1
ĐẶT VẤN ĐỀ
HIV/AIDS đã và vẫn đang là vấn đề toàn cầu, nó không chỉ ảnh hưởng
đến tính mạng, sức khoẻ của con người, mà còn gây tác hại lớn đến sự phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội của các quốc gia. Sau hơn 30 năm mặc dù các
nước đã có nhiều biện pháp phòng chống tích cực nhưng dịch vẫn gia tăng,
với tính chất ngày càng phức tạp. Đến nay, có khoảng 34 triệu người đang
sống chung với HIV và gần 30 triệu người đã chết vì AIDS [103].
Hiện nay, tiêm chích ma túy vẫn là phương thức lây truyền HIV chủ
yếu ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Theo báo cáo của cơ quan
phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc ước tính có khoảng 14
triệu người tiêm chích ma túy trên toàn cầu và tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm
tiêm chích ma túy là (10% - 13%) [115], [116].
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ nhiễm HIV qua đường
tiêm chích ma túy vào loại cao trên thế giới. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm
nghiện chích ma túy toàn quốc năm 2010 là 17,5%. Tuy nhiên, tại một số
tỉnh/thành phố tỷ lệ này lại cao gấp 2 - 3 lần: thành phố Hồ Chí Minh 36%,
Cần Thơ 35,7%, Điện Biên 34%. Tiêm chích ma túy là nguyên nhân chính
làm tăng số nhiễm HIV mới hàng năm. Theo báo cáo của Bộ Công an đến
tháng 6 năm 2013, cả nước có trên 180000 người nghiện, trong đó sử dụng
heroin chiếm 84,7% [61].
Do vậy, nỗ lực phòng, chống lây nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích
ma túy có ý nghĩa rất quan trọng để ngăn chặn đại dịch này. Điều trị nghiện
các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone là một trong các biện pháp
can thiệp giảm tác hại dự phòng lây nhiễm HIV. Trong nhiều năm qua,
Methadone được áp dụng điều trị tại nhiều nơi trên thế giới và đã đạt được
những kết quả khả quan. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra các bằng
chứng về điều trị thay thế bằng thuốc Methadone giúp người nghiện các chất
2
dạng thuốc phiện giảm tần suất sử dụng ma túy, giảm hành vi tội phạm, giảm
tử vong do quá liều và tăng hiệu quả điều trị [114].
Hà Nội là thành phố có tỷ lệ nhiễm HIV cao trong nhóm nghiện chích
ma túy, kết quả giám sát trọng điểm trong 10 năm (2006 - 2015) tỷ lệ nhiễm
HIV không thay đổi, trung bình là 23,9% [48]. Như vậy, trong nhiều năm qua
tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm này tại Hà Nội cao và không giảm, trong khi công
tác cai nghiện ma túy ở cộng đồng và trong các Trung tâm Giáo dục Lao động
xã hội còn nhiều bất cập, chưa được quan tâm đúng mức [6], [61]. Vấn đề đặt
ra ở đây là thành phố đã triển khai nhiều chương trình can thiệp cho nhóm
nghiện chích ma túy nhưng hiệu quả chưa cao, chưa có tính bền vững? Do
vậy, nghiên cứu các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV và đánh giá hiệu quả
chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone
trong nhóm nghiện chích ma túy là hết sức cần thiết, mang tính thời sự, có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn cao. Từ những lý do trên, trong khuôn khổ dự án
“Dự phòng chăm sóc và điều trị HIV/AIDS tại Việt Nam” do Chính phủ Hoa
Kỳ tài trợ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Thực trạng, hành vi nguy
cơ lây nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy và hiệu quả chương
trình điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone
tại Hà Nội (2012 – 2013)" nhằm mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng nhiễm HIV và hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV
trong nhóm nghiện chích ma tuý tại Hà Đông và Từ Liêm, Hà Nội, năm
2012.
2. Đánh giá hiệu quả chương trình điều trị nghiện các chất dạng
thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone, dự phòng lây nhiễm HIV
trong nhóm nghiện chích ma túy tại Hà Đông và Từ Liêm, Hà Nội, năm
2012 - 2013.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐẶC ĐIỂM DỊCH HIV/AIDS
1.1.1. Một số khái niệm
AIDS là chữ viết tắt từ tiếng Anh “Acquired Immune Deficiency
Syndrome” nghĩa là “Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải” do nhiễm
HIV (Human Immunodeficiency Virus).
AIDS lần đầu tiên được phát hiện vào tháng 6 năm 1981. Trung tâm
phòng chống bệnh tật - Atlanta của Mỹ xác định từ 5 nam thanh niên đồng
tính luyến ái bị viêm phổi nặng do Pneumoci carini ở Los Angeles (Mỹ). HIV
tấn công và tiêu huỷ dần các tế bào miễn dịch, làm suy giảm hệ thống miễn
dịch của cơ thể. Do hệ thống miễn dịch bị tổn thương, cơ thể không tự bảo vệ
chống lại các nhiễm trùng mà một người bình thường có thể chống đỡ được.
Các nhiễm trùng phổ biến mà những bệnh nhân AIDS thường mắc phải là lao,
viêm phổi, ỉa chảy, các bệnh nấm, zon...
AIDS không phải là một bệnh mà là một hội chứng, AIDS là giai đoạn
cuối của quá trình nhiễm HIV. Do hệ thống miễn dịch bị tổn thương, cơ thể
không tự bảo vệ trước các bệnh nhiễm trùng cơ hội hoặc các biến đổi tế bào
mà một người bình thường có thể chống đỡ được. Những bệnh này là nguyên
nhân dẫn đến tử vong. Cho đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu hay
vacxin phòng, chống AIDS có hiệu quả [38], [45].
Hành vi nguy cơ cao là hành vi dễ làm lây nhiễm HIV như dùng chung
bơm kim tiêm (BKT) và quan hệ tình dục (QHTD) không an toàn [45].
Ma tuý là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp. Khi đưa vào cơ
thể con người, nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý. Nếu
lạm dụng ma tuý, con người sẽ bị lệ thuộc vào nó. Ma tuý gây tổn thương,
nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng.
4
Người nghiện ma tuý là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện,
thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này. Những người sử dụng lặp đi
lặp lại nhiều lần chất ma tuý với liều ngày càng tăng dẫn đến trạng thái nhiễm
độc chu kỳ, mạn tính bị lệ thuộc thể chất, tâm thần vào chất đó [46], [58].
Nghiện chích ma tuý là những người đã từng sử dụng các loại ma tuý
không phải thuốc y tế kê theo đơn bằng cách tiêm/chích trong một tháng qua,
đang sống và sinh hoạt tại cộng đồng [46], [58].
Methadone là một chất dạng thuốc phiện tổng hợp, có tác dụng dược lý
tương tự như các chất dạng thuốc phiện khác (đồng vận) nhưng không gây
nhiễm độc hệ thần kinh trung ương và không gây khoái cảm ở liều điều trị, có
thời gian bán huỷ dài (trung bình là 24 giờ) nên chỉ cần sử dụng 1 lần trong
ngày là đủ để không xuất hiện hội chứng cai. Methadone có độ dung nạp ổn
định nên ít phải tăng liều khi điều trị lâu dài. Điều trị nghiện chất dạng thuốc
phiện (CDTP) bằng thuốc Methadone cần tuân thủ điều trị lâu dài, có kiểm
soát, được sử dụng theo đường uống, dưới dạng sirô nên giúp dự phòng bệnh
lây truyền qua đường máu như: HIV, HBV, HCV đồng thời giúp người bệnh
phục hồi chức năng tâm lý, xã hội, lao động và hòa nhập cộng đồng [8], [12].
