Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

tiểu luận cao học hội NHẬP KINH tế QUỐC tế của VIỆT NAM THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.76 KB, 54 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài tiểu luận
Bước sang thế kỷ XXI, trên thế
giới đã có những thay đổi như vũ bão,
đặc biệt là sự thay đổi trong kinh tế.
Nguyên nhân của nó là do sự phát triển
và thành tựu trong cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin và sinh học. Một yêu cầu mới
đặt ra đối với tất cả các nước trên thế
giới, trong đó có cả Việt Nam là phải
tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế. Vì
đây là con đường duy nhất để đưa nền kinh tế phát triển và đạt hiệu quả cao.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại những cơ hội to lớn đối với các nước,
tuy nhiên nó còn tồn tại những thách thức khó khăn đối với nhiều nước trên con
đường xây dựng và phát triển kinh tế.
Trước những cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tê quốc tế. Đảng và
Nhà nước ta đã đề xuất những đường lối, chính sách phù hợp với tình hình trong
nước và thế giới nhằm đạt hiệu quả cao trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam. Ngay từ Đại hội VI (12/1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới
trên tất cả các lĩnh vực của xã hội, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Tiếp đến Đại hội
VII (6/ 1991) đã khẳng định “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Và từ sau Đại hội VIII
(7/1996): “Xây dựng một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới,hướng
mạnh vào xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu... Chủ động tham gia cộng
đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một
cách có chọn lọc với bước đi thích hợp”.


Đường lối hội nhập kinh tế quốc tế đã được Đảng ta cụ thể hóa trong nhiều
Văn kiện quan trọng như: Nghị quyết 1-NQ/TW (18/11/1996) của Bộ Chính Trị,


Nghị quyết 4–NQ/HNTW của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (29/12/1997).
Đặc biệt, Đại hội X của Đảng (4/2006) đã nêu rõ quan điểm: “chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực
khác” [5, 112]. Đại hội không chỉ nhấn mạnh tính chủ động, mà cả tính tích cực
của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Là một sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị, được học tập và nghiên
cứu các chuyên đề Kinh tế chính trị, tác giả nhận thấy hội nhập kinh tế quốc tế là
một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu đối với nền kinh tế của Việt Nam.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam - thực
trạng và giải pháp” nhằm tìm hiểu thực trạng đồng thời đề xuất một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tiểu luận
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, cùng
với xu thế phát triển của toàn cầu, nước ta không ngừng chuẩn bị cho hội nhập
kinh tế quốc tế. Đây là lĩnh vực rất cần thiết, chỉ có nó mới tạo được thị trường
kinh tế rộng lớn, gắn kết giữa các quốc gia và làm cho kinh tế phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế
quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một
cách có hiệu quả.
Hội nhập kinh tế quốc tế là lĩnh vực kinh tế rất rộng, đi sâu tìm hiểu có thể
thấy xung quanh nó có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu, chính vì vậy, tác giả chọn
thực trạng và giải pháp của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam làm đối tượng
nghiên cứu.


Với một đề tài ở quy mô vừa, tác giả nghiên cứu dựa trên sự giảng dạy,
truyền đạt kiến thức của quý thầy, quý cô và dựa vào những hiểu biết, những kiến
thức thu nhận được từ một số loại tài liệu như:
-


Toàn cầu hóa kinh tế

-

Kinh tế Việt Nam – Thăng trầm và đột phá

-

Một số vấn đề kinh tế toàn cầu hiện nay

-

Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế

-

Toàn cầu hóa kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế với tiến

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Để hiểu một cách đầy đủ hơn về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, tác
giả sẽ cố gắng tìm hiểu và phân tích các tài liệu thu thập được về hội nhập kinh tế
quốc tế để thấy được thực trạng của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Đồng
thời đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam.
3. Tình hình nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, hội nhập kinh tế quốc tế đã xuất hiện cách đây mấy
chục năm. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế trên toàn thế
giới thì vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được các nước chú trọng và đặc
biệt coi trọng. Chính vì vậy, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đã được rất nhiều nhà
khoa học nghiên cứu và quan tâm. Đã có rất nhiều ấn phẩm nghiên cứu về vấn đề

này như:
- “Toàn cầu hóa kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” của PGS,TS. Nguyễn Xuân
Thắng, Nxb Khoa học xã hội, 2007.
- “Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế của Việt Nam” - Bộ Ngoại Giao - Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.


