Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.81 KB, 90 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN








LUẬN VĂN THẠC SĨ




Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây
dựng con người



CHUYÊN NGÀNH : TRIẾT HỌC
MÃ SỐ : 60. 22 .80



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. NGUYỄN ĐÌNH HÒA
NGƯỜI THỰC HIỆN : LÊ THỊ HƯƠNG















HÀ NỘI, 2006



1




LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các trích
dẫn có nguồn gốc rõ ràng và chính xác. Những kết luận của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn



Lê Thị Hương













2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ CON NGƢỜI 8
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người 8
1.2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
và công cuộc xây dựng xã hội mới 19
1.2.1. Con người là mục tiêu của cách mạng và công cuộc xây dựng
xã hội mới 19
1.2.2. Con người là động lực của cách mạng và công cuộc xây dựng
xã hội mới 28
Chương 2: MỘT SỐ TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG CON NGƢỜI 36
2.1. Về một số phẩm chất cơ bản cần có của con người 36

2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, rèn luyện và phát triển con người
toàn diện 44
2.2.1. Bồi dưỡng con người về mặt đạo đức 44
2.2.2. Giáo dục con người về mặt trí lực 52
2.2.3. Phát triển con người về mặt thể lực 62
2.3. Một số định hướng để phát huy nhân tố con người
theo tư tưởng Hồ Chí Minh 66
2.3.1. Thực hiện đoàn kết 66
2.3.2. Thực hiện dân chủ 69
2.3.3. Thực hiện công bằng xã hội 72
KẾT LUẬN 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79



3
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử, tuy không nhiều lắm nhưng luôn có những vĩ nhân,
những anh hùng, lãnh tụ mà cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng và hành động
gắn liền với một giai đoạn lịch sử, tiêu biểu cho lý tưởng, ý chí, nguyện vọng
của dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
trong số ít những người như vậy. Tên tuổi của Người trở thành một biểu
tượng trường tồn mãi trong lòng dân tộc, là niềm tự hào của nhân loại tiến bộ.
Đánh giá về những di sản lý luận vô giá của Người, Đại hội lần thứ IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền

thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”. Và do vậy,
cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân Việt Nam.
Có thể nói, trong hệ thống lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh, tư
tưởng về con người và xây dựng con người chiếm vị trí trung tâm, chứa đựng
những giá trị khoa học vô cùng to lớn. Quả thực, suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, từ thuở thiếu thời cho tới phút cuối cùng, Hồ Chí Minh
luôn đấu tranh không mệt mỏi vì con người, sẵn sàng làm tất cả những gì có
thể để phát triển con người, cho con người. Trước khi từ biệt thế giới này,
Người còn căn dặn Đảng và Nhà nước ta phải luôn ghi nhớ điều “Đầu tiên là
công việc đối với con người”. Những tư tưởng đúng đắn, sáng suốt của Hồ
Chí Minh về con người và xây dựng con người đã góp phần to lớn vào sự
nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, dân tộc và con người, tạo nên thành
công của cách mạng Việt Nam trong công cuộc “kháng chiến, kiến quốc”.

4
Nói cách khác, luôn tôn trọng con người, chăm lo hết mực cho con người và
biết cách dựa vào con người, là những nội dung chủ đạo, căn bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người. Với những tư tưởng
khoa học và có giá trị nhân văn ấy, Hồ Chí Minh không chỉ là nhà lãnh tụ
thiên tài của cách mạng Việt Nam, mà còn là một danh nhân văn hoá của thế
giới, một nhân cách lớn mang tầm thời đại.
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ,
triển vọng hiện thực hoá nền kinh tế tri thức cũng như xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế… đang tác động rất lớn đến chiến lược phát triển của
hầu hết các quốc gia. Trong đó, vấn đề quan trọng và biểu hiện rõ nhất là sự
thay đổi theo hướng tích cực trong quan niệm về vị trí, vai trò của con người
đối với tiến trình phát triển - con người được coi là nguồn nội sinh quan trọng
hàng đầu, quyết định sự phát triển của mỗi nước. Ở Việt Nam, trong công
cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước nhằm xây

dựng thành công chủ nghĩa xã hội, vấn đề khai thác, sử dụng và phát triển con
người với tính cách mục tiêu và động lực của sự phát triển được Đảng và Nhà
nước đặc biệt coi trọng. Trong điều kiện như vậy, việc nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người không chỉ thuần tuý là làm
rõ những giá trị của một di sản lý luận quý báu, mà điều quan trọng không
kém là tìm thấy ở đó những định hướng lý luận liên quan trực tiếp đến việc
phát triển và sử dụng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay. Nói cách khác,
việc nghiên cứu đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con
người” là rất cần thiết, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cả về phương diện lý
luận lẫn phương diện thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một di sản lý luận quý báu của Đảng và nhân
dân Việt Nam. Với tính cách nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về con người và

