Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.36 KB, 10 trang )

Nhóm 11:
Bài thuyết trình:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
I. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ
- Dân chủ là gì?
+ Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là “dân là chủ” .
Dân là chủ nghĩa là vị thế (chính trị, xã hội) của người dân là chủ.
Dân chủ mâu thuẫn một mất một còn với nô lệ. Khi xác định như vậy,
có lúc Hồ Chí Minh đem quan niệm “dân là chủ” đối lập với quan
niệm “quan chủ”. Đây là quan niệm Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn gọn,
rõ, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong cấu tạo quyền lực của xã
hội “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”
+ Theo Hồ Chí Minh dân chủ còn có nghĩa là “dân làm chủ”.
Dân làm chủ là năng lực của người dân biết làm chủ. “Nước ta là
nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”, hay
“nước ta là một nước dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”
+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì dân là chủ và dân làm chủ
luôn đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của
dân.
- Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ.
Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào đảm bảo cho điều
đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ
Dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân, có nghĩa là dân là
chủ sở hữu của dân chủ
Thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng để
giải quyết mọi khó khăn


2. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh nội dung của dân chủ rất toàn diện,
bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội: Đời sống có 4 lĩnh vực quan trọng như nhau không được xem
nhẹ mặt nào
- Dân chủ trong lĩnh kinh tế
Theo Hồ Chí Minh phải làm cho dân có ăn, có việc làm, có lợi
ích, có sự phát triển, đời sống vật chất ngày càng tăng lên
Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế phải xóa được đói, giảm được
nghèo, tăng được giàu
Phải tạo mọi điều kiện cho dân làm ra của cải trước hết là phục
vụ cho mình, cho gia đình và sau đó là cho xã hội
- Dân chủ trong chính trị
+ Dân chủ trong lĩnh vực chính trị tập trung chủ yếu trong hoạt
động của Nhà nước, bởi vì quyền lực của nhân dân được thể hiện
trong hoạt động của bộ Nhà nước với tư cách nhân dân có quyền lực
tối cao. Hồ Chí Minh khẳng định cả trên quan điểm lẫn trên thực tế
khi có Nhà nước mới – nhân dân cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước
cũng như toàn bộ hệ thống chính trị
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân
làm chủ…Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu
ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân
chủ” (tập 7, tr.218-219)
+ Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí Minh còn thể hiện ở phương
thức tổ chức xã hội. Chế độ dân chủ ở nước ta là “bao nhiêu lợi ích
đều vì dân”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, đồng thời Hồ
Chí Minh cũng chỉ ra phương thức tổ chức và hoạt động của xã hội
nước ta muốn khẳng định là một nước dân chủ thì phải có cấu tạo



quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả trực tiếp và gián tiếp qua dân
chủ đại diện, một hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức
nên”.
Khi xác định quyền hành và lực lượng của xã hội, Hồ Chí Minh
còn vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành đó là nhân dân.
Đó là quan điểm gốc để Người coi cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân
Theo Hồ Chí Minh dân chủ trong lĩnh vực chính trị đòi hỏi các tổ
chức như Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phải
được chú trọng thực hành dân chủ triệt để và rộng rãi. Trong tác phẩm
“Sửa đổi lề lói làm việc”, Bác viết 12 điều xây dựng Đảng cách mạng
chân chính, trong 12 điều này quan trọng nhất là điều 1, tất cả 11 điều
sau nói về Đảng nhưng dựa vào dân
- Dân chủ trong văn hóa
Theo Hồ Chí Minh dân chủ trong văn hóa có nghĩa là người dân
phải là người được hưởng những giá trị văn hóa, thành quả văn hóa và
dân cũng là chủ thể sáng tạo văn hóa, “văn hóa phải soi đường cho
quốc dân đi”, dùng văn hóa để sửa chữa lối sống phù hoa, xa xỉ.
Đối với giới trí thức Bác nói: Chế độ ta là một chế độ dân chủ,
Nhà nước là nhà nước dân chủ, trong một nước dân chủ ai ai cũng có
quyền tự do thảo luận, tranh luận để cùng nhau tìm tòi chân lý. Khi
chân lý đã tìm thấy rồi thì quyền tự do tư tưởng hóa ra là quyền tự do
phục tùng chân lý
3. Thực hành dân chủ
a. xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi
- Các giá trị dân chủ được gắn liền với đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc
Ngay từ năm 1941, trong chương trình của Mặt trận Việt Minh,
Hồ Chí Minh đã thiết kế một chế độ dân chủ cộng hòa cho nước ta sau
khi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc hoàn thành. Đó là chương



