Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đảng lãnh đạo hoạt động ngoại giao văn hóa của việt nam với liên minh châu âu (EU) từ năm 2000 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.07 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------------------

NGÔ MINH THẢO

ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HÓA
CỦA VIỆT NAM VỚI LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------------------

NGÔ MINH THẢO

ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HÓA
CỦA VIỆT NAM VỚI LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2014

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Văn Thịnh


Hà Nội, 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Lê Văn Thịnh.
Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách
quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng

năm 201

Tác giả

Ngô Minh Thảo


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới
thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS Lê Văn Thịnh – trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Thầy đã tận tình chỉ bảo, định
hướng cho tôi để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ từ các thầy cô trong trường Đại học khoa
học Xã hội và Nhân văn, các thầy cô trong khoa Lịch sử, trong bộ môn Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam - những người thầy đã dạy dỗ, chỉ bảo tôi trong
suốt quá trình học tập.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn
bè đã luôn động viên, khích lệ để tôi hoàn thành khóa học.
Mặc dù đã cố gắng và nỗ lực song luận văn không tránh khỏi những sai
sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến cuả quý thầy cô và các bạn. Xin chân

thành cám ơn.
Tác giả luận văn
Ngô Minh Thảo



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa vẫn luôn được coi là một trong những lĩnh vực quan trọng của xã
hội bên cạnh kinh tế, chính trị. Đặc biệt, trong thời đại hiện nay, khi hội nhập,
toàn cầu hóa diễn ra sôi nổi, văn hóa ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn ở
mỗi quốc gia, dần trở thành động lực và mục tiêu của phát triển kinh tế, chính
trị, xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm khẳng định vai trò của văn hóa
“vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội”.
Ngoại giao văn hóa đã được một số nước tiến hành từ lâu đời, coi đó là
một dạng “sức mạnh mềm”, “quyền lực mềm” (soft power), có vai trò quan
trọng trong việc nâng cao vị thế quốc tế và sức mạnh ngoại giao của nước
mình trên trường quốc tế. Từ cuối thế kỷ XX đến nay, cùng với sự biến đổi
của tình hình thế giới, ngày càng có nhiều quốc gia quan tâm và công nhận vị
trí của ngoại giao văn hóa trong nền ngoại giao hiện đại.
Ở Việt Nam, khái niệm ngoại giao văn hóa xuất hiện muộn nhưng sớm
được Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng. Ngoại giao văn hóa đã được Bộ
Ngoại giao xác định là một trong ba trụ cột của nền ngoại giao Việt Nam bên
cạnh ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế (2006). Năm 2009 được xác
định là Năm ngoại giao văn hóa. Năm 2011, Thủ tướng chính phủ ký quyết
định phê duyệt Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020 đề ra các biện
pháp cụ thể triển khai hoạt động ngoại giao văn hóa. Sự coi trọng đó cho thấy
sự đổi mới về tư duy ngoại giao, đồng thời thể hiện quan điểm của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về phát triển xã hội: gắn kết chặt chẽ và đồng bộ chính trị

với kinh tế và văn hóa trong từng bước của quá trình phát triển đất nước.
Ngoại giao văn hóa đã dần xác lập vị trí và vai trò to lớn trong nền ngoại giao
Việt Nam.

1


Trong bối cảnh thế giới phẳng hiện nay, khi thế giới ngày càng trở
thành một thực thể gắn kết chặt chẽ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, sự phụ
thuộc giữa các quốc gia càng tăng lên; Việt Nam đã chủ trương thực hiện
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối
ngoại. Việt Nam tuyên bố sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Liên minh châu Âu (EU) không phải là một đối tác ngoại giao truyền
thống của Việt Nam. Nếu như trước đây trong thế trận đối đầu giữa Đông và
Tây dẫn tới sự loại trừ lẫn nhau; ngày nay thế giới đang đi vào đối thoại cùng
tồn tại, phát triển hoà bình, bền vững, biên giới Đông – Tây ngày càng sát lại.
EU là một tổ chức khu vực có sự liên kết chặt chẽ, tiềm năng lớn về
kinh tế. Tuy quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với nhiều nước thành viên EU
đã được tiến hành từ lâu, đến năm 1990, hai bên mới chính thức xác lập quan
hệ. Mối quan hệ Việt Nam – EU đã và đang phát triển nhanh chóng. Đến nay,
các nước EU được coi là đối tác quan trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực:
chính trị, kinh tế.
Vì nhiều lý do, từ khi bắt đầu xác lập quan hệ ngoại giao, văn hoá
không phải là lĩnh vực được ưu tiên trong quan hệ Việt Nam – EU. Tuy nhiên
trong thời gian gần đây hai bên bắt đầu có những hoạt động giao lưu, trao đổi
văn hóa với mật độ ngày càng dày đặc. Năm 2005, Việt Nam đã thông qua đề
án tổng thể Quan hệ Việt Nam - Liên minh châu Âu, tiếp đó là Chương trình
hành động đến 2010 và định hướng tới 2015 với mục tiêu đưa quan hệ Việt
Nam - EU trở thành "Quan hệ đối tác toàn diện và bền vững, trên tinh thần ổn