1.1.2. Dịch tễ học nhiễm HIV/AIDS
1.1.2.1. Tác nhân gây bệnh
HIV được phát hiện đầu tiên do một nhóm nhà khoa học Pháp ở Viện
Pasteur Paris phân lập từ máu của một bệnh nhân vào năm 1983 và gọi là vi
rút có liên quan với viêm hạch (Lymphadenopathy Associated Virus). Năm
1984, Gallo và các nhà khoa học Mỹ cũng phân lập được vi rút gây AIDS và
đặt tên là vi rút hướng tế bào Lympho T ở người (Human T - cell
Lymphotropic Virus III - HTLV III). Năm 1986, Hội nghị danh pháp Quốc tế
về vi rút đã thống nhất tên gọi là HIV (Human Immunodeficiency Virus)
Tuýp 1 hay HIV-1. Năm 1986, các nhà khoa học Pháp lại phân lập một loại vi
rút khác ở Tây Phi cũng gây suy giảm miễn dịch ở người, có cấu trúc kháng
5
nguyên khác với HIV-1 gọi là HIV-2. Như vậy, HIV có 2 Serotype là HIV-1
và HIV-2. HIV là một Retrovirus (Vi rút sao mã ngược), thuộc họ Lentivirus
(vi rút chậm). HIV-1 phân bố khắp thế giới, HIV-2 chỉ khu trú ở một số nước
Tây Phi và Ấn Độ. HIV-2 có thời gian ủ bệnh dài hơn, nguy cơ lây truyền
thấp hơn và bệnh diễn biến nhẹ hơn HIV-1 và HIV-1 có sự đa dạng di truyền
nên có thể ảnh hưởng đến các loại đột biến kháng thuốc [38], [62], [108].
1.1.2.2. Đường lây truyền
Các nghiên cứu cho thấy: do phân lập được HIV từ máu, tinh dịch, dịch
tiết từ âm đạo, nước bọt, nước mắt, sữa mẹ, nước tiểu và các dịch khác của cơ
thể. Mặc dù HIV có mặt ở mọi mô và dịch của người bị nhiễm, song tập trung
nhiều nhất trong máu và dịch tiết của cơ quan sinh dục. Chính vì vậy, HIV
chủ yếu lây qua 3 đường chính: đường máu, đường QHTD và đường mẹ sang
con [38].
* Lây truyền theo đường QHTD: Đây là phương thức lây truyền phổ
biến trên thế giới. Nguy cơ lây nhiễm HIV qua một lần giao hợp với một
người nhiễm HIV là từ 0,1% đến 1%. Nhiễm HIV có mối quan hệ chặt chẽ
với nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục (STIs), STIs làm tăng cảm
nhiễm và tăng nguy cơ lây nhiễm HIV [38], [62].
* Lây truyền theo đường máu: Nguy cơ lây truyền HIV qua đường
truyền máu rất cao, trên 90%. HIV cũng có thể truyền qua việc sử dụng chung
BKT với người bị nhiễm HIV mà không được tiệt trùng, nếu BKT đó lại được
dùng chung với một người khác thì máu của người nhiễm HIV sẽ đi thẳng vào
máu của người chưa nhiễm, ngay khi chỉ còn một lượng máu nhỏ sót lại trong
BKT và được tiêm trực tiếp cũng sẽ làm lây truyền HIV. Ngoài ra, HIV còn
lây truyền trong chăm sóc y tế (do dụng cụ không đảm bảo, lây truyền qua
việc cấy ghép các bộ phận của cơ thể và cho tinh dịch), qua các dịch vụ thẩm
mỹ (xăm, trổ), lây truyền từ bệnh nhân sang nhân viên y tế và đặc biệt ở
người nghiện chích ma túy (NCMT) [38].
6
* Lây truyền từ mẹ sang con: Sự lây truyền HIV có thể xảy ra trong thời
kỳ mang thai, trước và trong một thời gian ngắn sau đẻ. Theo kết quả nghiên
cứu trên thế giới; nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con khác nhau tùy từng
nước, từ 12% - 32% ở các nước công nghiệp phát triển, 25% - 50% ở các
nước đang phát triển [38].
1.1.2.3. Khối cảm thụ bệnh
Khối cảm thụ trong lây truyền HIV là trẻ em trong thời kỳ bào thai và tất
cả những người có hành vi nguy cơ. Như vậy ai cũng có thể bị nhiễm HIV
nếu người đó có hành vi không an toàn, đặc biệt là những người NCMT.
Những người NCMT có nguy cơ cao bị lây nhiễm HIV qua đường máu và
dịch thể khác khi sử dụng chung BKT và các dụng cụ tiêm chích ma túy
(TCMT) khác. Nguyên nhân khiến cho người NCMT có nguy cơ nhiễm HIV
cao là: sử dụng chung BKT để tiêm chích trực tiếp vào đường tĩnh mạch, các
điểm tiêm chích thường dùng chung một BKT cho nhiều người. Sử dụng ma
tuý có thể làm tổn thương thần kinh và suy giảm chức năng nhận thức vì vậy
người sử dụng ma túy thường không kiểm soát được hành vi khi tiêm chích
và QHTD không sử dụng các biện pháp để bảo vệ, những người NCMT
thường có sức đề kháng kém. Nguồn truyền nhiễm càng chứa nhiều vi-rút thì
khả năng truyền bệnh càng cao; khối cảm thụ càng yếu kém thì vi-rút HIV
càng dễ xâm nhập [38]. Kết quả một nghiên cứu tại Việt Nam và Trung Quốc
cho thấy: sử dụng BKT sạch trong TCMT sẽ làm giảm mạnh tỷ lệ nhiễm HIV
trong nhóm NCMT: tại Lạng Sơn từ 46% xuống 23% với p < 0,001, Ning
Ming: từ 17% xuống 11% với p = 0,003 và Hà Giang: từ 51% xuống 18% với
p < 0,001, Kết quả này cho thấy nếu nhóm người NCMT sử dụng chung dụng
cụ TCMT sẽ có nguy cơ bị lây nhiễm HIV rất cao từ (49% đến 83%) [79].
* Các yếu tố ảnh hưởng tới lây nhiễm HIV
+ Yếu tố sinh học: So với những người không mắc STIs, người mắc
STIs không gây loét có nguy cơ lây truyền HIV từ 2 - 5 lần và người mắc
7
STIs có gây loét khả năng nhiễm HIV cao gấp 5 - 11 lần. Ngoài ra, giai đoạn
nhiễm HIV cũng ảnh hưởng lớn tới khả năng lây truyền HIV: nguy cơ lây
nhiễm rất cao ngay sau khi nhiễm HIV (giai đoạn cửa sổ) và giai đoạn AIDS.
Ở giai đoạn nhiễm HIV không triệu chứng, nguy cơ lây nhiễm thấp hơn, số
lượng HIV giai đoạn này chỉ khoảng 20 - 40 vi rút/1ml máu [62].
+ Yếu tố hành vi: Vai trò của nam và nữ trong QHTD, sự chấp nhận của
xã hội về lối sống có nhiều bạn tình, phương thức sinh hoạt tình dục (miệng,
hậu môn) hay các phong tục xăm mình, xâu lỗ tai, TCMT... [62].
+ Yếu tố văn hóa, kinh tế, xã hội: Trình độ văn hóa, nhận thức, sự hiểu
biết về HIV/AIDS, tác hại ma túy, an toàn tình dục; yếu tố về kinh tế như
nghèo đói, không đủ nguồn lực để đương đầu với AIDS, mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường; yếu tố về chính trị như thái độ của xã hội, luật pháp với các
nhóm nguy cơ cao; thái độ đối với giáo dục tình dục, với vị thế của người phụ
nữ trong xã hội, sự chấp nhận của xã hội với phương pháp xét nghiệm HIV
giấu tên và việc cho phép cung cấp BCS, BKT, điều trị cai nghiện bằng thuốc
thay thế... [48].