5
xây dựng con người nói riêng đã được nhiều nhà khoa học ở nước ta nghiên
cứu, phân tích. Không chỉ có vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh còn là một đề tài thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của không ít nhà hoạt động chính trị, nhà khoa
học trên thế giới. Nhiều cuộc hội thảo khoa học về thân thế, sự nghiệp và tư
tưởng của Người đã được tổ chức ở các cấp độ quốc tế, quốc gia.
Nhìn chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người
được nghiên cứu từ nhiều góc độ, với những cách tiếp cận khác nhau nhằm khai
thác những khía cạnh, nội dung khác nhau tuỳ thuộc mục đích nghiên cứu đặt ra.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là một vấn đề lớn được nhiều
tác giả nghiên cứu, phân tích trong các cuốn sách, bài báo Trong cuốn Tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội của Lê Sĩ Thắng
(chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tác giả đã đi sâu phân
tích quan niệm của Hồ Chí Minh về con người; chỉ rõ rằng con người trong
tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là con người trừu tượng, mà là con

người cụ thể, tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định;
rằng, con người được đặt trong các mối quan hệ với vũ trụ - tự nhiên, với
tộc loại, với cộng đồng, với nhóm xã hội và với chính bản thân mình.
Trong bài Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người
của Đặng Xuân Kỳ, đăng trên tạp chí Triết học, số 10, 2002, tác giả đã
phân tích và nhấn mạnh rằng, con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
đặt trong mối quan hệ ba chiều: quan hệ với một cộng đồng nhất định,
trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với một xã hội nhất
định, trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức, bóc lột; quan hệ với
tự nhiên trong đó con người không tách rời tự nhiên và luôn người hoá tự
nhiên trong cộng đồng xã hội nhất định. Bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người và phát huy nhân tố con người của Nguyễn Văn Tài, tạp chí Triết
học, số 2, 2004, đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với tư
cách một thực thể xã hội, bao hàm sự thống nhất giữa con người cá nhân và

6
con người xã hội, sự thống nhất giữa con người với dân tộc, giai cấp và
nhân loại; về con người với tư cách chủ thể sáng tạo lịch sử
Có thể nói rằng, qua những công trình nghiên cứu của mình, các tác
giả đã tập trung phân tích quan niệm Hồ Chí Minh về con người trên nhiều
phương diện: con người cá nhân, con người xã hội, con người trong các
mối quan hệ gia đình, dân tộc, nhân loại. Trên cơ sở đó, tạo tiền đề cho
việc nghiên cứu các nội dung khác liên quan đến vấn đề con người, như
đấu tranh giải phóng con người, xây dựng và phát triển con người…
Khía cạnh giải phóng con người cũng được một số tác giả nghiên
cứu khá kỹ. Chẳng hạn, bài Sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người trong tư tưởng Hồ
Chí Minh của Nguyễn Bá Linh trong cuốn Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh, chương trình KX - 02, tập 3, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội,
1993, đã luận giải để làm rõ rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu của

cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội chính
là nhằm giải phóng con người, mang đến cho con người cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, đưa con người thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu Bài Tìm
hiểu quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội của Phạm Vũ
Quyết Thắng trong cuốn Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, chương trình
KX - 02, tập 1, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1993, đã phân tích
quan niệm của Hồ Chí Minh coi giải phóng con người, xây dựng cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc và bình đẳng cho tất cả quần chúng nhân dân lao
động là đặc trưng cơ bản, thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Nhiều công trình nghiên cứu đã làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của con người. Trong số các công trình bàn đến nội dung này, có thể
nêu một số công trình tiêu biểu, như Tư tưởng Hồ Chí Minh về “lấy dân
làm gốc” của Phạm Bá Lượng, tạp chí Triết học, số 2, 2005; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng Việt

7
Nam của Nguyễn Thị Thu Hiền trong Kỷ yếu hội thảo khoa học về vai trò
của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam của Trung tâm đào tạo bồi
dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Hà Nội, 2005; Một số vấn đề tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh của Mạch Quang Thắng, tạp chí Lịch sử Đảng, số 1,
2004, Trong những công trình đó, các tác giả đã tập trung phân tích tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước; coi quần
chúng nhân dân là lực lượng chính của cuộc cách mạng; là động lực thúc
đẩy sự phát triển của xã hội
Vấn đề xây dựng con người và phát triển con người trong tư tưởng
Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng được nhiều nhà nghiên cứu bàn
đến. Trong các công trình nghiên cứu về vấn đề này phải kể đến bài Tư
tưởng Hồ Chí Minh về quan niệm và giải pháp xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp

xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện của Thành Duy, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. Ở đây, tác giả đã phân tích khái quát tư
tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và ý nghĩa của giáo dục đối với việc
đào tạo con người toàn diện. Trên cơ sở đó, tác giả đã khai thác các phương
pháp xây dựng con người toàn diện trong tư tưởng của Người. Ngoài ra, có
thể kể đến luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Hữu Công với đề tài Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện bảo vệ năm 2001 tại
Hà Nội. Trong công trình này, tác giả đã tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trò của đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng, về vai trò
của trí tuệ con người đối với quá trình cải tạo và xây dựng xã hội mới. Trên
cơ sở đó, tác giả đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng và phát
triển con người toàn diện nhằm tạo ra những con người, thế hệ người đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội.

8
Một số công trình, bài viết khác đã phân tích giá trị, ý nghĩa chỉ đạo
của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Về vấn đề này, có
thể kể đến công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của Thành Duy,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Từ việc phân tích tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh và tính tiến bộ của tư tưởng ấy, tác giả đã chỉ ra giá trị to lớn
của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục đạo đức cho con
người trong chế độ xã hội mới; đồng thời, nhấn mạnh quan điểm của Đảng
coi tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là nền tảng đạo đức của sự nghiệp đổi
mới. Bài Điều mong muốn cuối cùng của Bác và trách nhiệm của chúng ta
của Nguyễn Trọng Chuẩn, tạp chí Triết học, số 5, 1999, đã phân tích và
làm nổi bật khát vọng của Hồ Chủ tịch về một xã hội mới, trong đó dân tộc
được độc lập, nhân dân có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, đoàn kết và
dân chủ… Từ đó, tác giả nhấn mạnh tư tưởng của Người có giá trị định

hướng cho chúng ta xem xét, khẳng định những gì đã làm được, chưa làm
được và phải làm đối với con người trong sự nghiệp đổi mới.
Như vậy, có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây
dựng con người đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ, phương diện khác nhau
với những nội dung cụ thể. Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc trình bày, phân
tích một cách có hệ thống những tư tưởng của Người về vấn đề này vẫn rất
cần thiết; đặc biệt là việc làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn, ý nghĩa định
hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển
con người ở Việt Nam hiện nay. Để làm được như vậy, kết quả nghiên cứu
mà các công trình đi trước đã đạt được là những tư liệu vô cùng quý báu cho
tác giả luận văn tham khảo.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của luận văn là hệ thống hoá, phân tích và làm rõ một số nội
dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người;