- “Toàn cầu hóa kinh tế” - GS,TS. Dương Phú Hiệp, TS. Vũ Văn Hà, Nxb
Khoa học - Xã hội, 2001.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các khía cạnh của
hội nhập kinh tế quốc tế nhưng có rất ít những ấn phẩm nghiên cứu về thực trạng
và giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Do
đó, tác giả sẽ cố gắng nghiên cứu vấn đề trên.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài tiểu luận
Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận nhằm tìm hiểu về hội nhập kinh tế quốc
tế, thực trạng và đưa ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam. Để thực hiện được những mục tiêu nói trên, tác giả xác định
cần phải thực hiện những mục tiêu sau:
Thứ nhất, tìm hiểu một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế;
Thứ hai, tìm hiểu về thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam;
Thứ ba, Nêu lên một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài tiểu luận
Để làm sáng tỏ những vấn đề trên, tác giả cố gắng bám sát các khái niệm
được học trong chuyên đề về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong
môn Các chuyên đề kinh tế chính trị. Chính vì vậy, trong quá trình nghiên cứu,
đề tài đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: diễn dịch – quy nạp,
lôgích - lịch sử, phân tích tổng hợp, thu thập, phân loại tài liệu,….
6. Kết cấu

Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm 3
chương 10 tiết.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế
1.1. Khái niệm
1.2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế


1.3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
1.4. Thách thức đối với Việt Nam
1.5. Điều kiện để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
2.1. Quan điểm, mục tiêu của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
2.2. Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế
2.3. Thực trạng của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Chương 3. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam
3.1. Giải pháp đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở tầm vĩ mô
3.2. Giải pháp đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở tầm vi mô

NỘI DUNG


Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế
1.1. Khái niệm
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới là
việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã
diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra
từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang
mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm

đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính
thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Béla Balassa đề xuất
từ thập niên 1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính
sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai
việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và
thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế
quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực
và toàn cầu.
Vì vậy, chúng ta có thể hiểu một cách khái quát nhất: Hội nhập kinh tế quốc
tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế
giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả.
1.2. Nội dung của hội nhập
1.2.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế
Quá trình hội nhập kinh tế diễn ra rất phức tạp, khó quản lý, do vậy, một yêu
cầu đặt ra là phải có những nguyên tắc nhằm kiểm soát quá trình hội nhập. Bất kì


một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng như trên
thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và
nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Dưới đây là một số nguyên tắc
cơ bản sau:
Thứ nhất, không phân biệt đối xử giữa các quốc gia, phải đối xử công bằng
với các nước trong tiến trình hội nhập.
Thứ hai, cạnh tranh công bằng có nghĩa là: mục đích chính là nhằm phát
triển kinh tế, các nước tham gia phải tích cực, chủ động hội nhập dựa trên cơ sở
công bằng và bình đẳng.
Thứ ba, tiếp cận thị trường các nước, áp dụng các hành động khẩn cấp trong
trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển.
1.2.2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế

Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu, nhiệm vụ nhất thời
mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng
như sau này. Hơn thế nữa, Việt Nam là một nước đang phát triển, lại vừa trải qua
chiến tranh tàn khốc, ác liệt... thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế
giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi
dào sẵn có cùng với ngoại lực thuận lợi sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt
Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước
ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến và những kinh nghiệm quý báu
của các nước phát triển đồng thời tạo được môi trường thuận lợi để nền kinh tế
nước nhà phát triển. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội
nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng
cũng đem lại không ít khó khăn, thử thách.


Vì vậy, Đảng ta xác định: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” đó
là chiến lược, chủ trương đúng đắn mà nhân dân ta mong muốn. Hội nhập kinh tế
quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam.
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau, thực
hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư.
Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan
như QUOTA, giấy phép xuất khẩu... biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và
giảm dần theo lịch trình thoả thuận...
Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn
phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua
liên doanh và hiện diện.
Về thị trường đầu tư, không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ
lệ nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ, khuyến
khích tự do hoá đầu tư.
Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam

gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc
được hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi
ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường thế
giới. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch
xuất khẩu của ta sang các nước thành viên cũng đã tăng đáng kể. Năm 1990, Việt
Nam đã xuất khẩu sang ASEAN đạt 348,6 triệu USD, nhưng đến năm 1998 đạt
2349 triệu USD. Nếu thực hiện đầy đủ các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006
hàng công nghiệp chế biến có xuất xứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả các thị
trường của các nước ASEAN. Khi nước ta gia nhập WTO thành công đã được
hưởng ưu đãi dành cho nước đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan
hệ với các nước thành viên của tổ chức này. Do vậy, hàng hóa của ta được xuất


khẩu vào các nước đó dễ dàng hơn. Đối với các nước EU cũng vậy, tiềm năng mở
rộng thị trường hàng hoá Việt Nam tại các nước đó là rất lớn.
1.3. Vai trò của hội nhập