1.2. THỰC TRẠNG TIÊM CHÍCH MA TÚY VÀ HÀNH VI NGUY CƠ
LÂY NHIỄM HIV
1.2.1. Trên thế giới
Năm 1992, tiêm chích ma túy đã được báo cáo ở nhiều quốc gia và vùng
lãnh thổ trên toàn thế giới. Ở Châu Âu, trên 40% các trường hợp AIDS sống ở
12 nước cộng đồng Châu Âu là do TCMT [97]. Trong năm 2008, TCMT đã
được báo cáo ở 158 quốc gia. Ước tính có khoảng 11,6 triệu người hiện đang
TCMT trên toàn thế giới. Khoảng 80% những người TCMT sống ở các quốc
gia đang phát triển. Những người tiêm chích ma túy chủ yếu là nam giới dao
động từ khoảng 70 - 75% ở Châu Âu và Bắc Mỹ lên hơn 90% và trong nhiều
quốc gia ở Châu Á. Các vùng có số ước tính người tiêm chích ma túy cao
nhất, với những con số lớn nhất được báo cáo ở Nga, Trung Quốc và Ấn Độ
8
[66]. Theo báo cáo Cơ quan phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên Hợp
Quốc (UNODC) đến cuối năm 2011, toàn thế giới có khoảng 167 đến 315
triệu người trong độ tuổi từ 15- 64 sử dụng các loại ma túy bất hợp pháp ,
chiếm từ 3,6% - 6,9% dân số trên thế giới. Ở những nước mà hình thức lây
truyền HIV chủ yếu qua QHTD khác giới và TCMT thì đây vẫn là một trong
những nguyên nhân chính làm tăng số nhiễm HIV mới hàng năm. Trong số
hầu hết các yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV do dùng chung BKT khi TCMT là
phổ biến trong những người tiêm chích trên toàn thế giới [68], [116]. Loại ma
tuý thường sử dụng; ngoài thuốc phiện dùng để tiêm chích chủ yếu thì
Cocain, Amphetamin cũng được sử dụng bằng con đường tiêm chích tại các
nước có tỷ lệ nhiễm HIV cao. Ở Đông Nam Châu Á, các chế phẩm
Methamphetamin, thuốc lắc cũng đang được ưa chuộng và hình thức sử dụng
bằng đường tiêm cũng ngày càng tăng. Ở Nam Á, bên cạnh heroin, người
NCMT cũng thường tiêm chích các chất giảm đau tổng hợp, Benzodiazepines
và các hoạt chất khác [115], [116].
Các đường lây truyền HIV ở người TCMT: sử dụng chung BKT là yếu
tố nguy cơ lớn nhất làm lây truyền HIV trong nhóm TCMT. Dùng chung
dụng cụ tiêm chích với từ hai người bạn chích trở lên trong vòng 6 tháng là
yếu tố nguy cơ có ý nghĩa thống kê trong nhiễm HIV tại Bangkok. Một
nghiên cứu cho thấy: HIV sống ở giọt máu trong BKT của người NCMT
khoảng 2 tuần, tỷ lệ HIV còn tồn tại trong BKT từ 5% - 60% trong vòng 15
- 30 ngày và có nguy cơ lây nhiễm cho bạn chích từ 0,3% - 0,7%. Các
nghiên cứu cho thấy tiêm chích chung tại các tụ điểm chích là yếu tố làm
tăng nguy cơ nhiễm HIV vì tại các tụ điểm này, ma túy được bán và các
dụng cụ tiêm chích được chuẩn bị sẵn để thuê hoặc để dùng chung. Hàng
chục, thậm chí hàng trăm người NCMT có thể đến các tụ điểm tiêm chích
trong một ngày và dùng chung một số lượng nhất định các dụng cụ tiêm
9
chích [80], [95].
Cận Sahara Châu Phi là khu vực chịu ảnh hưởng dịch AIDS nặng nề
nhất. Trong năm 2007 đã có trên 75% người nhiễm HIV trên toàn cầu sống
trong khu vực này. Tiêm chích ma túy và sử dụng chung các dụng cụ tiêm
chích là nguyên nhân chính làm lây nhiễm HIV ở khu vực này [107], [112].
Đến năm 2010, Cận Sahara Châu Phi vẫn chiếm 70% các ca nhiễm HIV mới
và dịch tiếp tục xảy ra nghiêm trọng nhất là ở miền Nam Châu Phi, Nam Phi.
Tại hai khu vực này hiện có khoảng 5,6 triệu người sống chung với HIV
nhiều hơn bất kỳ tại quốc gia nào khác trên thế giới. Gần một nửa số ca tử
vong do các bệnh liên quan đến AIDS trong năm 2010 xảy ra ở Nam Phi.
AIDS đã cướp đi ít nhất một triệu người mỗi năm ở tiểu bang Sahara Châu
Phi kể từ năm 1998. Caribbean là nơi có tỷ lệ nhiễm HIV cao đứng thứ hai
sau cận Sahara Châu Phi, mặc dù dịch đã diễn biến chậm lại đáng kể từ giữa
những năm 1990. Ở khu vực Caribbean, số nhiễm HIV mới đã giảm một phần
ba từ năm 2001 và tỷ lệ nhiễm HIV đã giảm khoảng 25% ở Cộng hòa
Dominica và Jamaica [104].
Ở Đông Âu và Trung Á, gần 90% số ca nhiễm HIV mới là từ hai quốc
gia: Cộng hòa Liên bang Nga (chiếm 66,0%) và Ukraine (chiếm 21,0%). Tại
những nơi khác; Azerbaijan, Georgia, Kyrgyzstan, Cộng hòa Moldova và
Uzbekistan số ca nhiễm HIV mới hàng năm cũng đang tăng. Trong số ca
nhiễm HIV mới năm 2006 có 62% là do TCMT và chỉ có 37% do QHTD.
Đông Nam Ukraine vẫn tiếp tục là khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đặc
biệt tại các vùng Dnipropetrovsk, Donetsk, Mikolaiv, Odessa, Cộng hòa tự trị
Crimea, thủ đô Kiev. Trong các cuộc điều tra trọng điểm tại sáu thành phố
trong năm 2007, tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở nhóm TCMT từ 10,0% ở Lugansk
lên đến 13,0% ở Kiev và 89% ở Krivoi Rog [106]. Theo báo cáo Tổ chức
phòng, chống AIDS Liên Hợp Quốc năm 2008, ở khu vực này 62% người
nhiễm HIV là do hành vi dùng chung BKT khi TCMT. Tại Nga tỷ lệ nhiễm
10
HIV trong nhóm tiêm chích là hơn 70% ở Biysk vào năm 2005. Tại Ukraine,
tỷ lệ cũng khá cao trong nhóm NCMT: các khảo sát ở nhóm TCMT cho thấy
tỷ lệ tăng từ 11% năm 2001 lên 17% vào năm 2006 [107]. Tần suất dùng
chung BKT, số lượng bạn chích chung, và tại nơi có hiện tượng dùng chung
BKT đều ảnh hưởng tới nguy cơ lây nhiễm HIV.
Theo báo cáo UNAIDS năm 2012 có khoảng 3 triệu người nhiễm HIV
tương ứng với khoảng 30% thuộc các khu vực khác bên ngoài Châu Phi cận
Sahara được cho là do tiêm chích ma túy. Ở Đông Âu và Trung Á, 80%
trường hợp nhiễm HIV là người NCMT. Tỷ lệ nhiễm HIV mới ở khu vực này
đã tăng lên hơn 250% từ năm 2001 đến năm 2010 [100].
Tại Châu Á, Đông Nam Á là nơi có tỷ lệ hiện nhiễm HIV cao nhất, với
nhiều xu hướng dịch khác nhau. Trong khi tỷ lệ hiện nhiễm tại Cam-pu-chia,
Myanmar và Thái Lan có dấu hiệu giảm, thì tại In-đô-nê-xi-a (đặc biệt tại tỉnh
Papua) và Việt Nam, tỷ lệ này lại đang tăng cao. Trong năm 2007, trên toàn
Châu Á có khoảng 4,9 triệu người sống với HIV, trong đó có 440000 người
nhiễm mới. Tại Trung Quốc, tất cả các tỉnh đều có ca nhiễm HIV và tập trung
nhiều nhất ở Hà Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Tân Cương, Vân Nam.