9
trên cơ sở đó, góp phần khẳng định những giá trị lý luận và thực tiễn của di sản
lý luận này đối với sự nghiệp bồi dưỡng, phát triển con người ở Việt Nam hiện
nay.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ chủ yếu mà luận văn phải giải quyết là:
Thứ nhất, trình bày và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Thứ hai, trình bày và phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng con người.
Thứ ba, bước đầu chỉ ra ý nghĩa của những tư tưởng đó đối với sự nghiệp
bồi dưỡng, phát triển con người ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về con người, đặc biệt là di sản lý luận
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề con người và xây dựng con người. Đồng
thời, luận văn cũng kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu

của các nhà khoa học đi trước có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn.
Luận văn sử dụng phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp hệ thống hoá…
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Một là, góp phần hệ thống hoá những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về con người và xây dựng con người.
- Hai là, góp phần luận chứng ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với sự nghiệp bồi dưỡng, phát triển con người ở nước ta hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với những kết quả đạt được, luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo trong việc học tập, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người và xây dựng con người ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng và đại học của nước ta. Đồng thời, luận văn cũng có giá trị tham

10
khảo, phục vụ cho công tác hoạch định chính sách xây dựng, bồi dưỡng và
phát triển con người ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 2 chương, 5 tiết.

























11
Chương 1
MỘT SỐ TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ CON NGƢỜI

1.1. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƢỜI
Con người là gì? Đó là câu hỏi được đặt ra trong mọi hệ thống triết học
từ cổ chí kim, cả phương Đông lẫn phương Tây. Tuỳ theo thế giới quan của
mình mà các nhà triết học đưa ra những luận giải khác nhau để trả lời cho câu
hỏi đó.
Khi bàn đến vấn đề con người, tư tưởng Nho giáo nhấn mạnh đến mặt,
khía cạnh xã hội của con người, đặc biệt là đạo đức. Chẳng hạn, Khổng Tử đề
cao triết lý nhân sinh: nhân, trí, dũng, lễ; “quan niệm bản tính con người là
thiện”[57, tr.36]
(*)
. Phát triển tư tưởng Khổng Tử, Mạnh Tử rất coi trọng và đề

cao tính thiện của con người. Sở dĩ như vậy là vì ông muốn làm nổi bật sự
khác nhau giữa con người và con vật thông qua các giá trị xã hội. Mạnh Tử đã
tìm bản chất con người trên phương diện đạo đức. Ngược lại, Tuân Tử cho
rằng, bản tính con người là ác và ông chủ trương phải ngăn chặn cái ác bằng
cách dùng giáo lý nhân, nghĩa, lễ để cảm hoá con người. Theo ông, con người
khác con vật ở chỗ con người biết “hợp quần”. Luận điểm này của Tuân Tử
đã nêu lên bản chất xã hội của con người mang tính cộng đồng.
Mặc

dù có những quan niệm khác nhau về tính người, nhưng cả Khổng
Tử, Tuân Tử và Mạnh Tử đều đề cao vai trò của giáo dục trong việc cải tạo,
hướng con người tới cái thiện và giữ gìn tính thiện, coi đó như một trong những
nội dung căn bản để hoàn thiện con người. Tuy nhiên, khi bàn đến vấn đề con
người và xây dựng con người, Nho giáo không tránh khỏi những hạn chế, như
xem con người lý tưởng là con người đạo đức chứ không phải là con người lao

(*)
Từ đây trở đi:
- Số thứ nhất chỉ số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo.
- Số thữ hai chỉ số trang trong tài liệu tham khảo.

12
động hay con người khoa học; xem cuộc sống của con người là cuộc sống đạo
đức chứ không phải cuộc sống lao động hay cuộc sống đấu tranh xã hội. Mẫu
người mà Nho giáo xây dựng là mẫu người quân tử - mẫu người đó thuộc một
số ít người trong giới quý tộc chỉ lo chuyện đạo lý, chẳng lo chuyện nghèo khó.
Sự học trong quan niệm của Nho giáo chủ yếu là học cách trị người. Tài năng
mà Nho giáo chú tâm bồi dưỡng là tài trị nước. Nho giáo không bàn đến điều
kiện hiện thực của việc xây dựng con người, nó tách con người khỏi các quan
hệ xã hội cụ thể. Bên cạnh đó, Nho giáo có tư tưởng phân biệt đẳng cấp, coi

