoạch tổng thể cơ cấu lại
và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Một trong những trọng tâm của nó là
việc nâng vốn của các NHTMNN lên càng sớm càng tốt, để khi tiến hành CPH
xong thì tỷ lệ an toàn vốn phải đạt chuẩn mực quốc tế. Phấn đấu trong thời gian

tới, các NHTMNN Việt Nam có thể đạt mức trung bình tiên tiến của khu vực. Và
việc CPH thực chất là một giải pháp để có thể đạt được mục tiêu này.
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
10
Đề án môn học
Hai là, CPH các NHTMNN cần tiến hành từng bước thận trọng. Do tính
chất tương đối đặc thù, ngân hàng vốn đợc coi là một ngành nhạy cảm, hoạt
động ngân hàng có ảnh hưởng rất to lớn đến hầu hết các ngành khác trong nền
kinh tế. Do đó, CPH các NHTMNN cần hết sức thận trọng để đảm bảo độ an
toàn và bền vững của không những hệ thống ngân hàng mà còn của toàn bộ nền
kinh tế.
Ba là, CPH các NHTMNN phải gắn liền với việc nâng cao năng lực điều
hành, quản trị, ứng dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại, tạo ra các sản phẩm
ngân hàng mới, có sức cạnh tranh cao. Việc CPH cho phép tăng thêm năng lực
cạnh tranh của các NHTMNN, thúc đẩy hiện đại hoá, nâng cao năng lực quản trị
điều hành và trình độ chuyên môn của cán bộ, nhân viên ngân hàng, thu hút nhân
tài trong và ngoài nước vào làm việc. Chắc chắn nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẽ
tìm kiếm cơ hội mua cổ phần một số NHTMNN của Việt Nam. Theo đó, họ sẽ
chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ năng quản trị điều hành tiên tiến, kiểm toán
chặt chẽ theo chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó, tăng thành phần sở hữu khác
trong các NHTMNN cũng góp phần làm minh bạch hơn hoạt động, nhất là việc
cấp tín dụng, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tiết kiệm chi phí trong chính các
NHTM được CPH.
Bốn là, CPH các NHTMNN phải gắn liền với quá trình xử lý các yếu kém
tồn tại, lành mạnh hoá tài chính, giảm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn. Vừa qua, Hội
đồng Tài chính - Tiền tệ của Chính phủ đã góp ý thông qua đề án tăng thêm vốn
cho các NHTM. Theo đó, giải pháp để tăng thêm vốn cho các NHTM sẽ bao
gồm cả việc cho phép CPH một phần vốn của các doanh nghiệp nhà nước dưới
hình thức bán trái phiếu chuyển đổi cho ngân hàng để tăng vốn điều lệ. Việt Nam
được đánh giá là một trong những nước thực hiện tốt chính sách tỷ giá và kiểm

soát lạm phát, nhưng việc cải cách ngân hàng còn chậm. Yêu cầu đặt ra là cần
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
11
Đề án môn học
phải khắc phục triệt để trong năm 2004. Ngoài ra, trong quá trình tái cơ cấu
NHTM, vấn đề phát triển bền vững tài chính được Nhà nước, Ngân hàng Nhà
nước và NHTM đặc biệt quan tâm qua các biện pháp tăng vốn điều lệ, sáp nhập
các NHTM cổ phần, xử lý nợ tồn đọng và ngăn ngừa nợ xấu phát sinh, cải thiện
hệ thống kế toán phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, so với yêu cầu cạnh
tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian tới thì vẫn cha được như
mong muốn. Năng lực tài chính của nhiều NHTM còn yếu, nợ quá hạn cao và
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của các
NHTM đều thua kém ngân hàng trong khu vực. Nếu tính cả nợ khoanh và nợ
khó đòi thì hoạt động của nhiều ngân hàng đang ở tình trạng thua lỗ, thu nhập
thuần tuý thấp, khả năng thiết lập các quỹ dự trữ bị hạn chế và khả năng thanh
toán rất nhỏ. CPH các NHTMNN phải giải quyết, khắc phục được các yếu kém
đó.
Năm là, CPH các NHTMNN phải được tiến hành theo hướng công khai,
minh bạch theo hướng đa sở hữu trong đó Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối.
Tránh hiện tượng CPH khép kín. Hơn nữa, CPH NHTMNN không phải là bán
tài sản hiện tại của Nhà nước cho khu vực tư nhân, mà là giữ nguyên tài sản của
Nhà nước với mức tăng hằng năm do tái đầu tư bình thường, đồng thời huy động
thêm vốn mới từ công chúng, nhằm nâng cao tiềm lực tài chính và quy mô hoạt
động của các NHTMNN. Ngoài việc đảm bảo an toàn hoạt động cho cả hệ thống
ngân hàng, cơ sở vốn bền vững còn là điều kiện cần thiết và là cơ hội để hiện đại
hoá công nghệ và quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện vai trò, vị thế
và uy tín quốc tế của hệ thống tài chính, ngân hàng Việt Nam, đồng thời có thể
hỗ trợ đắc lực cho phát triển thị trường chứng khoán của nước ta.
Thực tế, CPH NHTMNN là rất cần thiết, đúng đắn, song phải đi vào thực
chất. Cần tránh hiện tượng mang danh là CPH, nhưung thực chất vốn của Nhà

Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C
12
Đề án môn học
nước lại được điều chuyển từ doanh nghiệp thành viên này sang doanh nghiệp
thành viên khác, hoặc số cổ phiếu bán đến người lao động rất ít. Cuối cùng mục
tiêu của CPH là bổ sung thêm nguồn vốn tự có, người lao động khi bỏ vốn vào
ngân hàng họ phải đợc giám sát mọi hoạt động, được thấy đồng vốn của họ sinh
sôi nảy nở ra sao? Tránh tình trạng “bình mới rượu cũ”.
Sáu là, mô hình quản lý sau CPH: Mô hình quản lý ở đây bao hàm cả mô
hình tổ chức và phương thức quản lý. Cần phải có sự thay đổi mô hình tổ chức
khi tiến hành CPH để quản trị tốt hơn. Một điều đáng chú ý là khi tiến hành ch-
ương trình CPH phải tính tới vai trò, mô hình của Hội đồng quản trị bởi khi đó,
Hội đồng quản trị bao gồm các cổ đông khác nữa chứ không chỉ đơn thuần là đại
diện cổ đông Nhà nước thôi. Từ đó, cần đặt ra quy chế quản lý theo phương thức
mới dưới hình thức là một doanh nghiệp cổ phần.
2. Mục tiêu CPH NHTMNN:
Từ những quan điểm nêu trên, thực hiện chương trình CPH các
NHTMNN, chúng ta sẽ đạt được các mục tiêu sau:
Thứ nhất, đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh
của các NHTMNN, để từ đó thực hiện tốt các cam kết của các hiệp định song
phương và đa phương.
Thứ hai, đảm bảo năng lực hoạt động của bản thân ngân hàng (tỷ lệ an
toàn vốn tự có), lành mạnh hoá tài chính các NHTM và cả hệ thống ngân hàng.
Giải pháp CPH NHTMNN trước hết sẽ cho phép huy động một khối lượng vốn
rất lớn trong và ngoài nước để tăng vốn điều lệ của các ngân hàng này, đảm bảo
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% theo thông lệ quốc tế trong khi việc trông chờ
cấp bổ sung vốn từ ngân sách nhà nước đang hết sức khó khăn. Điều đó cũng có
nghĩa là giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, không những thế còn tạo điều
kiện tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Bùi Thị Minh Huệ - Lớp: NH46C

13

×