Khoảng 1/2 số người sống với HIV tại Trung Quốc năm 2006 bị lây nhiễm
qua dùng chung dụng cụ TCMT. Nguyên nhân chính gây dịch hiện vẫn là qua
đường TCMT và sự chồng chéo giữa người NCMT có QHTD với GMD là
một yếu tố quan trọng gây ra dịch ở Trung Quốc. Tại Ấn Độ, HIV dường như
đang lan tràn chủ yếu qua QHTD không an toàn giữa người bán dâm, khách
mua dâm và bạn tình của họ. Tại một số bang: Tamil Nadu, Maharashtra,
Karnataka và Andhra Pradesh, nhiễm HIV tập trung chủ yếu trong nhóm
GMD. Nhưng tại một số bang khác thì tỷ lệ nhiễm HIV đang tăng trong nhóm
TCMT và sử dụng chung BKT là yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV phổ biến
nhất ở Đông Bắc Ấn Độ. Tại Pakistan, tỷ lệ nhiễm HIV cũng chủ yếu trong
nhóm TCMT. Nghiên cứu ở Karachi cho thấy tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm
11
TCMT đã tăng từ dưới 1% vào đầu năm 2004 lên 26% vào tháng 3 năm 2005,
một số nghiên cứu khác cho biết tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT đã lên
tới 24% tại Quetta, 12% tại Sargodha, gần 10% tại Faisalabad [106]. Đến năm
2010, Châu Á vẫn là nơi có số người NCMT nhiều nhất, chiếm 1/4 số người
NCMT trên thế giới. Nguyên nhân chủ yếu của dịch HIV ở nhiều quốc gia
Châu Á là do sử dụng ma túy và 16% số người TCMT đang sống với HIV
[67]. Tại Thái Lan, một nghiên cứu ở 3 tỉnh/thành phố Bangkok, Chiang Mai
và Songkla cho thấy: tỷ lệ nhiễm HIV ở người TCMT là 21,9%, tỷ lệ sử dụng
BKT sạch là 77,8% và sử dụng BCS là 46,1% [94].
Mặc dù tỷ lệ nhiễm HIV ở một số quốc gia có giảm nhất định, nhưng số
người sống chung với HIV vẫn tiếp tục tăng trên thế giới. Năm 2005, có thêm
5 triệu ca nhiễm mới. Số người sống chung với HIV trên toàn cầu đã đạt mức
cao nhất với khoảng 40,3 triệu người vào năm 2002, tăng từ khoảng 37,5 triệu
vào năm 2003 [111]. Theo báo cáo toàn cầu năm 2006 dịch AIDS tiếp tục xấu
đi tại nhiều quốc gia. Ấn Độ là nơi có số lượng mắc AIDS nhiều nhất: 5,7
triệu vào năm 2005. Sub-Saharan Africa là nơi có tỷ lệ bình quân người bị
nhiễm HIV/AIDS cao nhất trên thế giới [105]. Năm 2009 ước tính Châu Á có
khoảng 4,9 triệu người sống chung với HIV. Ở nhiều khu vực trên thế giới, tỷ
lệ nhiễm HIV trong nhóm người NCMT đã tăng trên 40%. Người NCMT lại
thường xuyên có hành vi tình dục không an toàn và họ có rất nhiều bạn tình,
HIV lan truyền qua đường tình dục từ những người NCMT bị nhiễm HIV
sang các bạn tình của họ cũng đã trở thành một đường lây truyền quan trọng.
Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa TCMT, mại dâm và các
hành vi tình dục có nguy cơ dẫn đến tỷ lệ nhiễm HIV cao trong số những
người mại dâm đồng thời có sử dụng ma tuý [66]. Một số kết quả các nghiên
cứu cho thấy: ở Trung Quốc khoảng 56% phụ nữ bán dâm có TCMT và nhiều
người nam giới tiêm chích mua dâm và họ thường không sử dụng BCS. Một
cuộc khảo sát tiến hành vào năm 2005 - 2006 tại một số khu vực ở Việt Nam,
12
cho kết quả từ 20% đến 40% số người TCMT đã mua dâm trong 12 tháng
trước đó và đến 60% cho biết họ thường xuyên có QHTD với bạn tình thường
xuyên và chỉ có 16% - 36% nói rằng họ luôn sử dụng bao cao su với bạn tình
thường xuyên. Sự chồng chéo giữa TCMT và QHTD cũng là một hiện tượng
đáng lo ngại làm gia tăng tỷ lệ nhiễm HIV [107].
Tiêm chích ma túy hiện nay xảy ra ở ít nhất 158 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới. Các dữ liệu mới nhất ước tính 15,9 triệu (khoảng 11 đến 21
triệu) người TCMT trên toàn cầu. Các quần thể TCMT lớn nhất tập trung chủ
yếu ở Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nga. Trong đó 120 nước có báo cáo về nhiễm
HIV ở những người TCMT. Tám nước: Argentina, Brazil, Estonia, Indonesia,
Kenya, Myanmar, Nepal và Thái Lan có tỷ lệ nhiễm HIV ở những người
TCMT là hơn 40% [67]. Tại Argentina, TCMT chỉ chiếm khoảng 5% số
nhiễm HIV mới. ở Buenos Aires từ năm 2003 và 2005, mức độ lây nhiễm
HIV ở những người TCMT đã giảm ở một số thành phố của Brazil. Đáng chú
ý lây nhiễm HIV đã xảy ra trong nhóm TCMT tại các thủ đô của Paraguay là
12,0% và Uruguay là 19,0%. Nhiễm HIV mới trong nhóm TCMT Tại Hoa Kỳ
là 18,0% (năm 2005) và tại Canada là 19,0% (năm 2006) [107], [113]. Tuyên
bố Chính trị năm 2011 của Tổ chức phòng, chống AIDS Liên hợp Quốc
(UNAIDS) đã đặt ra mục tiêu 15 triệu người sống chung với HIV được điều
trị và loại bỏ các ca nhiễm HIV mới ở trẻ em vào năm 2015, nhưng hành động
cần thiết hơn là giảm tỷ lệ lây nhiễm HIV trong nhóm GMD và HIV trong
những người TCMT [110].
1.2.2. Tại Việt Nam
Theo báo cáo của Bộ Y tế, tính đến 30 tháng 6 năm 2015, trên toàn
quốc lũy tích số người nhiễm HIV đang còn sống 227114 người, số bệnh
nhân AIDS là 71115 và số tử vong 74442 người. So sánh với cùng kỳ năm
2014, số ca nhiễm HIV phát hiện của năm 2015 giảm 47% (1341 trường hợp);
số AIDS được phát hiện giảm 49% (797 trường hợp); số trường hợp tử vong
13
được phát hiện tăng gấp 2,2 lần (772 trường hợp). Trong số người nhiễm HIV
phát hiện tập trung chủ yếu ở nam giới (66%), nữ giới (34%). Mặc dù trong
những năm gần đây lây truyền HIV qua đường tình dục ngày càng gia tăng
mạnh mẽ, lây nhiễm qua tiêm chích ma tuý không an toàn vẫn là nguyên nhân
chủ yếu. Có gần 40% người được phát hiện nhiễm HIV là người tiêm chích
ma tuý. Rất nhiều trường hợp lây nhiễm qua đường tình dục là bạn tình của
người đã từng tiêm chích ma tuý. Vì vậy tiêm chích ma tuý không an toàn
đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và tiếp tục duy trì dịch HIV tại
Việt Nam. Mặt khác diễn biến của việc sử dụng ma tuý ở Việt Nam ngày càng
phức tạp trong đó việc sử dụng các chất ma tuý tổng hợp như ma tuý đá
(crystal methamphetamine), ecstasy hay ketamine là những chất có ảnh hưởng
lâu dài đến sức khoẻ (bao gồm nguy cơ lây nhiễm HIV do quan hệ tình dục
không an toàn) ngày càng trở nên phổ biến hơn trong giới trẻ ở các thành phố
lớn [21], [51]. Theo báo cáo của Bộ Công an, cả nước có trên 180000 người
nghiện, số người nghiện đang ở cộng đồng chiếm tỷ lệ 64,5%; số người đang
cai nghiện trong các cơ sở Chữa bệnh, Giáo dục, Lao động xã hội là 22,4%; số
đang trong các trại giam, trại tạm giam, Nhà tạm giữ là 13,1%. Tại Hà Nội, có
trên 10% số người nghiện có sử dụng ma túy tổng hợp như Amphetamin, hồng
phiến... Dự báo trong thời gian tới, tình hình và hoạt động của tội phạm ma
túy vẫn tiếp tục phức tạp và có xu hướng gia tăng cả về tính chất và mức độ.