Hình ảnh minh họa cho vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam

Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là một
trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước trên thế giới. Nước nào đóng
cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc
hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy phải trả một cái giá nhất định
song đó là nhu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với những tiến
bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thông và tin học
thì giữa các quốc gia ngày càng có mối liên kết chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh
tế. Xu hướng toàn cầu hóa được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của nền kinh
tế thế giới.
Ngay từ, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII năm 1991, Đảng ta đã đề ra
đường lối, chiến lược phát triển kinh tế mà chủ yếu nhấn mạnh việc mở rộng quan

hệ hợp tác với các nước: “Thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế,
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại”. Tiếp đó, Đại hội Đảng lần VIII đã đề ra nhiệm


vụ: “giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài,
xây dựng nền kinh tế mới, hội nhập với khu vực và thế giới”.
Như vậy, vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế là rất quan trọng và nó được
biểu hiện cụ thể như sau: Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ
tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế - xã hội; Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạp để
nền kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc năm châu; Hội nhập kinh tế quốc tế
sẽ góp phần mở rộng thị trường xuất - nhập khẩu của Việt Nam; Hội nhập kinh tế
quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính
thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội
để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ
mang vốn và công nghệ vào nước ta, sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của
nước ta tạo ra sản phẩm, nó được tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với
các ưu đãi. Từ đó, nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút
vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động
và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Viện trợ phát triển ODA: Việt Nam tiến hành bình thường hoá quan hệ tài
chính, các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế đã tháo gỡ từ năm
1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc xây
dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Tính đến 1999, tổng số vốn viện trợ phát
triển cam kết đã đạt 13,04 tỉ USD. Tuy nhiên, vấn đề quản lý và sử dụng nguồn
vốn ODA còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là tình trạng giải ngân chậm và việc
nâng cao hiêu quả của việc sử dụng nguồn vốn ODA.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ của Việt
Nam. Trong những năm qua, nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương

và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã được giải


quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp
phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội trong nước.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa
học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh.
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công nghệ tiên
tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội nhập kinh
tế quốc tế là con đường khai thông thị trường nước ta với thị trường khu vực và thế
giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kĩ thuật,
cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Bởi
mỗi khi liên doanh, liên kết hay được nước ngoài đầu tư thì từ người lao động đến
các nhà quản lý đều được đào tạo tay nghề, trình độ, chuyên môn được nâng cao.
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Đây là thành tựu lớn nhất, sau hơn một thập niên triển khai các hoạt động hội nhập.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta
với các nước khác.
Với dân số khoảng 86 triệu người ( năm 2009), nguồn nhân lực nước ta khá
dồi dào. Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực
trong nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội
để nguồn nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thông
qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các
hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời, tạo cơ hội để nhập khẩu
lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có.



1.4. Thách thức đối với Việt Nam
Những lợi ích của hội nhập kinh tế
mang lại là rất lớn. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt thuận lợi ấy, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra những
thách thức và khó khăn không nhỏ mà
Việt Nam phải đối mặt, cụ thể:
Một là, cạnh tranh trở nên quyết
liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các

nước trên thị trường quốc tế để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà còn cạnh tranh
ngay trên thị trường trong nước. Điều đó gây sức ép không nhỏ đối với nhiều
doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước,
những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu kém, tình trạng này lại
khá phổ biến ở doanh nghiệp nước ta.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các
yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong
đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức ở đây là đề ra được những chính
sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng
động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường
các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn. Tóm lại, phải
tạo dựng được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực
diễn ra một cách suôn sẻ, với chi phí thấp.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách
cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều
nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại
nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện
môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các