thường lao động chân tay, coi thường phụ nữ,… Với những nội dung đó, Nho
giáo chưa tìm ra được phương thuốc hữu hiệu để giải phóng con người.
Có giáo lý uyên thâm, nhưng Phật giáo là một tôn giáo. Phật giáo đã
đưa ra quan niệm về luân hồi, nghiệp báo; giải thích căn nguyên nỗi khổ của
con người cũng như con đường giải thoát khỏi nỗi khổ ấy không phải từ điều
kiện kinh tế - xã hội mà từ ý thức, tinh thần. Nó khuyên con người từ bỏ đấu
tranh xã hội. Đây là một trong những hạn chế của tư tưởng Phật giáo, bởi nó
không tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng con người. Tuy nhiên, Phật
giáo cũng có mặt tích cực, đó là phản đối chế độ bất công, đòi tự do, bình
đẳng cho con người, khuyên con người sống có đạo đức, quan tâm cứu giúp
người khác, chăm làm việc thiện, sống trong sạch…
Như vậy, trong các tư tưởng của triết học phương Đông, con người chủ
yếu được đề cập đến ở phương diện con người xã hội. Các nhà tư tưởng chủ
yếu đề cao mặt xã hội của con người.
ở phương Tây, những tư tưởng về tự do, dân quyền, dân chủ, bác ái
lần đầu tiên xuất hiện trong thời kỳ cách mạng tư sản và đã có sức hấp dẫn
mạnh mẽ. Trải qua nhiều thế kỷ phát triển, chủ nghĩa nhân văn phương Tây
đã đem lại cho nhân loại những giá trị cao đẹp. Nó khẳng định những giá trị
người, ca ngợi lý tưởng của con người, khẳng định các quyền tự nhiên của

13
con người: tự do, bình đẳng, bác ái, phản đối chế độ phong kiến. Một số nhà
triết học đã đề cao vai trò của cá nhân con người, coi con người cá nhân là
trung tâm của mọi vấn đề triết học và khoa học. Điều này thể hiện khuynh
hướng đòi dân chủ và tự do cá nhân, đòi giải phóng nhân cách con người của
giai cấp tư sản cách mạng trong cuộc đấu tranh xóa bỏ mọi gông cùm của thể
chế xã hội và ý thức hệ phong kiến đối với con người. Giăng Giắc Rútxô
(1712 - 1778) khẳng định bản chất con người là tự do, nhưng trong sự phát
triển của các xã hội từ trước tới giờ, khát vọng tự do của con người luôn bị
kìm hãm. Theo ông, bản thân sự phát triển kinh tế và các hình thái sở hữu từ

trước tới nay là nguồn gốc đẻ ra mọi sự bất công trong xã hội. Tuy nhiên, khi
bàn đến con người, các nhà tư tưởng chưa rút ra được bản chất thực sự của
con người, con người mới chỉ được đề cập đến ở phương diện cá thể.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, có thể nói, từ rất sớm, ông cha ta đã
có sự quan tâm đến vấn đề con người. Không giống với quan niệm của
phương Tây, khi bàn đến vấn đề con người, người Việt Nam thường ít, nếu
không nói là không chú ý đến mặt tự nhiên, đến mối quan hệ giữa linh hồn và
thể xác,… mà chủ yếu nhấn mạnh đến mặt xã hội của con người.
Nguyên tắc làm người là một trong những nội dung căn bản được bàn
đến nhiều trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Nổi bật nhất trong nguyên tắc làm
người là con người phải có các đức tính: trung, hiếu, nhân, trí, dũng. Đây là
những đức tính cơ bản được coi là cơ sở, là thước đo để đánh giá con người.
Ngoài những đức tính ấy, con người còn được coi trọng ở các phẩm chất
khác, như cần cù, chăm chỉ, yêu lao động, yêu thiên nhiên… Không chỉ có
vậy, vị trí, vai trò của con người cũng được đề cao. Nói về sức mạnh của con
người, của nhân dân, Nguyễn Trãi đã từng khẳng định rằng, thuyền bị lật mới
tin dân như nước; rằng, chở thuyền lật thuyền cũng là dân. Lê Quý Đôn coi
dân là gốc nước, gốc vững thì nước mới yên. Xuất phát từ việc đề cao vị trí và
vai trò của nhân dân, một số nhà tư tưởng tiêu biểu thường coi ý dân, lòng dân

14
là điều cần phải coi trọng trong khi tiến hành các hoạt động chính trị. Con
người được coi là nền tảng của những mục đích, chủ trương kinh tế - chính trị
lớn, như làm thay đổi vương triều, tổ chức các cuộc kháng chiến chống chiến
tranh xâm lược, tiến hành xây dựng một đất nước thái bình, thịnh trị.
Cùng với sự phát triển của lịch sử, người hiền tài luôn được coi trọng.
Họ được coi là tài sản vô giá, là nguyên khí của quốc gia. Do vậy, trong sự
nghiệp giáo dục, ông cha ta luôn chú trọng giáo dục con người để có thể “tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Các hình thức “nêu danh yết bảng” các sĩ tử thi
đỗ, việc khắc tên vào bảng vàng, bia đá,… thể hiện sự quý trọng người hiền

tài của dân tộc ta.
Giải phóng con người là ước mơ, khát vọng ngàn đời của nhân dân.
Điều này được phản ánh khá đậm nét trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Tuy
nhiên, cho đến trước khi Cách mạng tháng Tám thành công, những ước mơ,
khát vọng chân chính của nhân dân đều không được đáp ứng một cách thoả
đáng. Bởi, con người không tìm thấy con đường đúng đắn để giải phóng bản
thân mình và rút cuộc, vẫn là tiếng thở dài cay đắng.
Bên cạnh những giá trị tích cực trên, tư tưởng về con người trong lịch
sử Việt Nam còn một số hạn chế, như quá đề cao vai trò của vua, quan lại;
trọng nam, khinh nữ; tư tưởng phân biệt giữa các tầng lớp nhân dân trong xã
hội… Những hạn chế đó thể hiện một khuynh hướng thế giới quan duy tâm.
Có thể nói, trong lịch sử triết học trước Mác, chưa có một khái niệm
đầy đủ, khoa học và hoàn chỉnh nào về con người, nghĩa là vẫn chưa có một
câu trả lời đúng đắn về câu hỏi “con người là gì?”. Ngay cả một số nhà triết
học duy vật, tiến bộ, như Phoiơbắc,… cũng không vượt khỏi nhãn quan duy
tâm, tôn giáo khi đề cập đến các vấn đề xã hội nói chung và vấn đề con người
nói riêng. Và, quan niệm duy tâm về con người vẫn ngự trị trong nhận thức,
trong lịch sử triết học.
Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được những đòi hỏi của lịch sử mà