Số lượng người sử dụng ma tuý cũng đang phát triển và được báo cáo ở hầu
hết các tỉnh thành của Việt Nam [6]. Sự lan truyền HIV trong quần thể người
NCMT tùy thuộc vào việc dùng chung BKT và việc thực hiện khử trùng BKT.
Nhiều nghiên cứu khẳng định khi đứng trước một sự lựa chọn là không tiêm
hoặc tiêm với một kim tiêm nhiễm khuẩn, thì người NCMT sẽ chọn tiêm với
chiếc kim tiêm nhiễm khuẩn [48], [55].
Thuốc phiện và heroin là hai loại ma túy cũng được sử dụng khá phổ
biến ở Việt Nam. Hiện nay ma túy được sử dụng nhiều nhất là heroin chiếm
14
trên 80% và chủ yếu bằng đường tiêm chích chiếm trên 90%, có nhiều lý do
để những người nghiện chuyển từ hình thức hút, hít sang tiêm chích và đây là
hành vi nguy cơ cao thúc đẩy tốc độ lây truyền HIV. Tần suất tiêm chích ma
túy có liên quan đến loại ma túy và thời gian sử dụng ma túy. Do cơ chế tác
động của ma túy nên người sử dụng thường có nhu cầu tăng liều vì vậy người
NCMT lâu năm thường có tần suất tiêm chích cao, điều này sẽ làm tăng nguy
cơ lây nhiễm HIV/AIDS cho người nghiện chích ma túy. HIV có thể lây lan
nhanh chóng và xảy ra ngay sau khi có sự xuất hiện của HIV trong quần thể
những người tiêm chích. Một khi HIV đã tồn tại trong quần thể những người
tiêm chích thì quần thể này là nguồn truyền HIV cho vợ, bạn tình của họ qua
đường tình dục [43], [61], [63].
Trên thực tế ở hầu hết các nước phát triển, những người NCMT là nguồn
truyền HIV thường gặp nhất, đồng thời TCMT không chỉ làm tăng nguy cơ
nhiễm HIV ở quần thể những người NCMT mà còn tăng nguy cơ nhiễm HIV
ở bạn tình và con cái của họ qua đường tình dục và đường từ mẹ sang con.
Một số quan niệm cho rằng: người NCMT thường giảm hoạt động tình dục,
trên thực tế không hoàn toàn như vậy, do tác động của ma túy nên giai đoạn
đầu sử dụng ma túy nhu cầu tình dục ở người NCMT thường rất mạnh và
người NCMT thường có QHTD với GMD và số GMD có QHTD với NCMT
ngày một tăng. Kết quả chương trình Giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số
sinh học (IBBS) năm 2009 cho thấy: tỷ lệ người NCMT có QHTD với bạn
tình thường xuyên trong 12 tháng qua là từ 31,0% - 75,3% và có QHTD với
GMD từ 9,0% - 45,0%. Trong khi đó tỷ lệ người NCMT sử dụng BCS trong
QHTD với bạn tình thường xuyên lại rất thấp, ở một số tỉnh/thành là 21,6%
và cao nhất cũng chỉ chiếm 55,6%. Điều đáng quan tâm là người NCMT bị
nhiễm HIV vẫn có QHTD trong 12 tháng qua với các loại bạn tình [15], [56].
Tệ nạn ma túy đã lan tới mọi vùng, miền của 63/63 tỉnh/ thành phố trong
cả nước. Ma tuý đã xâm nhập vào mọi tầng lớp dân không chỉ tập trung ở các
15
nhóm đối tượng có trình độ thấp, không nghề nghiệp, có tiền án tiền sự mà
còn lan sang cả những đối tượng là đội ngũ cán bộ có trình độ học vấn, bằng
cấp, có việc làm; tệ nạn ma tuý len lỏi ở khắp mọi nơi từ thành thị, nông thôn
đến các vùng miền núi, hải đảo, độ tuổi ngày càng trẻ. Một số tỉnh/thành phố
như Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Dương cũng cho biết tỷ lệ người nghiện dưới
30 tuổi chiếm 80% - 90% tổng số người nghiện. Loại ma túy sử dụng ngày
càng đa dạng trong đó 87% người nghiện sử dụng heroin. Cách thức sử dụng
ma túy phổ biến trước đây tại phía Bắc là hút thuốc phiện và tại phía Nam là
hút cần sa, uống tân dược có chất ma túy. Hiện nay, người nghiện tiêm chích
ma túy ngày càng phổ biến và là nguyên nhân chính làm lây nhiễm HIV và
các bệnh qua đường máu [58]. Năm 2012, tình hình sử dụng ma tuý vẫn còn
diễn biến rất phức tạp. Toàn quốc có 171400 người nghiện có hồ sơ quản lý.
Số lượng người NCMT hàng năm vẫn tăng lên, kỹ năng dự phòng lây nhiễm
HIV chưa cao vì vậy dẫn đến gia tăng lây nhiễm HIV trong nhóm này và từ
đó có nguy cơ lây ra cộng đồng. Công tác cai nghiện đã được xã hội hoá bằng
nhiều hình thức, số người được tiếp cận dịch vụ cai nghiện ngày càng tăng,
tuy nhiên tỷ lệ tái nghiện vẫn còn ở mức rất cao khoảng 70% - 95% [16].
Nguyên nhân chính nhiễm HIV ở Việt Nam và một số nước ở khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương là việc sử dụng chung BKT ở nhóm người
TCMT. Theo kết quả giám sát trọng điểm năm 2012 tại 40 tỉnh/thành phố, tỷ
lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm NCMT là 11,6%. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm HIV
trong nhóm NCMT tại các tỉnh triển khai giám sát lồng ghép hành vi lại có sự
khác biệt rất lớn: thành phố Hồ Chí Minh, Thái Nguyên, Cần Thơ , Hà Nội,
Quảng Ninh, Cao Bằng là những tỉnh có tỷ lệ hiện nhiễm cao nhất từ 21,2% 38,8%, ở một số tỉnh còn lại thì tỷ lệ hiện nhiễm rất thấp, từ 1.3% - 3,5%.
Hình thái lây nhiễm vẫn chủ yếu qua TCMT: tỷ lệ người NCMT dùng chung
BKT trong một tháng qua là 16,7%. Tỷ lệ này cao ở các tỉnh như Sóc Trăng là
80,3%, Bà Rịa - Vũng Tàu 67,3%, Kiên Giang 35,2%. Một số tỉnh có tỷ lệ
16
thấp dưới 15% là Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định, Hà Tĩnh, Lạng Sơn. Tỷ lệ
hiện nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ bán dâm là 2,7%. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm
HIV trong nhóm phụ nữ bán dâm tại các tỉnh triển khai giám sát lồng ghép
hành vi lại có sự khác biệt rất lớn, Hà Nội và Cần Thơ là hai tỉnh có tỷ lệ hiện
nhiễm HIV trong nhóm này cao nhất lần lượt là 22.5% và 12%, Lạng Sơn là
6,47%, các tỉnh còn lại đều có tỷ lệ hiện nhiễm HIV dưới 5% [18]. Sử dụng
ma tuý bằng đường tiêm chích rất phổ biến ở Việt Nam, tỷ lệ người sử dụng
qua đường tiêm chích là trên 70%. Hình thái lây nhiễm HIV vẫn chủ yếu qua
TCMT và dùng chung BKT là lý do chính giải thích tại sao tỷ lệ hiện mắc
HIV trong nhóm sử dụng ma tuý tại các thành phố của Việt Nam lại tăng
nhanh [125].