định lâu dài và tin cậy lẫn nhau, vì hòa bình, hợp tác và phát triển phồn vinh
trong các thập kỷ tới của thế kỷ 21". Trong bối cảnh hai bên đang tích cực
tiến hành phát triển mối quan hệ đa dạng, toàn diện, ngoại giao văn hóa sẽ
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam
với EU.

2


Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo hoạt động ngoại
giao văn hóa của Việt Nam với Liên minh châu Âu (EU) từ năm 2000 đến
năm 2014” làm đề tài luận văn chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khái niệm ngoại giao văn hóa đã sớm xuất hiện trên thế giới, hoạt
động ngoại giao văn hóa đã được tiến hành ở nhiều nước từ lâu. Tuy nhiên,
gần đây khái niệm này mới được nhắc đến nhiều ở Việt Nam, những công
trình nghiên cứu về nó còn ít. Trong quá trình khảo sát tư liệu, tác giả nhận
thấy các công trình nghiên cứu này có thể chia thành ba nhóm như sau:
Nhóm 1: Những công trình nghiên cứu về văn hóa, ngoại giao văn hóa,
giao lưu văn hóa nói chung.
Trong cuốn “Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển của văn
hóa và con người Việt Nam” của GS.TS Dương Phú Hiệp đã tập hợp các bài
phân tích, luận chứng của các nhà nghiên cứu, học giả về các vấn đề đối ngoại
và ngoại giao văn hóa, văn hóa đối ngoại như GS.TS Hồ Sĩ Quý, GS.TS
Dương Phú Hiệp, GS.TS Ngô Đức Thịnh, TS. Hoàng Khắc Nam… Xoay
quanh chủ đề hội nhập văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa, các tác giả đã
đưa ra những lý thuyết bàn về phát triển văn hóa và con người trong bối cảnh
toàn cầu hóa.
Cuốn “Một số vấn đề về quản lý Nhà nước kinh tế văn hóa giáo dục

trên thế giới và Việt Nam” của tác giả Lê Thanh Bình do nhà xuất bản Chính
trị quốc gia phát hành vào năm 2010 đã đưa ra những vấn đề khái niệm về
ngoại giao văn hóa và khẳng định tính tất yếu của giao lưu văn hóa quốc tế
trong thời đại ngày nay.
Bài viết của tác giả Nguyễn Hồng Sơn “Giao lưu văn hóa và sự xích lại
gần nhau giữa các nền văn hóa Đông – Tây trong thời đại ngày nay” trên
Tạp chí Nghiên cứu lý luận năm 2008 đã phân tích tầm quan trọng của việc
giao lưu văn hóa đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện đại

3


Trong cuốn “Ngoại giao và Công tác Ngoại giao” của Vũ Dương
Huân do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2009 đã trình bày
những nội dung có liên quan đến ngoại giao và công tác ngoại giao như: các
khái niệm ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao, thư tín ngoại giao, tiếp xúc
ngoại giao, ngoại giao kinh tế, đàm phán ngoại giao, văn kiện ngoại giao, lễ
tân ngoại giao, trong đó dành một chương nói về ngoại giao văn hóa.
Tác giả Vũ Dương Huân trong bài viết “Vài suy nghĩ về ngoại giao văn
hóa” trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 4 năm 2007 đề cập đến nội hàm khái
niệm ngoại giao văn hóa trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Trong “Ngoại giao văn hóa: bắt đầu từ khái niệm” của tác giả Hoàng
Vinh Thành trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1 năm 2009 có bàn về khái
niệm ngoại giao văn hóa và các khái niệm liên quan khác như: văn hóa ngoại
giao, văn hóa đối ngoại.
Trong bài: “Ngoại giao Việt Nam hiện đại trong thời kỳ hội nhập” của
Phạm Gia Khiêm trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1 năm 2009 đã phân
tích nội hàm của khái niệm ngoại giao văn hóa và vị trí của ngoại giao văn
hóa trong nền ngoại giao hiện đại Việt Nam.
Tác giả Phạm Thái Việt trong bài “Quan hệ công chúng và ngoại giao