trình thực hiện mục tiêu dân chủ , xác địn rõ quyền và trách nhiệm của
nhân dân trước vận mệnh của đất nước; gắn độc lập tự do của tổ quốc
với quyền lợi của tường người dân
Với thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, một tuyên bố
về chế độ dân chủ ở Việt Nam đã được Hồ Chí Minh nêu trong bản
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ngày 2 – 9, ở đó thể hiện rõ các giá trị dân chủ chỉ có ý nghĩa khi đất
nước được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc.
- Dân chủ được thể hiện và đảm bảo trong luật cơ bản nhất là các bản Hiến
pháp.
Bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua tháng 11 –
1946 do Hồ Chí Minh chủ trì xây dựng thể hiện rõ nhất và thấm đậm
nhất tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh. Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở
pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân
Bản Hiến pháp 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chủ trì, một
lần nữa khẳng định quan điểm bảo đảm dân chủ trong xác lập quyền
lực của nhân dân trong Hiến pháp. Trong điều 6 ghi rõ: “Tất cả các
cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân. Tất cả các nhân
viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ
nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân”
- Hồ Chí Minh chú trọng bảo đảm quyền lực của các giai cấp, tầng lớp, các
cộng đồng dân tộc trong thể chế chính trị nước ta.
+ Đối với giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh khẳng định rằng,
công nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp, và từ làm chủ về tư liệu
sản xuất, họ phải được làm chủ trong việc quản lý, làm chủ trong việc
phân phối sản phẩm lao đọng
+ Đối với nông dân, Hồ Chí Minh cho rằng, bao giờ ở nông thôn
nông dân thực sự nắm chính quyền , nông dân phải được giải phóng

thì mới có dân chủ thực sự


+ Đối với trí thức, Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của trí thức
trong tiến trình dân chủ hóa ở Việt Nam và cho rằng, lao động trí óc
có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc
+ Đối với phụ nữ, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề
giải phóng phụ nữ để phụ nữ bình đẳng với nam giới, thực sự tham gia
tích cược vào công việc xã hội.
+ Đối với thanh , thiếu niên, Người cũng hết sức đề cao vai tró
của thế hệ trẻ là người làm chủ tương lai của nước nhà.
Đối với một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, Hồ Chí Minh
quan tâm đến việc bảo đảm quyền làm chủ của tất cả nhân dân các
dân tộc và cho rằng, phải làm cho họ làm chủ đất nước, mau chóng
phát triển kinh tế, văn hóa, thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi
mặt
b. Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội
- Đảm bảo và phát huy dân chủ trong Đảng
Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và nhân
dân xây dựng đất nước thực hiện các mục tiêu vì sự nghiệp dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, có bảo đảm
và phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng thì mới bảo đảm và phát huy
dân chủ của toàn xã hội. Đó là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh.
Quyền lãnh đạo của của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền của giai
cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân. Đảng trở thành hạt nhân
chính trị toàn xã hội là nhân tố tiên quyết để đảm bảo tính dân chủ của
xã hội. Dân chủ trong Đảng , do đó, trở thành yếu tố quyết định tới
trình độ dân chủ của toàn xã hội
- Nhà nước thể hiện chức năng quản lý xã hội của mình qua việc đảm bảo thực thi
ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với sự phát triển của đất

nước. Nhà nước thể chế hóa toàn bộ bản chất dân chủ của chế độ


- Các tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân thể hiện quyền làm chủ và tham
gia quản lý xã hội của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Tất cả các tổ chức đó đều có mục tiêu chung là đạt tới trình độ
cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là động lực cơ bản nhất để các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam phấn đấu trong sự nghiệp
cách mạng. Thực hành dân chủ rộng rãi, theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, là trên nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt
lien minh công - nông - trí thức.
II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA
DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
a. Nhà nước của dân
- Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng
- Hồ Chí Minh khẳng định Nhà nước của dân là nhà nước mà tất cả quyền lực
đều thuộc về nhân dân.
+ Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách bầu ra Nhà nước và
chính quyền các cấp.
+ Nhân dân có quyền kiểm soát giám sát và bãi miễn đại biểu quốc hội và đại
biểu hội đồng nhân dân.
+ Nhân dân có quyền bãi miễn, những đại biểu ấy nếu họ tỏ ra không xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân.
+ Dân được hưởng mọi quyền tự do dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì không
cấm, và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
b. Nhà nước do dân
* Một là, Nhà nước do dân lập nên, dân ủng hộ, dân làm chủ.
* Hai là, Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu
và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
* Ba là, Nhân dân phải tham gia vào công việc của NN. Mọi công việc xây

dựng đất nước là trách nhiệm của dân.
3. Nhà nước vì dân
- Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính.