Theo kết quả nghiên cứu những năm gần đây cho thấy: phần lớn người
NCMT tiêm chích lần đầu ở độ tuổi dưới 25 (chiếm tỷ lệ 64%), tỷ lệ tiêm
chích lần đầu ở độ tuổi từ 25 đến < 30 tuổi là 17%. Tỷ lệ người NCMT có
thời gian TCMT trên 3 năm chiếm 69%, nhóm TCMT từ 3 năm trở xuống
chiếm 31% [18]. Người NCMT có tuổi lần đầu sử dụng ma túy hiện nay
thường trẻ hơn, thay đổi khá nhanh từ hút sang tiêm chích heroin và có hoạt
động tình dục mạnh, tuy nhiên tỷ lệ luôn sử dụng BCS với các loại bạn tình
lại rất thấp và họ có QHTD với nhiều bạn tình khác nhau, trong đó có cả
GMD. Các cuộc điều tra, nghiên cứu cho thấy: có 67,4% người NCMT tham
gia nghiên cứu trả lời có quan hệ tình dục với phụ nữ bán dâm trong 12 tháng
qua, trong đó chỉ có 67,5% người NCMT thường xuyên sử dụng bao cao su
khi quan hệ tình dục với phụ nữ bán dâm trong 1 tháng qua. Tỷ lệ người
NCMT thường xuyên sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục với phụ nữ bán
dâm cao ở các tỉnh Hà Tĩnh (88,5%), Thái Nguyên (85,7%), Đồng Nai
(85,7%), Quảng Ninh (85,1%). Nhưng tỷ lệ này lại rất thấp ở một số
tỉnh/thành phố như: thành phố Hồ Chí Minh (36,5%), Bà Rịa - Vũng Tàu
(31,3%), đặc biệt thấp ở Kiên Giang (16,4%) và Sóc Trăng (8,1%) và tỷ lệ
17
GMD có sử dụng ma túy ngày càng gia tăng [18].
Nghiên cứu giám sát hành vi năm 2006 cho thấy tỷ lệ người NCMT sử
dụng chung BKT còn rất cao: tại thành phố Hồ Chí Minh là 37%, An Giang là
33%, Đà nẵng là 29%, Cần Thơ là 25% [7]. Nghiên cứu tại Bắc Kạn, Hòa
Bình và Tuyên Quang cũng cho thấy việc Sử dụng chung BKT tại các tỉnh
tham gia đánh giá là đáng báo động. Việc sử dụng “lại” BKT diễn ra phổ
biến nhất tại Hoà Bình với 52,3% người TCMT có dùng lại BKT của người
khác trong 1 tháng trước điều tra, kế tiếp là Bắc Kạn với 40% và ở Tuyên
Quang với 35,7%. Một yếu tố nguy cơ nữa cần quan tâm là tần suất sử dụng
lại BKT so với số lần tiêm chích là tương đối cao: có tới 90% trong số người
dùng lại BKT của người khác đã dùng lại BKT trong từ 25% đến 50% số lần
TCMT trong tháng trước khi tiến hành đánh giá. Về biện pháp làm sạch BKT,
trên 70% là xúc bằng nước sôi và nước lã, để luộc sôi hay dùng các loại nước
sát khuẩn khác chỉ chiếm tỷ lệ 30%. Điều này cho thấy nguy cơ lây truyền các
bệnh đường máu như: HIV, HBV, HCV, nhiễm khuẩn huyết…là rất lớn và kết
quả nghiên cứu của nhiều tác giả cho rằng 70% số người nhiễm HIV/AIDS là
do tiêm chích ma túy là phù hợp [13]. Năm 2007, tiêm chích ma túy và mại
dâm vẫn là nguyên nhân chính tạo thành dịch HIV ở Việt Nam. Trên toàn
quốc, tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở nhóm NCMT là 20%, tỷ lệ này rất cao ở một số
tỉnh/thành phố: Quảng Ninh là 33,0%, thành phố Hồ Chí Minh là 50,0%, Cần
Thơ là 46,0%. Tỷ lệ hiện nhiễm ở nhóm GMD tại Hải Phòng là 10,0%, Hà
Nội là 12,0% và thành phố Hồ Chí Minh là 8,0% [125]. Các số liệu điều tra
năm 2009 cho thấy: Với những tỉnh có tỷ lệ dùng chung BKT cao vẫn chứa
đựng nhiều tiềm ẩn lây truyền HIV trong nhóm gia tăng và Tỷ lệ sử dụng
chung BKT tăng có thể là một dấu hiệu cảnh báo sớm sự gia tăng tỷ lệ hiện
nhiễm trong thời gian tới. Mặc dù tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT đã
giảm trong thời gian qua, song vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố nguy cơ làm gia
tăng tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm này trở lại do mức độ hành vi sử dụng
18
chung bơm kim tiêm vẫn còn cao, đặc biệt trong nhóm đã bị nhiễm HIV tỷ lệ
sử dụng chung BKT còn quá cao như Hà Nội, Quảng Ninh, Yên Bái, Đồng
Nai, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ [59]. Kết quả nghiên cứu trên 378
học viên tại trung tâm giáo dục lao động xã hội số10 tại Hà Nội cho thấy;
những người nghiện ma túy qua đường tiêm chích có nguy cơ nhiễm HIV cao
gấp 2,77 lần so với người nghiện không tiêm chích. Những người NCMT
dùng lại BKT có nguy cơ nhiễm HIV cao gấp 1,58 lần so với những người
cũng TCMT túy nhưng dùng BKT sạch. Những người NCMT có QHTD với
GMD nhưng không dùng BCS có nguy cơ nhiễm HIV cao gấp 3 lần so với
người NCMT có QHTD với GMD dùng BCS [24].
Ở Việt Nam, sử dụng ma tuý bất hợp pháp được coi là hành vi nguy hại
gây hậu quả với xã hội. Những người sử dụng ma tuý bị xã hội kỳ thị lên án.
Ở cộng đồng, trong gia đình của họ, những người sử dụng ma tuý thường bị
xa lánh. Do vậy, người nghiện ma tuý thường ít được tiếp xúc và chia sẻ
những dịch vụ về chăm sóc sức khoẻ và HIV/AIDS cũng như các can thiệp dự
phòng lây nhiễm HIV [57], [59].
1.2.3. Tại thành phố Hà Nội
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước với 3
vùng sinh thái: đồng bằng, trung du, miền núi, tiếp giáp 5 tỉnh là những vùng
kinh tế đang trên đà phát triển và văn hoá truyền thống nổi tiếng: Thái Nguyên,
Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nam, Vĩnh Phúc. Với diện tích hơn 3300 km2, dân số
6533938 người, với 12 quận, 18 huyện và 1 thị xã gồm 584 xã/phường/thị trấn.
Với những đặc điểm địa lý thuận lợi đang thu hút một lượng lớn khách du lịch
và đầu tư nước người vào Hà Nội. Chính điều này làm cho di dân lao động tự
do từ các tỉnh đổ về Hà Nội ngày càng đông, nhu cầu về các mối quan hệ xã hội
ngày càng lớn kéo theo các tệ nạn ma túy, mại dâm ngày càng phát triển. Đó là
nguyên nhân làm cho hình thái lây nhiễm HIV diễn biến ngày càng phức tạp,
khó kiểm soát tập trung chủ yếu trong nhóm NCMT và QHTD [3].