văn hóa” trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 3 năm 2009 đã bàn về mối quan
hệ giữa quan hệ công chúng và ngoại giao văn hóa.
Trong bài viết “Ngoại giao văn hóa và truyền thống văn hóa đối ngoại
trong bối cảnh hội nhập quốc tế” trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1 năm
2009, tác giả Đặng Thị Thu Hương đã nghiên cứu về ngoại giao văn hóa và
mối quan hệ của nó với hoạt động thông tin đối ngoại.
Tác giả Lê Thanh Bình trong bài “Xu hướng văn hóa – truyền thông
thế giới tác động đên báo chí, ngoại giao văn hóa quốc tế đương đại và
khuyến nghị cho Việt Nam” trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 2 năm 2009

4


đã trình bày về ngoại giao văn hóa như một trong những xu hướng văn hóa –
truyền thông thế giới và đưa ra những khuyến nghị cho ngoại giao văn hóa
Việt Nam.
Bài viết “Yếu tố văn hóa trong quan hệ quốc tế hiện đại của Dương
Quốc Thanh” trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1 năm 2009 đã phân tích
một số trường hợp yếu tố văn hóa đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc
tế, từ đó đề xuất một số gợi ý cho ngoại giao văn hóa Việt Nam trong bối
cảnh hiện đại.
Nhìn chung trong nhóm một, mỗi công trình nghiên cứu đều đề cập đến
một số khía cạnh khác nhau của văn hóa, giao lưu văn hóa, ngoại giao văn
hóa như: khái niệm, nội hàm của ngoại giao văn hóa và các khái niệm liên
quan, quy luật phát triển của văn hóa, tính tất yếu của ngoại giao văn hóa
trong thời điểm hiện tại.
Nhóm 2: Các công trình nghiên cứu về đường lối văn hóa, đường lối
ngoại giao văn hóa của Đảng nói chung
Trong cuốn “Giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của
Đảng”, do Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn năm 2000 đã

trình bày lý luận về văn hóa, khẳng định giao lưu văn hóa là một quy luật phát
triển của văn hóa.
Trong bài viết “Định hướng của Đảng về Ngoại giao Văn hoá trong tình
hình mới” trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia: Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc
Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình, hội nhập và phát triển bền
vững tác giả Nguyễn Bắc Sơn đã trình bày về định hướng văn hoá, chính sách
giao lưu văn hoá của Đảng đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng,
một số nội dung cần được quan tâm trong thực hiện ngoại giao văn hoá.
Trong bài “Quan điểm về Ngoại giao Văn hóa” trong Kỷ yếu Hội thảo
Quốc gia: Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế,

5


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Nguyễn Hoàng Anh (2012), Vai trò của Ngoại giao Văn hóa đối với sự
phát triển của du lịch Việt Nam, luận văn thạc sĩ ngành du lịch, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

2.

Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2000), Một số văn kiện của Đảng
về công tác tư tưởng, văn hóa, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3.

Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Vụ Tuyên truyền và Hợp tác quốc

tế (2005), Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

4.

Bộ Ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5.

Bộ Ngoại giao (2008), Chỉ thị Về việc tăng cường công tác Ngoại giao
Văn hóa tạo động lực mới cho Ngoại giao Việt Nam trong tiến trình hội
nhập quốc tế.

6.

Bộ Ngoại giao (2011), Chiến lược Ngoại giao Văn hóa đến năm 2020.

7.

Bộ Ngoại giao Việt Nam và Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam
(2012), Hiệp định khung về đối tác và hợp tác toàn diện giữa một bên là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một bên là Liên minh châu
Âu và các quốc gia thành viên.

8.

Bộ Thông tin và Truyền thông (2014), Báo cáo đánh giá tác động dự
thảo nghị định về thông tin đối ngoại.


9.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch – Bộ Ngoại giao (2008), Thỏa thuận
hợp tác giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ ngoại giao trong
lĩnh vực văn hóa đối ngoại (giai đoạn 2008-2015).

10. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Đề án Xây dựng và rà soát các
chế độ chính sách đối với các hoạt động văn học, nghệ thuật và văn nghệ

6


sỹ. Chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật.
Chính sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động văn học nghệ
thuật.
11. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2012), Chiến lược phát triển du lịch
Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030.
12. Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch (2012), Báo cáo tổng hợp Đề án thu hút
khách du lịch Pháp đến Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015.
13. Bộ Văn hóa – Thông tin (1998), Đề án về việc thành lập cục Hợp tác
quốc tế (dự thảo 3).
14. Bộ Văn hóa – Thông tin (2008), Biên niên lịch sử Bộ Văn hóa – Thông
tin 1945 – 2007, tập 2, Hà Nội.
15. Đặng Việt Bích (1997), Vài nét về quan hệ văn hóa Pháp – Việt, Tạp chí
Văn hóa Nghệ thuật, (7), tr. 29-32.
16. Đặng Việt Bích (1999), Về mối quan hệ về văn hóa Đức và Việt Nam,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (8), tr. 94-97.
17. Nguyễn Đức Bình (2005), Một số vấn đề về công tác lý luận tư tưởng và
văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Lê Thanh Bình (2009), Đào tạo cán bộ truyền thông quốc tế và hoạt

động Ngoại giao Văn hóa phù hợp xu thế hội nhập vào hoàn cảnh nước
ta, Tạp chí Thông tin đối ngoại, (68), tr. 21-26.
19. Lê Thanh Bình (2009), Xu hướng văn hóa – truyền thống thế giới tác
động đến báo chí, ngoại giao văn hóa quốc tế đương đại và khuyến nghị
cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 2 (77), tr. 185-196.
20. Nguyễn Phú Bình (2006), Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa công tác vận
động người Việt Nam ở nước ngoài, Tạp chí Thông tin đối ngoại, (23),
tr. 49-50.

7


21. Lê Thanh Bình (chủ biên), Đoàn Văn Dũng (2011), Giáo trình quan hệ
công chúng chính phủ trong văn hóa đối ngoại, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
22. Trần Văn Bính (2002), Văn hóa và chiến lược xây dựng con người trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta, Tạp chí Lịch sử Đảng,
(8), tr.16-22.
23. Trần Văn Bính (2008), Văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Tạp chí
Thông tin đối ngoại, (46), tr. 30-32.
24. Trịnh Đình Bảy (2001), Vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội, Tạp
chí Khoa học – xã hội, 5 (51), tr. 16.
25. Nguyễn Văn Bốn, Đa dạng trong văn hóa Việt Nam từ góc nhìn du lịch,
Tạp chí Du lịch Việt Nam, (18), tr. 46-48.
26. Nguyễn Cảnh Chắt (2003), Xu thế phát triển của EU trong bối cảnh mới,
Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (1), tr. 108-113.
27. Nguyễn Mạnh Cầm (2008), Một vài suy nghĩ về khái niệm và nội hàm
của Ngoại giao Văn hóa, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam
trên trường quốc tế, tr. 15-18.
28. Phạm Sanh Châu (2009), Phối hợp, triển khai các đề án hoạt động văn

hóa đối ngoại nhằm thực hiện nhiệm vụ Ngoại giao Văn hóa năm 2009,
Tạp chí Thông tin đối ngoại, (61), tr.16-18.
29. Bạch Ngọc Chiến (2008), Vai trò của truyền thông trong Ngoại giao Văn
hóa, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế,
tr. 220-226.
30. Chu Văn Chúc (2004), Quá trình đổi mới tư duy đối ngoại và hình thành
đường lối đối ngoại đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 3 (58), tr. 5556.

8


31. Cục lãnh sự Bộ Ngoại giao Việt Nam (2011), Báo cáo tổng quan về tình
hình di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài.
32. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Quảng bá hình ảnh Việt Nam tới bạn bè
quốc tế thông qua hoạt động du lịch, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc
Việt Nam trên trường quốc tế, tr. 124-128.
33. Nguyễn Văn Dân (2008), Dân tộc và quốc tế trong giao lưu văn hóa, Báo
Văn nghệ, (27), tr.16-17.
34. Đỗ Quý Doãn (2007), Nhìn lại hợp tác giao lưu văn hóa quốc tế của Việt
Nam trong năm 2006, Tạp chí Thông tin đối ngoại, (34), tr. 15-16 .
35. Đỗ Quý Doãn (2009), Thông tin truyền thông và việc đẩy mạnh Ngoại
giao Văn hóa, Tạp chí Cộng sản, 6 (174), tr. 16-20.
36. Lê Đăng Doanh (2000), Tăng cường hợp tác toàn diện giữa Liên minh
châu Âu và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 6 (37), tr. 7-11.
37. Đinh Xuân Dũng (2007), Giữ gìn và phát huy và phát triển bản sắc văn
hóa Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa, Tạp chí Thông tin đối ngoại,
(42), tr. 8-13.
38. Lê Thị Duyên (2013), Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
Ngoại giao Văn hoá từ năm 1986 đến năm 2011, Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn, Hà Nội.
39. Dương Danh Dy (2008), Một vài nhận thức ban đầu về Ngoại giao văn
hóa của Trung Quốc, Nxb Thế giới, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần VII, Nxb Sự Thật,Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần VIII, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