15
các nhà triết học trước đó chưa giải quyết được khi đề cập đến các vấn đề xã
hội và con người. Trong quan niệm về con người, C.Mác đã đưa ra một luận
điểm nổi tiếng, mang tính khái quát: “Bản chất con người không phải là một
cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”[34, tr.11]. ở đây, chúng ta có
thể hiểu những quan hệ xã hội ấy được thể hiện trong toàn bộ hoạt động cụ
thể - lao động, tư duy và duy trì tính loài của con người. Vì thế, trong quan
niệm của chủ nghĩa Mác, không có con người trừu tượng mà chỉ có những
con người sống, hoạt động trong một xã hội, một thời đại, trong những điều

kiện lịch sử nhất định; họ là những người cùng với xã hội mình khai thác
thiên nhiên, sinh hoạt xã hội và phát triển ý thức. Trong các mối quan hệ xã
hội cụ thể đó, con người hình thành, bộc lộ và thực hiện bản chất thật sự của
mình. Cho nên, khi xét bản chất của con người cũng như của một tập đoàn
người hay của một dân tộc, phải xuất phát từ toàn bộ những quan hệ xã hội
ấy. Với luận điểm trên, chủ nghĩa Mác nhấn mạnh mặt xã hội của con người
nhằm khắc phục những hạn chế trong các quan niệm đã có trong lịch sử về
con người. Nhiều trào lưu triết học tư sản sau này đã cố tình lãng quên điều
đó để gán cho Mác cái “thiếu sót” là không chú ý đến mặt tự nhiên, sinh vật
của con người. Thực ra, khi nhấn mạnh đến mặt xã hội của con người, C.Mác
cũng rất coi trọng mặt tự nhiên, “cái sinh học” của con người. Những luận
điểm của ông coi con người là một bộ phận của giới tự nhiên, cho rằng trước
hết con người cần phải thoả mãn những nhu cầu ăn, ở, mặc,… đã thể hiện
điều đó. Đồng thời, chủ nghĩa Mác đã giải quyết hàng loạt vấn đề mà trước đó
chưa được giải quyết một cách thoả đáng: Ai là chủ thể của lịch sử? Ai thực
sự làm nên lịch sử? Chủ nghĩa Mác khẳng định rằng, thông qua hoạt động
thực tiễn của mình, con người đã làm ra lịch sử và chính con người là chủ thể
của lịch sử.

16
Tóm lại, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, con người là một thực thể
sinh vật - xã hội, nó vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội.
Trong đó, mặt xã hội được thể hiện ở chỗ con người có ý thức, có tính lịch sử,
tính giai cấp, tính nhân loại; con người tồn tại trong các quan hệ xã hội, thông
qua các quan hệ xã hội đó mà hình thành nên bản chất “Người”.
Trên cơ sở tiếp thu những giá trị tích cực của các nhà tư tưởng phương
Đông, phương Tây và tư tưởng dân tộc về con người trong lịch sử, kết hợp
với tư tưởng đúng đắn và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
đã xây dựng và đưa ra quan niệm của mình về con người.
Mặc dù không viết một chuyên luận nào bàn riêng đến con người,

nhưng Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng rất sâu sắc về vấn đề này. Khi nói
về con người, Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa: “Chữ người, nghĩa hẹp là
gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng
nữa là cả loài người” [40, tr.644]. Ngoài ra, trong những bối cảnh cụ thể,
Người còn sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ con người, như người
công nhân, người lao động, người trí thức, quần chúng nhân dân, nhân dân lao
động, đồng bào, người cách mạng, người vô sản… Chúng ta có thể thấy rằng,
khái niệm con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm một số nội dung
cơ bản sau:
Thứ nhất, con người là con người xã hội.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người không phải là con người
chung chung, trừu tượng, mà là con người cụ thể. Con người xuất phát từ
chính hiện thực của một xã hội hay một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Con người, đó là một thực thể có các nhu cầu tự nhiên: ăn, ở, mặc; có ý thức,
biết lao động, có đạo đức, có mặt thiện, mặt ác, mặt xấu, mặt tốt và chịu sự
tác động của các mối quan hệ xã hội, trong đó có giáo dục. Người từng viết:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền;