19
Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên tại Hà Nội được phát hiện vào năm
1993, số nhiễm HIV, bệnh nhân AIDS và tử vong do AIDS đã không ngừng
gia tăng trên địa bàn thành phố trong các năm qua. Đến nay, Hà Nội vẫn là
một trong 5 tỉnh có số người nhiễm HIV cao nhất toàn quốc. Hình thái dịch
vẫn trong giai đoạn tập trung. Tỷ lệ nhiễm rất cao ở nhóm có hành vi nguy cơ
cao như NCMT, GMD. Tính đến 30/6/2015, số trường hợp nhiễm HIV hiện
còn sống là 18081 người, trong đó có 8347 bệnh nhân AIDS và 4498 người tử
vong do AIDS. Số người NCMT cũng liên tục gia tăng qua các năm, đa số ở
độ tuổi trẻ. Trên thực tế, hành vi sử dụng chung BKT là nguyên nhân làm tăng
lây nhiễm HIV trong nhóm NCMT và các giải pháp dự phòng lây nhiễm HIV
trong nhóm này còn nhiều hạn chế. Phân bố các trường hợp nhiễm HIV mới
phát hiện theo nhóm đối tượng: trong 6 tháng đầu năm 2015 các trường hợp
nhiễm HIV mới phát hiện cao nhất vẫn là nhóm người NCMT chiếm 61,9%,
tiếp đến là nhóm QHTD chiếm tỷ lệ là 24,4%. Su hướng thực hiện các hành vi
không an toàn là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ nhiễm HIV. Kết quả giám sát
IBBS cho thấy: tỷ lệ từng dùng chung BKT trong 6 tháng qua của nhóm
NCMT năm 2009 là 23,0% tăng hơn so với 2006 là 11,7%; 49,7% Nam giới
TCMT từng QHTD với GMD trong vòng 12 tháng qua, 40,0% không dùng
BCS thường xuyên khi QHTD với GMD trong 1 tháng qua. Theo kết quả dự
báo tình hình dịch HIV của các chuyên gia Việt Nam và quốc tế, nếu không
có những biện pháp can thiệp mạnh mẽ và tích cực thì trong thời gian tới Hà
Nội sẽ có thêm khoảng 2500 - 3000 trường hợp nhiễm HIV mới hàng năm
[33], [48], [49].
20
Bảng 1.1. Phân bố số người nhiễm HIV theo quận/huyện
Số mới phát hiện
nhiễm
Số tử vong
do HIV
/AIDS
Số BN
AIDS
Số người nhiễm
HIV hiện còn sống
đến 30/6/2015
Ba Đình
36
2
35
1849
Ba Vì
16
12
718
Bắc Từ Liêm
12
1
10
548
Cầu Giấy
16
1
14
670
Chương Mỹ
12
1
9
350
Đan Phượng
14
28
26
150
Đông Anh
9
8
732
Đống Đa
48
3
33
2126
Gia Lâm
6
1
5
890
Hà Đông
11
1
12
329
Hai Bà Trưng
39
2
35
1830
Hoài Đức
17
5
156
Hoàn Kiếm
36
28
1113
Hoàng Mai
26
22
1135
Long Biên
18
3
23
1210
Mê Linh
4
14
16
103
Mỹ Đức
8
2
5
354
Nam Từ Liêm
6
1
3
392
Phú Xuyên
3
4
131
Phúc Thọ
1
2
251
Quốc Oai
1
1
106
Sóc Sơn
12
9
244
Sơn Tây
3
3
302
Tây Hồ
26
19
673
Thạch Thất
5
3
99
Thanh Oai
5
1
120
Thanh Trì
16
14
240
Thanh Xuân
12
2
10
806
Thường Tín
2
2
3
148
Ứng Hoà
14
5
10
306
Tổng cộng
434
74
380
18081
Quận/huyện
3
1
1
* Nguồn: theo Báo cáo Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Hà Nội 2015 [49].
21
Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ nhiễm HIV của nhóm nghiện chích ma túy qua kết quả
giám sát trọng điểm và điều tra IBBS từ năm (2006 - 2015) tại Hà Nội
* Nguồn: theo Báo cáo Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Hà Nội 2015[49].
Theo số liệu giám sát trọng điểm trong nhóm NCMT và kết quả giám sát
IBBS về tỷ lệ nhiễm HIV của nhóm NCMT từ năm 2006 - 2015 của Hà Nội
đều ở mức cao so với tỷ lệ nhiễm HIV chung toàn quốc. Tỷ lệ nhiễm HIV
trong nhóm NCMT cao nhất vào năm 2010 là 32% và trong 10 năm với mọi
biện pháp can thiệp đã triển khai và tỷ lệ nhiễm HIV trung bình là 23,9% [48].
1.3. CHƯƠNG TRÌNH ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG
THUỐC PHIỆN BẰNG THUỐC METHADONE
1.3.1. Trên thế giới
Trên thế giới, Methadone là loại thuốc chính được sử dụng trong
phương pháp điều trị cai nghiện thay thế. Tổng số người nhận dịch vụ điều trị
cai nghiện các chất ma tuý dạng thuốc phiện thay thế bằng Methadone theo
ước tính vào khoảng hơn một nửa triệu người. Con số này tiếp tục gia tăng
nhanh chóng tại nhiều khu vực khác nhau. Methadone đang được sử dụng để
điều trị cai nghiện cho những người nghiện heroin tại Hoa Kỳ, Ac-hen-ti-na,
Australia, Ca-na-đa, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, I-ran, Tân Tây Lan, Ma-lay-
22
xi-a, Thái Lan, cũng như một số nước khác. Methadone là một loại thuốc có
thể dùng qua đường uống và hấp thụ tốt qua đường uống. Thuốc có tác dụng
nhanh chóng và có hiệu quả mạnh trong khoảng 2 - 4 giờ kể từ khi uống. Tác
dụng của thuốc kéo dài trong 24 giờ. Sau 3 ngày thuốc mới có hiệu quả tối đa.
Thuốc được hấp thụ qua gan và đào thải qua thận [64], [91], [92].
Vào giữa thập niên 1960, Methadone đã được phát hiện là có đặc tính
độc đáo như một loại thuốc điều trị nghiện heroin: không tăng liều theo thời
gian (mặc dù căng thẳng gây ra thay đổi sinh học thần kinh có thể yêu cầu
tăng liều hoặc giảm theo thời gian); không tạo cảm giác hưng phấn; làm giảm
căng thẳng và sự thèm muốn; tác dụng thuốc kéo dài (24 - 36 giờ); tính an
toàn tương đối cao; ít tác dụng phụ; và chi phí thấp [78], [123]. Tại New York
đầu năm 1965, nhiều nghiên đã đánh giá hiệu quả của methadone là một loại
thuốc điều trị nghiện ma túy. Do nhu cầu ngày càng tăng về điều trị và bằng
chứng cho thấy giá trị của methadone trong điều trị năm 1980 và đầu năm
1990, Chương trình Methadone được xem là một quốc sách và được triển khai
trong cả nước [114]. Nhằm đánh giá tầm quan trọng và hiệu quả của việc điều
trị thay thế bằng Methadone, Tổ chức Y tế thế giới đã bổ sung Methadone vào
danh mục các loại thuốc thiết yếu để điều trị nghiện vào năm 2005 [16].
Mục đích của phương pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện
bằng thuốc Methadone bao gồm:
- Giảm hoặc ngừng sử dụng ma tuý bất hợp pháp và làm giảm hoạt
động phạm tội.
- Giảm hoặc ngừng việc tiêm chích ma tuý và nguy cơ lây truyền các
bệnh truyền nhiễm qua đường máu.
- Giảm các nguy cơ do sử dụng quá liều
- Cải thiện tình trạng sức khoẻ và các vấn đề xã hội.