9


42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại hội đại biểu toàn
quốc lần IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Chỉ thị số 18 – CT/TW của Ban Bí thư
về tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về
công tác văn học, nghệ thuật trong tình hình mới.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương Khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương Khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
52. Bùi Hải Đăng (2007), Một số quan điểm về bản sắc châu Âu, Tạp chí
Nghiên cứu châu Âu, (6), tr. 56-63.
53. Bùi Hải Đăng (2010), Cơ sở lịch sử và văn hóa của bản sắc châu Âu,
Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (5), tr.16-26.
54. Bùi Hải Đăng (2012), Bàn về đường biên giới phía Đông của EU từ góc
nhìn văn hóa chính trị, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (12), tr. 20-25.

10


55. Bùi Hải Đăng (2012), EU và bản sắc châu Âu, Tạp chí Nghiên cứu châu
Âu, (5), tr. 16-26.
56. Ngô Hồng Điệp (2006), Điểm tương đồng và dị biệt giữa ASEAN và
EU: Những thách thức trong bối cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí Nghiên cứu
châu Âu, (5), tr. 19-24.
57. Thạch Hà (2009), Ngoại giao Văn hóa: Trung Quốc quảng bá quốc gia
như thế nào?, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 2 (77), tr.173-183.
58. Trần Thị Thu Hà (2012), Ngoại giao Văn hóa và vai trò của nó đối với
chính trị của Việt Nam từ 1986 đến nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN
Ngoại ngữ, (28), tr. 185-193.
59. Trần Thị Thúy Hà (2009), Hoạt động ngoại giao văn hóa của Đảng và
Nhà nước Việt Nam 1986-2009, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Khoa
học xã hội & Nhân văn, Hà Nội.
60. Võ Văn Hải (2011), Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, Đẩy mạnh
ngoại giao văn hóa trong hội nhập quốc tế, Báo Quân đội nhân dân, (6).
61. Nguyễn Vũ Hảo (2006), Giao tiếp liên văn hóa trong bối cảnh toàn cầu
hóa: một số vấn đề triết học, Triết học trong kỷ nguyên toàn cầu, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.

62. Trần Phương Hoa (2003), Chính sách văn hóa EU: những bước đi khó
khăn, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (1), tr. 113-117.
63. Trần Phương Hoa (2005), Tính thống nhất của Liên minh châu Âu nhìn
từ góc độ văn hóa, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (2), tr. 26-30.
64. Trần Phương Hoa (2008), Mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế
- Bối cảnh châu Âu, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (6), tr. 33-45.
65. Trần Phương Hoa (2005), Quan hệ văn hóa Việt Nam – Liên minh châu
Âu (EU), Tạp chí Văn hóa dân gian, (5), tr. 17-21.

11


66. Trần Phương Hoa (2003), Cộng hòa Séc trên con đường gia nhập EU,
Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (1), tr. 108-113.
67. Việt Hoàng (2005), Cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác thông tin,
tuyên truyền đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Tạp chí Thông tin
đối ngoại, (19), tr. 10-14.
68. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), “Giáo trình lý luận văn
hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam”,Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
69. Hội nhà báo Việt Nam, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
(2013), Văn hóa truyền thông trong thời kỳ hội nhập, Nxb Thông tin và
truyền thông, Hà Nội.
70. Vũ Dương Huân (2009), Phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh, Tạp chí
Nghiên cứu Quốc tế, 1 (76), tr. 33-43.
71. Vũ Dương Huân (2006), Nét mới của Ngoại giao thế kỷ 21 và những vấn
đề đặt ra cho Ngoại giao Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 4 (67),
tr. 21-32.
72. Vũ Dương Huân (2009), Vài suy nghĩ về trường phái Việt Nam hiện đại,
Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 3(78), tr.161-173.

73. Vũ Dương Huân (2007), Vài suy nghĩ về Ngoại giao văn hóa, Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế, 4 (71), tr.35.
74. Vũ Dương Huân(2006), Phong cách dân tộc Mỹ và Nga trong đàm phán
quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 1, tr.85-95.
75. Vũ Dương Huân (2009), Ngoại giao và công tác ngoại giao, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
76. Vũ Dương Huân (2008), Nhân tố văn hóa trong ngoại giao Việt Nam,
Ngoại giao văn hóa “Vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế”, tr.
129-154.