thành phần kinh tế. Đồng thời, không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh
để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. Nói
đúng hơn, chúng ta cần phải hoàn thiện các văn bản pháp lý, các quy định, quy tắc
về kinh tế và thương mại. Các văn bản cần phải nghiêm, tránh rườm rà, thủ tục
nhanh gọn song vẫn đảm bảo tuân theo đúng pháp luật.
Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền
hành chính quốc gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh
bạch hóa nên khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự
thay đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là
nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh
nghiệp và doanh nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm
phục vụ, khắc phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm.
Năm là, để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm về
chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh
nhân đủ mạnh. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông
cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham
gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, thách thức này sẽ
chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.
Sáu là, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa.
Việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện
nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi hỏi các cấp lãnh
đạo, quản lý và nhân dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối
sống hưởng thụ, tự do tư sản.
Qua những thách thức được nêu trên thì dẫn đến những thách thức đối với
các cơ quan, tổ chức như:
Thách thức đối với Chính phủ



Phải sửa đổi và xây dựng cơ chế chính sách phù hợp với các quy định của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO):
Sửa đổi và xây dựng mới khối lượng lớn văn bản luật và pháp lệnh.
Khuôn khổ pháp luật về kinh tế thương mại cần được hoàn thiện để hoạt
động hiệu quả hơn và phù hợp hơn với các quy định và chuẩn mực quốc tế.
Nội luật hóa những vấn đề mới phát sinh trong thương mại quốc tế.
Bỏ các phương thức quản lý không phù hợp với WTO như những lệnh cấm,
hạn chế định lượng, trợ cấp không đúng qui định.
Xây dựng các chính sách mới phù hợp với quy định của WTO như AMS, hỗ
trợ xuất khẩu trong xúc tiến thương mại, nâng cao chất lượng hàng hóa, hỗ trợ
cước vận tải.v.v…
Nguồn thu ngân sách bị suy giảm: Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ làm
giảm đáng kể nguồn thu ngân sách trong giai đoạn đầu.
Thách thức đối vối doanh nghiệp và xã hội
Mở cửa thị trường dẫn tới cạnh tranh gay gắt trong khi doanh nghiệp Việt
Nam phần lớn vốn ít, công nghệ không cao, năng suất lao động thấp, khả năng
cạnh tranh không cao.
Doanh nghiệp không được Nhà nước bao cấp vì phải bỏ những loại trợ cấp,
hỗ trợ trái quy định của WTO.
Các doanh nghiệp chưa sẵn sàng tận dụng những cơ hội tiếp cận thị trường
mới do hạn chế khả năng và kiến thức hiểu biết thị trường bạn. Các nước lại có xu
hướng áp đặt nhiều biện pháp bảo hộ thông qua các biện pháp kỹ thuật, chống bán
phá giá, trợ cấp, tự vệ, tiêu chuẩn môi trường.
Cạnh tranh trên thị trường nội địa sẽ tăng khi các hàng rào thương mại được
cắt giảm.
Những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh kém có nguy cơ phá sản, hoặc
giảm lợi nhuận vì tác động của giảm thuế mở cửa thị trường.



Doanh nghiệp Việt Nam sẽ thường vấp phải nhiều tranh chấp trong thương
mại quốc tế và luôn ở thế yếu hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn
nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống
pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều
thì đây là khó khăn không nhỏ.
Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi
trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện
rộng hơn, sâu hơn.
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt
nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự
thua thiệt về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược
thông minh, chính sách không khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được lợi
ích nhiều hơn cho đất nước.
1.4.1.Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay


Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình phát triển kinh tế giai đoạn 2000 – 2010

Bước ra khỏi chiến tranh năm 1975, Việt Nam gặp phải vô vàn khó khăn,
đặc biệt là khó khăn về kinh tế. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, nước ta đang dần vượt qua những khó khăn và đạt được nhiều thành tựu
trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục...
Sau đây là một số thành tựu đã đạt được: Trong những năm gần đây, kinh tế
Việt Nam có những biến đổi quan trọng và ngày càng khẳng định vị trí của mình
trên trường quốc tế. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống Kê Việt Nam năm
2008 thì xuất khẩu đạt được khoảng 64,8 tỷ USD Mỹ, trong đó khoảng 32,1% giá
trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản; 45,2% là hàng công nghiệp

nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; 23,5% là hàng nông, lâm, thủy sản. Trong khi đó cùng
năm, giá trị nhập khẩu ước đạt 60,8 tỷ USD, trong đó, ước khoảng 30,2% giá trị
nhập khẩu là máy móc, thiết bị, dụng cụ các loại; 63,7% là nguyên, vật liệu; chỉ có
6,1% là hàng tiêu dùng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp ngày càng tích cực vào tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, giá trị đầu tư thực tế và giá trị giải ngân thấp hơn
nhiều so với giá trị đăng ký. Tính theo giá trị lũy kế từ năm 1988 đến hết năm