17
Dữ hiền đâu phải là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên”[38, tr.383].
Với tư cách một thực thể xã hội, con người là một thành viên tồn tại
trong một cộng đồng xã hội. Trong quan niệm truyền thống của nhân dân ta,
cộng đồng xã hội tồn tại ở ba cấp độ, đó là nhà, làng, nước. Đến Hồ Chí Minh
cộng đồng xã hội được Người hiểu bao gồm gia đình, họ tộc, làng xóm, dân
tộc và cả nhân loại. Như vậy, con người không phải là những cá thể biệt lập
kiểu như Rôbinsơn ngoài hoang đảo, mà là con người tồn tại trong nhiều mối
quan hệ xã hội đa dạng và đan xen. Chỉ có trong các mối quan hệ xã hội đa
dạng và đan xen ấy, con người mới có thể lao động, tư duy, mới thực sự trở

thành con người để phân biệt với mọi loài động vật khác. Người khẳng định,
“Con người dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”[42, tr.60]. Chữ
tình ở đây không chỉ là tình cảm trong quan hệ anh em, vợ chồng, bạn bè, cha
con, trên dưới mà đó còn là tình người. Tình người được biểu hiện tập trung ở
văn hoá, đạo đức của con người. Đó là nhân tính, nó đối lập với thú tính của
loài vật. Chính vì lẽ đó, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết đến những quan hệ
đã gắn bó mọi người với nhau, tạo thành những cộng đồng xã hội bền chặt từ
nhỏ đến lớn, từ hẹp đến rộng mà Người gọi là quan hệ “đồng bào”. Mối quan
hệ ấy đã tạo nên tính cộng đồng bền vững của con người Việt Nam, được bồi
đắp qua hàng ngàn năm trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Chính trong các
mối quan hệ ấy, bản chất của con người mới được hình thành, được tạo bồi và
con người trở thành động lực vĩ đại thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Theo
Hồ Chí Minh, trong các mối quan hệ xã hội của con người, quan hệ giữa cá
nhân và dân tộc là mối quan hệ cơ bản, chi phối tất cả các mối quan hệ khác.
Điều đó cho phép chúng ta hiểu rõ vì sao Hồ Chí Minh rất coi trọng sức mạnh
cộng đồng và luôn kêu gọi tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong
sự nghiệp đấu tranh và xây dựng xã hội mới.
Khi nghiên cứu bản chất xã hội của con người, chủ nghĩa Mác đã đặt

18
con người trong các mối quan hệ xã hội và khẳng định rằng, chính lao động là
điều kiện chủ yếu và có vai trò quyết định đối với sự hình thành, phát triển
con người, làm biến đổi các điều kiện xã hội và tự nhiên, đồng thời phát triển
bản chất xã hội của con người. Chính thông qua quá trình lao động mà con
người thể hiện vai trò chủ thể sáng tạo những giá trị vật chất và tinh thần. Lao
động sáng tạo là giá trị nhân văn cao nhất của con người. Tiếp thu quan điểm
đó của chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh cho rằng, con người, trước hết là con
người lao động, là nhân dân lao động, là những người công nhân - “… sức
mạnh nghề quen, làm ra của cải cho thiên hạ nhờ”[38, tr.204], là nông dân -
“… một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của

giai cấp công nhân”[40, tr.710], là trí thức - “… trực tiếp tham gia vào công
việc kháng chiến, hy sinh gian khổ, chen vai thích cánh với bộ đội và nhân
dân”[40, tr.156]. Họ có vai trò to lớn đối với sự phát triển xã hội và thực sự là
những người sáng tạo nên lịch sử. Vì thế mà Hồ Chí Minh cho rằng, trong bầu
trời không gì quý bằng nhân dân. Với nghĩa đó, quan niệm con người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh bao trùm các khái niệm trên.
Thứ hai, con người là sự thống nhất giữa con người cá nhân và con
người xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người trước hết phải là con người cụ
thể, là một thực thể đơn nhất, có những phẩm chất, những năng lực, có nhân
cách riêng. Chẳng hạn, Người cho rằng, công nhân là những người có tinh
thần dũng cảm, gan góc cách mạng; đảng viên, cán bộ cách mạng thì luôn
trung thành, tận tuỵ, hăng hái; phụ nữ thì lao động cần cù… Nhưng con người
không tồn tại riêng biệt, mà tồn tại trong sự thống nhất, đó là xã hội. Trong xã
hội, một mặt, con người vừa thoả mãn, vừa làm chủ các nhu cầu cho sự tồn tại
của chính mình; mặt khác, con người mang những phẩm chất của các cá nhân
trong xã hội, như có ý thức, có ngôn ngữ, có tính dân tộc, tính giai cấp,… trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá đặc trưng cho xã hội, dân tộc

19
ấy. Xét trong một xã hội nhất định, cụ thể là xã hội Việt Nam, con người
mang những phẩm chất của truyền thống dân tộc, đó là lòng yêu nước, yêu
lao động, ý chí tự lập, tự cường, lòng căm thù giặc sâu sắc, biết đặt lợi ích của
dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, biết gắn quyền lợi của cá nhân với quyền
lợi dân tộc, coi trọng tình làng, nghĩa xóm, hiếu thảo… Người chỉ rõ: “Đồng
bào ta, gái cũng như trai, trẻ cũng như già, cho đến các cháu nhi đồng cỏn
con, ai cũng nồng nàn yêu nước, ai cũng hăng hái kháng chiến, ai cũng cố
gắng giết giặc”[40, tr.679]. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là quan hệ bản
chất, trong đó xã hội chi phối cá nhân; nhưng nếu không có cá nhân thì cũng
không có xã hội; bản sắc cá tính càng đậm nét thì tập thể càng phong phú, đa