12


77. Nguyễn Xuân Hùng (2008), Tổ chức các sự kiện văn hóa Việt Nam ở
nước ngoài, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường
quốc tế, tr. 144-149.
78. Samuel Huntington (2005), Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao
động, Hà Nội.
79. Đỗ Huy (2003), Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943 – Những giá trị tư
tưởng, văn hóa, Viện văn hóa thông tin, Hà Nội.
80. Đỗ Huy (2013), Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng đổi mới,
hội nhập và phát triển, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
81. Nguyễn Thị Hương( 2009), Dự báo về xu thế và quan điểm phát triển
văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Tạp chí Lý luận Chính trị,(5), tr.
69-73.
82. Đặng Thị Thu Hương (2009), Ngoại giao văn hóa và truyền thống văn
hóa đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu Quốc
tế, 1 (76), tr. 79-90.
83. Trịnh Thuý Hương (2012), Ngoại giao văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, Tạp chí Lịch sử

Đảng, (4), tr. 57-60 & 77.
84. Trịnh Thuý Hương (2012), Một số nội dung cơ bản trong đường lối đối
ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới, Tạp chí Giáo dục lý luận, (5), tr. 42-43
& 51.
85. Trịnh Thúy Hương (2012), Trao đổi văn hoá với nước ngoài giai đoạn
1954 - 1975, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, (336), tr. 96-99.
86. Trần Việt Hưng (2008), Báo Thanh Niên và công tác Ngoại giao Văn
hóa, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế,
tr.168-171.

13


87. Nguyễn Khánh (2008), Ngoại giao văn hóa và văn hóa ngoại giao, Ngoại
giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, tr. 24-27.
88. Lương Văn Kế (2002), Nhân tố văn hóa trong tiến trình khu vực hóa và
toàn cầu hóa – trường hợp Liên minh châu Âu, Tạp chí Nghiên cứu châu
Âu, (6), tr. 3-11.
89. Lương Văn Kế (2003), Khái niệm văn hóa và những đặc điểm châu Âu
truyền thống trong văn hóa Đức, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (6), tr.
101-110.
90. Lương Văn Kế (2010), Văn hóa châu Âu – Lịch sử, thành tựu, hệ giá trị,
Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
91. Lương Văn Kế (2012), Quá trình mở rộng Liên minh châu Âu nhìn từ
góc độ địa chính trị, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (8), tr. 3-18
92. Phạm Gia Khiêm (2010), Dấu ấn Ngoại giao Việt Nam năm 2009, Tạp
chí Thông tin đối ngoại, (1), tr. 3
93. Phạm Gia Khiêm (2009), Đẩy mạnh công tác Ngoại giao văn hóa nhằm
góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng, Tạp chí
Thông tin đối ngoại, 2 (62), tr. 19-20.

94. Phạm Gia Khiêm (2009), Ngoại giao Việt Nam hiện đại trong thời kỳ hội
nhập, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 1 (76), tr. 7-16.
95. Phạm Gia Khiêm (2007), Những nhiệm vụ lớn của hoạt động đối ngoại
Việt Nam năm 2007, Tạp chí Thông tin đối ngoại, 34, tr. 4-7.
96. Phạm Gia Khiêm (2007), Vươn lên tầm ngoại giao khu vực và quốc tế,
Tuần báo Thế giới và Việt Nam, tr. 15 – 17.
97. Phạm Gia Khiêm (2008), Ngoại giao Việt Nam 2007 – 1 năm nhìn lại,
Tạp chí Thông tin đối ngoại, (46), tr. 3-5.
98. Phạm Gia Khiêm (2008), Ngoại giao Việt Nam năm 2008: bước tiến mới
và phương hướng năm 2009, Tạp chí Thông tin đối ngoại, (37), tr. 3-6.

14


99. Phạm Gia Khiêm (2009), Tiếp tục triển khai thành công đường lối đối
ngoại của Đại hội Đảng lần thứ 10, Tạp chí Lịch sử Đảng, 1 (28), tr.5.
100. Phạm Gia Khiêm (2008), Chỉ thị Về việc tăng cường công tác Ngoại
giao văn hóa tạo động lực mới cho Ngoại giao Việt Nam trong tiến trình
hội nhập quốc tế.
101. Vũ Khiêu (2008), Ngoại giao Văn hóa dưới góc nhìn của văn hóa, Ngoại
giao Văn hóa “Vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế”, tr. 283290.
102. Khoa Văn hóa Xã hội chủ nghĩa, Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2000),
Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối Văn hóa của Đảng, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
103. Vũ Khoan (2006), Đại hội X của Đảng và đường lối đối ngoại, Báo
Nhân Dân ngày 24/8/2006.
104. Vũ Khoan (2008), Quan điểm về Ngoại giao Văn hóa, Ngoại giao văn
hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, Nxb Thế giới, Hà Nội.
105. Vũ Khoan (1993), An ninh, phát triển và ảnh hưởng trong hoạt động đối
ngoại, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 3, tr. 56.