2007, công nghiệp và xây dựng là lĩnh vực thu hút được nhiều FDI nhất với 67%
số dự án và 60% tổng giá trị FDI đăng ký. Sau đó, đến khu vực dịch vụ với 22,3%
số dự án và 34,3% về giá trị. Trong số 82 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt
Nam, các nước đầu tư nhiều nhất tính theo giá trị FDI đăng ký lần lượt là Hàn
Quốc, Singapore, Đài Loan và Nhật Bản. Còn theo giá trị FDI thực hiện thì Nhật
Bản giữ vị trí số một. Các tỉnh, thành phố thu hút được nhiều FDI (đăng ký) nhất
lần lượt là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu. Riêng năm 2008, số FDI mới đăng ký (nghĩa là không tính số xin phép
tăng vốn phát sinh trong năm) đạt 32,62 tỷ USD. Việt Nam cũng đầu tư ra nước
ngoài tới 37 quốc gia và lãnh thổ, nhiều nhất là đầu tư vào Lào. Tính đến hết năm
2007, có 265 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký
khoảng 2 tỷ USD và vốn thực hiện khoảng 800 triệu USD. Đầu tư vào lĩnh vực
công nghiệp chiếm phần lớn, tiếp theo là nông và lâm nghiệp.
Việt Nam bắt đầu chủ trương hội nhập kinh tế từ sau Đại hội Đại biểu Toàn
quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau Đại hội Đại biểu Toàn
quốc lần thứ VIII (1996), chủ trương này càng được nhấn mạnh. Hội nhập kinh tế
của Việt Nam diễn ra ngày một nhanh hơn và sâu hơn. Từ chỗ chỉ hợp tác thương
mại thông thường đã tiến tới hợp tác kinh tế toàn diện, từ chỗ hợp tác song phương
đã tiến tới hợp tác kinh tế đa phương. Cho đến giữa năm 2007, Việt Nam đã có
quan hệ kinh tế với 224 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã ký hơn 350 hiệp
định hợp tác phát triển song phương, 87 hiệp định thương mại, 51 hiệp định thúc
đẩy và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định tránh đánh thuế hai lần và 81 thoả thuận về đối

xử tối huệ quốc. Đỉnh cao về hợp tác kinh tế song phương là việc ký hiệp định đối
tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, còn về hợp tác kinh tế đa phương là việc ký hiệp
định gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới với tiêu chuẩn “WTO Plus”, nghĩa là
chấp nhận các đòi hỏi về tự do hóa thương mại (hàng hóa và dịch vụ), đầu tư, mua
sắm của chính phủ cao hơn so với mức độ quy định trong các văn kiện có hiệu lực


đang áp dụng của WTO. Như vậy, trên tất cả các mặt nước ta đã đạt được thành
tựu lớn, đặc biệt trên lĩnh vực ngoại giao.
Bên cạnh những thành tựu nước ta đã đạt được thì còn tồn tại khá nhiều khó
khăn được bộc lộ qua năm điểm yếu sau:
Thứ nhất, cấu trúc thị trường hiện nay phát triển không đồng bộ, trong đó
bao gồm thị trường đất đai, các thị trường đầu vào cơ bản.
Thứ hai, nguồn nhân lực tiếp tục cản trở quá trình tăng trưởng kinh tế lâu dài.
Thứ ba, là khu vực doanh nghiệp hiện nay thiếu và yếu, mặc dù đã chứng tỏ
ít nhiều sự linh hoạt. Độ liên kết giữa các doanh nghiệp cũng lỏng lẻo.
Thứ tư, năng lực quản trị phát triển ở tầm vĩ mô còn thấp xa so với nhu cầu
của quá trình hội nhập, trong đó có cải cách hành chính. Trong năm khủng hoảng
vừa rồi, điểm yếu này còn bộc lộ rõ ràng hơn.
Thứ năm, là những nút thắt tăng trưởng vẫn chưa được giải quyết.
Bên cạnh đó, còn một số hạn chế như: Nền sản xuất còn mang tính tự phát,
chưa bám sát nhu cầu thị trường; Nhiều sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành
cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí có
nhiều sản phẩm cung vượt quá cầu, hàng tồn kho lớn; Năng lực cạnh tranh, hàng
hoá, dịch vụ của nước ta nói chung còn thấp do trang thiết bị công nghệ của nhiều
doanh nghiệp còn yếu kém dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp và lạc hậu so với thế
giới; Khả năng quản lý còn bộc lộ rất nhiều yếu kém.
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỉ lệ số
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều, thực trạng tài chính của nhiều
doanh nghiệp thực sự đáng lo ngại: nhìn chung thiếu vốn, nợ nần kéo dài. Nhiều