Methadone là một loại thuốc có tác dụng giống như heroin nên được
gọi là thuốc đồng vận toàn phần. Loại thuốc này có tác dụng đối nghịch so
23
với những loại thuốc như naltrexone vì naltrexone làm cho heroin không còn
có tác dụng nữa. Cả hai loại thuốc này có tác dụng trên cùng một vùng não
giống như đối với heroin. Hội chứng cai của Methadone nhẹ hơn rất nhiều so
với hội chứng cai heroin nhưng thời gian lại kéo dài hơn. Nhìn chung, các
chương trình điều trị cai nghiện thay thế bằng chất đồng vận như Methadone
và buprenorphine có tỷ lệ bệnh nhân theo chương trình cao hơn so với các
chương trình điều trị bằng phương pháp sử dụng thuốc đối kháng như
naltrexone. Đây là một yếu tố rất quan trọng vì bệnh nhân tham gia vào
chương trình càng lâu dài thì hiệu quả càng cao, khả năng thành công càng
lớn. Thông thường, các chương trình điều trị thay thế bằng thuốc đồng vận
Methadone cần đòi hỏi bệnh nhân phải theo chương trình lâu dài và ít nhất từ
1 năm trở lên [58], [70], [86].
Trên thế giới, có ba loại thuốc dùng để điều trị lệ thuộc heroin, đó là
methadone, buprenorphine và naloxone. Methadone và buprenorphine được
coi là những thuốc dùng để điều trị thay thế nghiện CDTP (OST). Thuốc có
tác dụng loại bỏ những triệu chứng cai/cắt cơn, giảm đáng kể và loại trừ sự
thèm muốn sử dụng heroin và ngăn chặn tác dụng gây "phê" khi dùng thêm
heroin trên bệnh nhân đang được điều trị. Tuy nhiên, để có được những tác
dụng kể trên, điều quan trọng nhất là phải xác định được liều đủ dùng cho
bệnh nhân. Liều này có thể cao hơn so với liều chỉ có tác dụng loại trừ triệu
chứng cai. Thời gian điều trị càng dài thì hiệu quả của OST càng rõ rệt. Điều
trị bằng Methdone liên tục giúp làm giảm đáng kể tỷ lệ sử dụng heroin (trong
một số trường hợp bệnh nhân hoàn toàn ngừng sử dụng heroin); giúp bảo vệ
bệnh nhân khỏi nguy cơ lây nhiễm HIV qua việc giảm hành vi nguy cơ lây
nhiễm và giúp giảm được nguy cơ tử vong cho bệnh nhân sử dụng heroin quá
liều cũng như làm giảm hành vi phạm tội. Thái Lan đưa chương trình điều trị
nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone vào hoạt động từ năm 1979. Hiện có
khoảng 4000 - 10000 người đang được điều trị và dự kiến Buprenorphine sẽ
24
được đưa vào sử dụng trong năm tới. Thái Lan là một nước đã không quan
tâm mở rộng chương trình Methadone và do đó, tỉ lệ nhiễm HIV vẫn tiếp tục
tăng cao trong nhóm người NCMT. Theo ước tính, hiện tại Thái Lan có
khoảng 57000 người NCMT là 50% trong số đó nhiễm HIV [70], [78], [120].
Hồng Kông triển khai chương trình điều trị nghiện CDTP bằng thuốc
Methadone từ năm 1972 trong nỗ lực đối phó với tình trạng tội phạm có xu
hướng gia tăng. Cho đến nay đã có 20 phòng khám được đưa vào hoạt động
với hơn 9000 người bệnh đang được điều trị. Buprenophine cũng được kê đơn
tại một số phòng khám tư nhân. Việc áp dụng liệu pháp điều trị bằng
Methadone đã có những ảnh hưởng đáng kể giúp làm giảm mức độ hành vi
phạm tội trên quốc đảo này và từ đó ngăn ngừa đại dịch HIV [87].
Điều trị thay thế CDTP bằng Methadone hoặc Buprenorphine có hiệu
quả cao so với không điều trị thông qua việc giảm sử dụng heroin, giảm nguy
cơ bị giam giữ, tăng cường việc tuân thủ điều trị và tăng cơ hội việc làm. Biện
pháp điều trị này cũng chứng minh được hiệu quả vượt trội so với điều trị cắt
cơn hoặc tư vấn điều trị lạm dụng ma tuý về khía cạnh giảm sử dụng heroin
cũng như giảm hành vi phạm tội và hành vi tình dục không an toàn. Cuối
cùng, OST đã được chứng minh là có hiệu quả hơn về mặt tuân thủ điều trị so
với cộng đồng trị liệu, điều trị bằng naloxone và điều trị ngoại trú [70].
Nhìn chung, nghiện ma tuý đồng nghĩa với việc cơ thể dần dần thích
nghi với sử dụng ma tuý trường diễn, nên nếu một người đã nghiện mà muốn
cai thì cơ thể sẽ vật vã vì thiếu thuốc, hội chứng xảy ra khi cơ thể không tiếp
tục được tiếp nhận ma tuý và sự thích nghi với việc sử dụng ma tuý trường
diễn khi này lại bị đảo ngược. Bản chất và độ nghiêm trọng của cơn vật vã
thuốc phụ thuộc vào lịch sử sử dụng ma tuý của từng người cũng như dược lý
tính của loại ma tuý mà họ nghiện. Trong giai đoạn cắt cơn cần phải cung cấp
các dịch vụ can thiệp nhằm bảo đảm giúp người nghiện có thể vượt qua giai
đoạn khó khăn này một cách an toàn và ít đau đớn. Điều trị cai nghiện thay
25
thế bằng Methadone là một phương pháp điều trị khác so với điều trị cai
nghiện cắt cơn ở chỗ tập trung vào cả dịch vụ hỗ trợ các vấn đề về tâm lý chứ
không chỉ tập trung vào tình trạng thể chất và tập trung vào những vấn đề
xung quanh việc sử dụng ma túy. Điều trị cai nghiện thay thế bằng
Methadone giữ được bệnh nhân theo chương trình trong thời gian dài và giúp
họ có thêm điều kiện để giải quyết các vấn đề liên quan đến sức khỏe, tâm lý,
gia đình, nơi ăn chốn ở, công ăn việc làm, các vấn đề tài chính và pháp luật
[58], [102], [116].
* Điều trị bằng thuốc đối kháng
Naloxone là một thuốc đối kháng cạnh tranh với các chất dạng thuốc
phiện tại các Receptor của nó, làm mất tác dụng của các chất dạng thuốc
phiện. Naloxone có hiệu quả đối kháng với các chất dạng thuốc phiện trong
vòng 24 giờ. Điều trị naloxone làm giảm việc sử dụng heroin và giảm hành vi
tội phạm. Kết quả nghiên cứu trên Thế giới cho thấy gia đình của những
người nghiện ma túy rất thích được điều trị bằng naloxone bởi vì kết quả
minh chứng rất rõ ràng rằng nếu người nghiện uống naloxone thì sẽ không sử
dụng heroin. Đồng thời khi các thành viên gia đình trực tiếp theo dõi việc sử
dụng thuốc naloxone, làm cho họ quan tâm hơn đến việc điều trị cai nghiện
ma tuý của con em mình. Tại Việt Nam, cũng đã thực hiện nghiên cứu thử
nghiệm điều trị chống tái nghiện CDTP bằng naloxone tại Viện Sức khoẻ
Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện tâm thần Trung ương nghiên
cứu về an toàn và độc tính, tác dụng hỗ trợ điều trị chống tái nghiện chất dạng
thuốc phiện của naloxone. Hiện nay, Chương trình điều trị bằng thuốc đối
kháng naloxone được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và thu được những
kết quả nhất định. Phương pháp này có ưu điểm là ngăn cản các tác dụng của
CDTP là một phương pháp rút ngắn thời gian thải độc làm cho bệnh nhân
chán chất ma tuý. Tuy nhiên, phương pháp này có một số nhược điểm là: làm
người bệnh lên cơn vật vã, khó chịu, táo bón, độc với gan và thận, có thể tăng