- Mục đích hoạt động của Nhà nước: Cải thiện và nâng cao đời sống của nhân
dân.
- Nhà nước phải biết kết hợp được các loại lợi ích của dân, bảo đảm sự thống
nhất, hài hòa, công bằng.
- Muốn phục vụ tốt nhân dân, nhà nước phải thật sự trong sạch, liên khiết,
chống tham ô, hối lộ, quan liêu, đặc quyền đặc lợi.
- Đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân, tính dân tộc.
a. Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
- Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, điều này được thể hiện:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm,
chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành luật pháp, chính sách, kế hoạch
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng
viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra
- Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội
chủ nghĩa của sự phát triển đất nước “bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế
quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến một nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa với công nhiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên
tiến”
- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Nhà nước là tập trung dân chủ
b. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc
của Nhà nước

- Sự ra đời của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam: là kết quả của cuộc đấu tranh lâu
dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ trong quá trình dựng nước và
giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc.
- Nhà nước mới của ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ
chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả
cách mạng
4. Xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.


a. Xây dựng một Nhà nước hợp pháp hợp hiến:
- Sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay
mặt một chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập (2/9/45), tuyên bố với
quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới, đồng thời thể
hiện địa vị hợp pháp của chính phủ lâm thời do Người đứng đầu.
- Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (3/9/45),
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, trong đó
nhiệm vụ thứ ba là: “Chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị
Chính phủ tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu” để sớm có một Nhà nước hợp hiến do dân bầu ra. Chủ
- Theo Hồ Chí Minh, có hợp hiến, một Nhà nước mới có hiệu lực pháp lý mạnh
mẽ. Mặc dù những khó khăn dồn dập thù trong giặc ngoài gây ra, cuộc Tổng tuyển
cử đã được tiến hành chỉ sau 4 tháng sau ngày độc lập.
- Ngày 2/3/1946, Quốc hội khoá I đã họp phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy
và các chức vụ chính thức của nhà nước. Quốc hội bầu Hồ Chí Minh làm
- Cuối năm 1946, Quốc hội họp phiên thứ hai thông qua Hiếp pháp đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
b. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật
* Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực
trong thực tế
- Thứ nhất là, Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi

đôi với nhau.
- Thứ hai là, Cần xây dựng một nền pháp chế XHCN đảm bảo thực hiện quyền lực
của nhân dân. Có nghĩa là xây dựng pháp luật trở thành công cụ quản lý đắc lực
của Nhà nước và buộc người dân phải tuân theo pháp luật.
* Pháp luật là cơ sở thực hiện quyền tự do dân chủ
- Ngay từ 1919, bản “Yêu sách” đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương,
phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. Bản Yêu
sách gồm 8 điều, trong đó có 4 điều liên quan tới vấn đề pháp quyền.


- Trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp, ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần
đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp (1946, 1959), đã ký lệnh công bố 16 đạo
luật, 613 Sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.
- HCM hết sức chăm lo đến vấn đề đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế
bảo đảm cho pháp luật được thi hành
- Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí để nhân dân hiểu và chấp
hành luật pháp
c. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức đủ tài
Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau về đội ngũ cán bộ,
công chức:
- Một là, t uyệt đối trung thành với cách mạng.
- Hai là, hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
- Ba là, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
- Bốn là, cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán,
dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn,”thắng không kiêu,
bại không nản”.
Năm là, phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn có ý thức và hành động
vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước
5. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả

a. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước. Kiên
quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan liêu
- Sức mạnh, hiệu quả của Nhà nước một mặt dựa vào tính nghiêm minh của việc
thi hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, sự trong sạch của đạo đức của
người cầm quyền.
- Chỉ một tháng sau khi thành lập nước VNDCCH, HCM gửi thư cho uỷ ban nhân
dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ 6 căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế,
hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
* Hồ Chí Minh thường đề cập những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người
đề phòng và khắc phục:
- Thứ nhất, Đặc quyền, đặc lợi


- Thứ hai, Tham ô, lãng phí, quan liêu
- Thứ ba, “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”
b. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức
- Theo Hồ Chí Minh, từ kinh tế tiểu nông đi tới xây dựng Nhà nước pháp quyền,
trước hết phải nhấn mạnh vai trò của pháp luật, khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ
thống pháp luật, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân…đồng
thời phải đặc biệt coi trọng vấn đề đạo đức, nâng cao vai trò giáo
dục đạo đức.
- Trong suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh là một mẫu
mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức
nhưng cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật.
- Người hết sức đề cao đạo đức Cần – Kiệm – Liêm – Chính – Chí công vô tư.



×