dạng.
Sự thống nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội thể hiện sự
thống nhất biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đặc thù. Trong bất kỳ
trường hợp nào, khi nhấn mạnh và coi trọng con người cá nhân thì Hồ Chí
Minh cũng nhấn mạnh và khẳng định con người tập thể, con người xã hội.
Ngược lại, khi nói đến con người tập thể, con người xã hội thì cũng bao hàm
trong đó những con người cụ thể. Do vậy, Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa
xã hội không hề phủ nhận cá nhân, chà đạp lên lợi ích cá nhân, mà ngược lại,
hơn hẳn bất kỳ một chế độ xã hội nào trong lịch sử, chủ nghĩa xã hội luôn tôn
trọng lợi ích cá nhân, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển tự do và toàn
diện của mỗi cá nhân. Chính vì nhận thấy sự thống nhất giữa con người cá
nhân và con người xã hội mà Hồ Chí Minh luôn đề cao và kêu gọi sự đoàn kết
toàn dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam; đồng thời, khơi dậy những
phẩm chất tốt đẹp của mỗi con người cụ thể trong khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự thống nhất giữa con người cá nhân và
con người xã hội chính là sự thống nhất về lợi ích: sự thống nhất giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Cụ thể là sự
thống nhất giữa lợi ích của mỗi cá nhân với lợi ích của Đảng, của dân tộc. Vì

20
thế, trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Người luôn quan tâm tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, chia sẻ
niềm vui, thấu hiểu nhu cầu của các tầng lớp nhân dân từ nông dân, công
nhân, bộ đội đến các cụ phụ lão, các cháu nhi đồng… Việc giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa con người cá nhân và con người xã hội chính là giải
quyết đúng đắn mối quan hệ về lợi ích. Với Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc
gắn liền với giải phóng con người, xét đến cùng, cũng chính là xuất phát từ
lợi ích của con người. Trong quá trình hoạt động cách mạng giải phóng dân
tộc, bằng phương pháp tư duy biện chứng, Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hoà
giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích riêng với lợi ích chung để tạo

nên động lực nhằm phát huy tính tích cực của con người.
Với những nội dung đó, quan niệm con người trong tư tưởng Hồ Chí
Minh bao trùm khái niệm quần chúng nhân dân, dân …
Thứ ba, con người là sự thống nhất giữa con người giai cấp và con
người nhân loại.
Có thể nói rằng, luôn quan tâm đến thân phận con người, không chỉ
người Việt Nam mà cả những con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột
trên toàn thế giới, là một trong những nét nổi bật nhất trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người. Trong mỗi điều kiện lịch sử cụ thể, Hồ Chí Minh luôn
xem xét con người ở những bình diện và chiều cạnh khác nhau của nó.
Khi đề cập đến con người, Hồ Chí Minh không chỉ nói nhiều đến
những người công nhân, nông dân, trí thức - những con người thuộc các giai
tầng khác nhau trong xã hội, mà Người còn đề cập đến người An Nam, người
châu Âu, người Đông Dương, người Trung Quốc, người Pháp, người Nhật,
người Xiêm,… để khẳng định con người bao giờ cũng thuộc về một dân tộc
cụ thể, nhất định. Ở mỗi dân tộc, với tư cách cá nhân, con người bao giờ cũng
có mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng dân tộc và mang những nét đặc trưng
về bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc mình.

21
Trong quá trình tìm đường cứu nước, hoạt động trong các phong trào cách
mạng của công nhân và nhân dân lao động các nước, Hồ Chí Minh nhận thấy
rằng, ở ngay tại các nước tư bản phát triển, ở chính quốc cũng không chỉ có những
người giàu có, mà còn có những người nghèo khổ như ở Việt Nam, có những
người phụ nữ phải bán thân nuôi miệng; có những kẻ bóc lột và những người bị
bóc lột. Người thấy rằng, nhân dân Pháp phần nhiều là tốt; song, cũng có những
người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo. Với sự nhận thức đó, Hồ Chí
Minh không chỉ đề cập đến con người dân tộc mà còn đề cập đến con người
giai cấp. Thực vậy, trong xã hội có giai cấp, con người bao giờ cũng nằm
trong một giai cấp nhất định. Những người chiếm đoạt mọi tư liệu sản xuất

của xã hội trở thành giai cấp thống trị, bóc lột; ngược lại, những người bị
chiếm đoạt tư liệu sản xuất, bị bần cùng hoá,… trở thành giai cấp bị bóc lột,
bị thống trị. Với sự phân biệt rất rõ ràng và rạch ròi như vậy, Hồ Chí Minh đã
nhận rõ ai là bạn, ai là thù. Và chính vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, Người luôn đứng về phía giai cấp bị bóc lột, đấu tranh
để bênh vực, bảo vệ và giải phóng họ thoát khỏi ách nô dịch, sự áp bức, bóc
lột của giai cấp thống trị, giai cấp bóc lột. Người từng nói: “Tôi vô cùng công
phẫn trước những tổn thất và tàn phá do quân Mỹ gây ra cho nhân dân và đất
nước chúng tôi; tôi cũng rất xúc động thấy ngày càng nhiều thanh niên Mỹ
chết vô ích ở Việt Nam” [47, tr.488].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người không chỉ là con người giai
cấp, con người dân tộc mà còn là con người nhân loại. Người cho rằng, con
người dù thuộc dân tộc, hay giai cấp nào thì cũng có điểm chung là sinh ra
phải được bình đẳng, tự do và được mưu cầu hạnh phúc, phải được hưởng các
quyền con người. Trong bản Tuyên ngôn độc lập công bố trước quốc dân
đồng bào và toàn thế giới vào ngày 2 - 9 - 1945, Hồ Chí Minh mở đầu bằng
những giá trị pháp lý và đạo lý mang tính phổ biến, những “lẽ phải không ai
chối cãi được” là: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá

22
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [39, tr.1].
Với ý thức của người cộng sản chân chính, thấm nhuần chủ nghĩa quốc tế vô
sản, Người không chỉ cảm thông với những người dân mất nước, những người
cùng khổ, những người bị mất con, mất chồng trong các cuộc chiến tranh phi
nghĩa mà còn tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc, thực dân đã tước đi sinh
mạng của bao người vô tội. Người cho rằng, người Pháp hay người Việt, dòng
máu Pháp hay dòng máu Việt cũng đều được trân trọng như nhau.
Quan điểm về sự thống nhất giữa con người giai cấp, con người dân tộc
và con người nhân loại của Hồ Chí Minh là sự bổ sung, tiếp tục phát triển

quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Đồng thời, là cơ sở để sau này Người đặt vấn đề giải phóng con người gắn
liền với vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Sự
nghiệp giải phóng này dựa trên cơ sở giải quyết những mâu thuẫn kinh tế, văn
hoá, chính trị của xã hội hiện đại. Cách tiếp cận và kiến giải như vậy về con
người của Hồ Chí Minh hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng, trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, con người là một chỉnh thể thống nhất mang bản chất xã hội và
mang tính lịch sử. Chữ “Người” trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu
vừa là một con người cá thể cụ thể, vừa là một cộng đồng gia đình, giai cấp,
dân tộc, nhân loại. Đó là con người gắn liền với hoạt động thực tiễn, đấu tranh
cách mạng và cải tạo xã hội.
1.2. CON NGƢỜI VỪA LÀ MỤC TIÊU, VỪA LÀ ĐỘNG LỰC CỦA CÁCH
MẠNG VÀ CÔNG CUỘC XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI
1.2.1. Con ngƣời là mục tiêu của cách mạng và công cuộc xây dựng
xã hội mới
Hoài bão, lý tưởng xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị, nơi thôn

23
cùng xóm vắng không còn tiếng oán sầu,… là một giá trị trong di sản tư
tưởng của lịch sử dân tộc. Những lý tưởng, hoài bão ấy thể hiện chủ nghĩa
nhân văn của con người Việt Nam.
Tiếp nối truyền thống tư tưởng vì con người của dân tộc, kết hợp với
những quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh chỉ có một “…ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành” [39, tr.161]. Người là hiện thân của lý tưởng vì con người trong
thời đại mới.

Đặt con người vào vị trí trung tâm, mục tiêu của sự phát triển xã hội -
đó là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong di sản lý luận Hồ Chí Minh về
con người. Đấu tranh cách mạng nhằm giải phóng con người là nội dung căn
bản đầu tiên, là tiền đề để phát triển con người.
Như chúng ta đã biết, sự thối nát, bạc nhược của chế độ phong kiến, sự
xâm lược và bóc lột tàn tệ của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
làm cho dân tộc ta mất độc lập, nhân dân mất tự do, đồng bào ta phải sống
trong cảnh tối tăm, tủi nhục của kiếp người nô lệ. Hồ Chí Minh đau xót khi
thấy “Chưa có bao giờ ở một thời đại nào, ở một nước nào, người ta lại vi
phạm mọi quyền làm người một cách độc ác trơ tráo đến thế”[31, tr.383].
Người luôn cảm phục và đề cao tinh thần yêu nước, thương dân của các bậc
tiền bối, như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám… Theo Hồ
Chí Minh, con đường cứu nước của các bậc tiền bối ấy thể hiện lòng yêu nước
thiết tha, nhưng chưa phải là con đường đúng đắn và cách mạng. Bởi, họ tiến
hành đấu tranh trước hết chỉ để giải phóng dân tộc khỏi chế độ thực dân, mà
chưa đặt ra vấn đề giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, kết hợp với kinh nghiệm
thực tiễn phong phú của mình và đặc biệt được soi sáng bởi lý luận của chủ

24
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, để giải phóng con
người, cần phải đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội. Các cuộc giải phóng này luôn gắn bó chặt chẽ với nhau và chỉ có như
vậy, con người mới được giải phóng hoàn toàn. Mục tiêu vĩ đại của sự nghiệp
giải phóng đó thể hiện tính cách mạng và tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, bởi nó hướng đến các giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của dân tộc
và nhân dân; đồng thời, phản ánh xu hướng vận động tất yếu, hợp quy luật vì
sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Với khát vọng giải phóng con người, với cách nhìn sáng suốt và khoa
học về thời cuộc, với tài năng phân tích thực tiễn một cách biện chứng, Hồ

Chí Minh đặt mục tiêu giải phóng, giành độc lập cho dân tộc lên hàng đầu.
Người hiểu rằng, nếu dân tộc không được giải phóng, không có độc lập thì
cũng không giải phóng được các giai cấp cần lao. Nói cách khác, giải phóng
dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để giải phóng con người và thực hiện
các quyền con người. Nhận thức này trở thành niềm tin sắt đá, trở thành ý chí
và định hướng chiến lược trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng
con người của Hồ Chí Minh.
Mục tiêu giải phóng dân tộc sớm được Hồ Chí Minh vạch ra trong
nhiều tác phẩm, như Đường cách mệnh, Bản án chế độ thực dân Pháp, Chính
cương vắn tắt… Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, tháng 5 - 1941,
Người vạch rõ rằng, trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì không
những toàn thể quốc gia dân tộc còn phải chịu kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
bộ phận, giai cấp đến ngàn năm cũng không đòi được. Khi thực dân Pháp
trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu, kêu
gọi toàn quốc kháng chiến, bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Trong dịp
đến thăm và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong tại
đền Hùng, Người nhấn mạnh rằng, các vua Hùng đã có công dựng nước,

×