106. Vũ Khoan (2005), Đổi mới về đối ngoại, Tạp chí Cộng sản, 16, tr. 46.
107. Vũ Khoan (2006), Đại hội X của Đảng và đường lối đối ngoại , Báo
Nhân Dân, (24), tr. 3.
108. Hồ Trọng Lai (2008), Doanh nghiệp với việc xã hội hóa các hoạt động
Ngoại giao Văn hóa, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên
trường quốc tế, tr.163-167.
109. Phạm Xuân Lam (2013), Sự đa dạng văn hóa đối thoại giữa các nền văn
hóa – Một góc nhìn từ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
110. Phạm Khắc Lãm (2008), Một số ý kiến về Ngoại giao Văn hóa, Ngoại
giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, tr. 51-54.

15


111. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
112. Phan Doãn Nam (2006), Tình hình thế giới và hoạt động đối ngoại của
Việt Nam năm 2006, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 4 (67), tr. 6-20.
113. Phạm Xuân Nam (1998), Văn hóa và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
114. Phạm Xuân Nam (2007), Quan niệm về đối thoại giữa các nền văn hóa,
Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.3-11.
115. Phạm Thị Anh Nga (2006), Định hướng trong giao tiếp và nghiên cứu
liên văn hóa, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (11), tr. 12.
116. Đào Huy Ngọc (1995), Liên minh châu Âu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
117. Hữu Ngọc (2008), Sách báo đối ngoại và Ngoại giao văn hóa, Ngoại
giao văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, tr. 189-205.
118. Vũ Thanh Nguyên (2005), Những trở ngại trên con đường tiến tới một
liên bang châu Âu thống nhất – So sánh với lịch sử hình thành nước Mỹ,

Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (3), tr 28-34.
119. Văn Sinh Nguyên (2004), Văn minh phương Đông và phương Tây, Nxb
Lao động – Xã hội, Hồ Chí Minh.
120. Nguyễn Duy Niên (2008), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
121. Nguyễn Dy Niên (2008), Làm gì cho Ngoại giao Văn hóa, Ngoại giao
Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, Nxb Thế giới, Hà
Nội.
122. Lương Ninh (2007), Phương Đông – Phương Tây và Đông Phương học,
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (3), tr. 3-8.

16


123. Vũ Dương Ninh (2003), Sự khác biệt văn hóa – yếu tố thúc đẩy hay cản
trở quan hệ ASEAN – EU, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (1), tr. 27-30.
124. Phạm Bình Minh (2013), Ngoại giao Việt Nam năm 2012: Vượt qua
thách thức, vững bước hội nhập quốc tế, Báo Nhân Dân, (2), tr. 2-3.
125. Phạm Bình Minh (2011), Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến
2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Phạm Quang Minh (2011), Văn hóa, chuẩn mực văn hóa và giao tiếp liên
văn hóa: Trường hợp CHLB Đức, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (11),
tr.50-55.
127. Lê Hoàng Oanh (2008), Quảng bá thành tựu đổi mới của Việt Nam
thông qua công tác xúc tiến thương mại, Ngoại giao Văn hóa vì một bản
sắc Việt Nam trên trường quốc tế, tr. 132-136.
128. Phạm Cao Phong, Ngoại giao Văn hóa: Tạo động lực mới trong tiến
trình Hội nhập quốc tế, Phạm Cao Phong, bài trả lời phỏng vấn với
phóng viên Báo TG&VN, Trang điện tử Thế giới &Việt Nam, đăng ngày
31/8/2012

129. ( />3E6B/)
130. Cao Xuân Phổ (2008), Đạo phật trong Ngoại giao Văn hóa, Ngoại giao
Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, tr. 48-50.
131. Phùng Phu (2008), Huế, thành phố festival trong chiên dịch quảng bá
hình ảnh đất nước, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên
trường quốc tế, tr. 128-131.
132. Chu Công Phùng (2008), Toàn cầu hóa văn hóa - nhìn ra thế giới và nhìn
từ Việt Nam, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường
quốc tế, tr. 102-110.