doanh nghiệp ỷ lại vào Nhà nước, chưa tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình
hội nhập khu vực và thế giới. Như tập đoàn Vinasin là một minh chứng rõ ràng.
Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải tiến song
nhìn chung còn chưa thuận lợi: khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho cạnh tranh


bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực của một
số tổng công ty nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, sự thiếu
minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục
hành chính còn rườm rà, chưa thông thoáng. Các thể chế thị trường như thị trường
vốn, sức lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản... còn sơ khai,
chưa hình thành đồng bộ.
Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dào nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao động
rẻ có xu hướng đang mất dần.
Trước mắt, do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường rộng lớn nên
ngành may mặc và giầy da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất trong nhóm
lăm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, lợi thế về nhân
công rẻ đang mất dần và giá nhân công các ngành này hiện đang cao hơn một số
nước trong khu vực. Hơn thế nữa, để đào tạo nghề, nâng cao kĩ năng, trình độ tay
nghề cần phải chi phí đầu tư lớn, điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên,
ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá. Như vậy, bên cạnh những thành tựu
đã đạt được thì nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, sức cạnh tranh thấp.
1.4.2. Những nguy cơ của Việt Nam khi tham gia kinh tế quốc tế và khu vực
Thế giới trong thế kỷ XXI, tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và
khó lường. Toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các
nước. Các quốc gia lớn, nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội
nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi
bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xẩy ra ở nhiều nơi với tính chất và

hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp.
Thế kỷ XXI, đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chứa đựng rất
nhiều thách thức. Sau gần hai thập kỷ, tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế


và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình
chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế
và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy
nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải
đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn
tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra đến
nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau.
Do đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần phải chung sức, chung lòng để
khắc phục những sai lầm, yếu kém trong sản xuất, quản lý để xây dựng một nước
Việt Nam ngày một giàu mạnh.
1.5. Điều kiện để Việt Nam gia nhập
1.5.1. Lợi thế cơ bản của nước ta khi hội nhập
Thứ nhất, về vị trí địa lý thuận lợi.
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á, là nơi gặp gỡ
của những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh tạo nên tự nhiên
Việt Nam phong phú và đa dạng. Điều này có tác động sâu sắc đến cơ cấu, quy mô
và hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Việt Nam nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương, trở thành một đầu mối
giao thông quan trọng từ Ấn Độ Dương tới Thái Bình Dương. Vị trí này cho phép
nước ta có thể dễ dàng phát triển các kinh tế thương mại, văn hoá, khoa học kĩ
thuật với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi
động nhất thế giới. Điều này tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam nâng cao

năng lực cạnh tranh, chủ động phát triển kinh tế. Việt Nam có điều kiện giao


lưu với những thị trường sôi động, học hỏi được những kinh nghiệm quý báu
của các “con rồng Châu Á”.
Thứ hai, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng. Việt Nam có
nhiều loại tài nguyên thiên nhiên, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế lớn
nhưng chưa được khai thác hoặc khai thác ở mức độ thấp, sử dụng chưa hợp lý.
Đây là nguồn lực bên trong để phát triển kinh tế, đồng thời là đối tượng đầu tư của
tư bản nước ngoài.
Thứ ba, có nguồn nhân lực dồi dào, trẻ, có khả năng tiếp thu khoa học – kỹ
thuật cao. Nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ, chăm chỉ lao động...
Những lợi thế trên đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tiến
hành hội nhập kinh tế quốc tế.
1.5.2. Nhiệm vụ cần phải thực hiện khi hội nhập
Theo Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị những nhiệm vụ quan trọng cần được
thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là:
Thứ nhất, tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích. Cần
phải thực hiện việc tuyên truyền rộng rãi trong các tổ chức đảng, chính quyền,
đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức
và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế quốc tế. Các tổ chức,
đoàn thể phải coi đó là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế
nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng hội nhập và quyết tâm của nhân dân ta
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2001 - 2010 cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà
nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể
để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng
cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả.