17


133. Đỗ Lan Phương (2009), Ngoại giao văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế, Học viện Ngoại
giao Việt Nam, Hà Nội.
134. Nguyễn Duy Quang (2002), Vai trò nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Liên minh châu Âu đối với phát triển kinh tế Việt Nam, Tạp
chí Nghiên cứu Quốc tế, 3 (46), tr. 36-48.
135. Dương Văn Quảng (2009), Tranh luận về đa dạng văn hóa trong bối
cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 1 (72), tr. 39-45.
136. Dương Trung Quốc (2008), Hàm lượng văn hóa trong hoạt động ngoại
giao, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế,
tr. 43-47.
137. Hồ Sĩ Quý (2009), Giá trị châu Âu – Những gợi ý cho sự phát triển, Tạp
chí Nghiên cứu châu Âu, (1), tr.28-45.
138. Michael Reiterer (2014), “Việt Nam và Liên minh châu Âu trong bối
cảnh hiện tại”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Tập 30, (2), tr. 3-7.
139. Đặng Đức Siêu (2006), Sổ tay văn hóa Việt Nam, Nxb Lao Động, Hà

Nội
140. Phạm Xuân Sinh (2006), Bước phát triển mới trong hợp tác quốc tế về
văn hóa của Việt Nam năm 2005 và triển vọng thời gian tới, Tạp chí
Thông tin đối ngoại, (22), tr. 30-34.
141. Bùi Hoài Sơn, Phan Hồng Giang (2012), Quản lý văn hóa Việt Nam
trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
142. Bùi Thanh Sơn (2007), Ngoại giao Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, Tạp chí Ngiên cứu quốc tế, 3 (70) tr. 25-33.

18


143. Bùi Thanh Sơn (2008), Vai trò của Ngoại giao Văn hóa trong chính sách
ngoại giao Việt Nam giai đoạn hiện nay, Ngoại giao Văn hóa vì một bản
sắc Việt Nam trên trường quốc tế, tr. 96-110.
144. Dương Quốc Thanh (2009), Yếu tố văn hóa trong quan hệ quốc tế hiện
đại, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 1 (76), tr. 45-56.
145. Hoàng Vĩnh Thành (2009), Ngoại giao văn hóa: bắt đầu từ khái niệm,
Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 1 (76), tr. 17-32.
146. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
147. Thủ tướng chính phủ (2010), Quy chế tổ chức ngày Việt Nam ở nước
ngoài.
148. Đào Đình Thưởng (2007), Phát huy sức mạnh nội sinh của bản sắc văn
hóa dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam, Tạp
chí Lý luận và truyền thông, (5), tr.19.
149. Nguyễn Danh Tiên (2005), Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mở
rộng giao lưu văn hóa trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng (12),
tr. 49-52.

150. Nguyễn Văn Tình (2007), Định hướng phát triển công tác văn hóa đối
ngoại, Tạp chí Thông tin đối ngoại, 2 (39), tr.16-17.
151. Nguyễn Văn Tình (2008), Cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành nhằm
huy động các nguồn lực triển khai hoạt động Ngoại giao Văn hóa, Ngoại
giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, tr. 111-117.
152. Nguyễn Văn Tình (2008), Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn
thiện chính sách văn hóa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện
Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.

19


153. Trần Trọng Toàn (2008), Góp thêm một số ý kiến về xây dựng chính
sách Ngoại giao Văn hóa Việt Nam, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc
Việt Nam trên trường quốc tế, Nxb Thế giới, Hà Nội.
154. Đinh Công Tuấn (2013), Từ hiện trạng phát triển của mô hình hợp tác
EU hiện nay gợi mở một số vấn đề cho mô hình hợp tác ASEAN, Tạp
chí Nghiên cứu châu Âu, (1), tr. 3-17.
155. Giản Tư Trung (2008), Một vài suy nghĩ về: “Định vị quốc gia – Văn
hóa quốc gia – Ngoại giao Văn hóa”, Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc
Việt Nam trên trường quốc tế, tr. 40-43.
156. Viện Khoa học Việt Nam, Thỏa thuận tài chính số 103/2004/LPQT ngày
07 tháng 10 năm 2004 giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Pháp để thực hiện dự án “Phát
huy di sản bảo tàng Việt Nam” có hiệu lực từ ngày 07 tháng 10 năm
2004.
157. Viễn Phố lược thuật (2004), Về ảnh hưởng của nhân tố văn hóa trong
tiến trình nhất thể hóa châu Âu, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, (8),
tr. 19-24.
158. Phạm Thái Việt (2009), Quan hệ Công chúng và Ngoại giao Văn hóa,

Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 3 (78), tr. 175-186.
159. Tiến Vương (2007), Những ngày Việt Nam ở nước ngoài – một cách
quảng bá hiệu quả hình ảnh Việt nam, Lao động, tr.3.
160. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
Văn học, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
161. Kishore Chakraborty (2013), Cultural Diplomacy Dictionary, Center for
Cultural Diplomacy Studies Publications.

20


×