Thứ ba, chủ động và khẩn trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới
công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi
thế so sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế
giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hóa và dịch vụ của ta
chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn ở trong nước cũng như trên thế giới, đáp ứng
nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tư, tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện
các loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công nghệ, vốn,
bất động sản...; tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành
phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước đối với
nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng.
Thứ năm, có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực,
vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có
đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp
và tinh thần kỷ luật cao.
Thứ sáu, kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại.
Cũng như trong lĩnh vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hóa,
đa dạng hóa thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế.
Thứ bảy, “gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố
an ninh quốc phòng” ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng
như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực
tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ quan
quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi
cho quá trình hội nhập.



Thứ tám, tích cực tiến hành đàm phán để bảo vệ quyền lợi cho người sản
xuất cũng như người tiêu dùng sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Cần phải theo dõi tình hình thế giới để đề xuất những phương án và lộ
trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh của nước ta, vì nước ta là nước đang phát triển
ở trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Gắn kết quá
trình đàm phán với quá trình đổi mới mọi mặt hoạt động kinh tế ở trong nước. Nếu
như tận dụng tốt các thuận lợi khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới thì
chúng ta sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn, khả năng ngoại giao với các nước trên
thế giới và khu vực được mở rộng.
Thứ chín, kiện toàn Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, đủ năng lực và
thẩm quyền giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh
tế quốc tế. Ủy ban gồm hai bộ phận: một bộ phận chuyên trách và một bộ phận kiêm
nhiệm bao gồm đại diện có thẩm quyền của các Bộ, Ban, ngành hữu quan.


Chương 2. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
2.1. Quan điểm, mục tiêu của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
2.1.1. Quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay quốc gia nào tách ra khỏi dòng thác của lịch sử là tự huỷ diệt
mình. Tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu đều tìm cách để hội nhập
kinh tế quốc tế một cách hiệu quả nhất. Việt Nam đã và đang bước vào nền kinh tế
hội nhập với những lợi thế và thách thức, chúng ta hội nhập theo những quan điểm
riêng của mình. Do đó, nắm vững các quan điểm của Đảng ta về hội nhập kinh tế
quốc tế là hết sức cần thiết.
Để tìm hiểu quan điểm của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế. Trước tiên,
chúng ta phải nắm vững đường lối, quan điểm chung của Đảng ta về đổi mới đất
nước và phát triển kinh tế. Đặc biệt, phải nắm vững quan điểm về đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta. Cụ thể như sau:
Một là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; Việt Nam muốn làm bạn

và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển.
Hai là, tiếp tục tạo môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước,
các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe doạ vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải


quyết các bất đồng và các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; chống mọi hành
động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Trong Nghị quyết 07, Bộ Chính Trị đã nêu ra quan điểm chỉ đạo về chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, đảm
bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Trên nền tảng phân tích các quan điểm chỉ đạo về chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế trên chúng ta có thể thấy rõ quan điểm của Đảng ta, cụ thể như sau:
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế là do yêu cầu nội sinh, do yêu cầu xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với việc giữ vững độc lập dân
tộc và chủ quyền đất nước. Ở đây, chúng ta cần hiểu rõ, cần có tư duy mới về kinh
tế độc lập tự chủ. Kinh tế độc lập tự chủ khác với kinh tế tự cung tự cấp. Độc lập tự
chủ về kinh tế trong hội nhập là khẳng định mở cửa hội nhập để khai thác các mặt
có lợi cho sự phát triển kinh tế của ta từ nền kinh tế thế giới. Do đó, muốn bảo đảm
độc lập tự chủ phải mở cả về cơ cấu kinh tế lẫn cơ chế kinh tế, phải đa phương hoá

không để cho một nước nào, một nền kinh tế nào, một tập đoàn nào giữ vị trí độc
quyền, chi phối bất cứ một lĩnh vực, một sản phẩm thiết yếu nào của nền kinh tế
chúng ta. Đây chính là nền tảng vững chắc nhất bảo đảm cho chúng ta vừa hội
nhập kinh tế quốc tế vừa giữ được quyền độc lập tự chủ.
Ba là, chúng ta chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là chính,
đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời, thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Ở đây, chúng ta cần chú


×