Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tiểu luận cao học Trình bày quan điểm về vai trò của “con người” trong các hoạt động chiến dịch truyền thông hướng tới phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.39 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Như chúng ta biết một trong những phát triển quan trọng nhất và thú vị
trong việc tái lập hệ thống thông tin chính là việc cam kết xây dựng một
chương trình thông tin công cộng dân chủ, có sự tham gia và theo nhu cầu,
nơi người dân là yếu tố quan trọng nhất. Bằng cách này, chúng tôi muốn nói
truyền thông được thúc đẩy bởi nhu cầu của người dân, nó tạo điều kiện cho
sự tham gia của công dân trong việc tạo ra và sử dụng thông tin, và mở các
hoạt động của chính phủ cho sự giám sát của công chúng, qua đó thúc đẩy
dân chủ và hiệu quả.
- Chính phủ đã đồng ý với phương thức đối thoại với công dân, đây được
coi là “truyền thông phát triển”
- Truyền thông phát triển có thể được xem là việc liên kết các sáng kiến
phát triển của quốc gia nhằm xóa bỏ những lạc hậu về kinh tế xã hội.
- Truyền thông phát triển được triển khai ở nhiều lĩnh vực chính sách
công cộng – vệ sinh môi trường, sức khỏe, an toàn, ổn định kinh tế, nông
nghiệp, quyền sử dụng đất vv…Truyền thông phát triển nói tới cả nội dung
được truyền đạt cũng như cách thức thông điệp được chuyển đến người nhận.
Trong khuôn khổ tiểu luận em xin phép được “Trình bày quan điểm về
vai trò của “con người” trong các hoạt động/chiến dịch truyền thông
hướng tới phát triển bền vững.
1. Lịch sử
Truyền thông phát triển là một cách tiếp cận được hoàn thiện bởi các
nước đang phát triển. Vì thế phản ánh thực tế đời sống của hàng triệu người
nghèo trên thế giới và được kết nối với những nỗ lực của họ nhằm cải thiện
cuộc sống cho tốt đẹp hơn.

1


Phương pháp này lần đầu tiên được sử dụng trong lĩnh vực nông nghiệp
và những sứ giả truyền thông phát triển đầu tiên chính là các cán bộ về


khuyến nông cấp làng, xã, rồi phát triển mạnh từ những năm 1950s trở đi
2. Truyền thông phát triển là gì?
TTPT là sự kết hợp truyền thông một cách chiến lược trong các dự án
phát triển. Truyền thông một cách chiến lược là một công cụ mạnh mẽ có thể
cải thiện cơ hội thành công của dự án phát triển. Nó cố gắng để thay đổi hành
vi chứ không chỉ là phổ biến thông tin, giáo dục, hoặc nâng cao nhận thức.
Phát triển đòi hỏi một số loại thay đổi hành vi của các bên liên quan. Nghiên
cứu cho thấy rằng việc thay đổi kiến thức và thái độ không nhất thiết đem lại
thay đổi hành vi. Để có thể thay đổi hành vi, cần phải hiểu tại sao người ta
làm những gì họ làm và hiểu được các rào cản khi thay đổi hoặc áp dụng các
phương pháp mới. Việc nhấn mạnh đến “lợi ích” là không đủ, cần hiểu được
cái “giá” mà việc thay đổi sẽ gây ra.
Truyền thông hiệu quả là về việc đưa thông tin tới từng nhóm đối tượng
cụ thể, lắng nghe phản hồi của họ, và đáp ứng phù hợp. Dù thảo luận về một
dự án phát triển hoặc các vấn đề cải cách kinh tế lớn hơn – từ y tế, giáo dục,
phát triển nông thôn để phát triển khu vực tư nhân, cải cách tài chính, cải cách
tư pháp – vấn đề ở chỗ xây dựng sự đồng thuận thông qua việc nâng cao hiểu
biết và tạo ra cuộc đối thoại đầy đủ thông tin giữa các bên liên quan.
Việc thực hiện một cách chuyên nghiệp, hiệu quả các chương trình
truyền thông trong các những nỗ lực cải cách hoặc gắn liền với mục tiêu dự
án phát triển giúp mang lại sự hiểu biết về thực tiễn chính trị, xã hội và văn
hóa của địa phương cần cho việc thiết kế các chương trình phát triển có thể
tạo ra khác biệt giữa thành công hay thất bại của các chương trình này.
Truyền thông phát triển được mô tả là một phương thức truyền thông
đem lại cho cộng đồng những thông tin mà họ có thể sử dụng để làm cho cuộc
sống của họ tốt đẹp hơn, với mục tiêu làm cho các chương trình và chính sách
công thực tế, có ý nghĩa và bền vững. Những thông tin này còn phải đáp ứng
2



nhu cầu thông tin mà cộng đồng yêu cầu. Kết quả của cách tiếp cận này, tóm
lại là tạo ra sự khác biệt về chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
Nora Quebral, một học giả hàng đầu trong lĩnh vực này xác định các
thông tin liên lạc phát triển như sau:
- Truyền thông phát triển là một nghệ thuật và khoa học của con người
- Truyền thông được áp dụng cho sự chuyển đổi nhanh chóng của một quốc
gia và đa phần người dân từ nghèo đói sang được một mức phát triển kinh tế
cao hơn qua đó đem lại bình đẳng xã hội và đáp ứng được các nhu cầu của
con người một cách tốt hơn.
3. Truyền thông phát triển
Các nguyên lý của truyền thông sẽ đem lại cho tiến trình phát triển một
số lợi ích sau:
- Một phương tiện để khảo sát nhưng môi trường mới đặc biệt là bằng
cách thiết lập các phương tiện, công cụ, tham vấn
- Một phương tiện để nâng cao nhận thức và hiểu biết của cộng đồng về
các vấn đề liên quan, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả – cái gì
đó để khao khát
- Một phương tiện để thúc đẩy phản hồi – một quá trình hai chiều năng
động có thể được thiết lập giữa con người và ‘người làm phát triển’
-Một phương tiện để dạy các kỹ năng mới
- Một giấc mơ trên toàn quốc và một phương tiện để ra được những
chương trình hướng tới xây dựng đất nước.
4. Các Yếu tố chính của Phương thức tiếp cận truyền thông phát triển
-

TTPT là đáp ứng nhu cầu: nó không cung cấp thông tin “vô nghĩa” –

thông tin mà người ta không muốn biết, cho dù những người lập kế hoạch ở
cấp trung ương coi là rất quan trọng. Nhân dân hiểu rõ nhu cầu của họ và
thông qua phương pháp tiếp cận truyền thông này sẽ trở thành một công cụ


3


trong quá trình lập kế hoạch và phát triển, không phải là một phương tiện, cơ
chế để thuyết phục cộng đồng khi quyết định không tốt đã được đưa ra.
-

TTPT xoay quanh thông tin phản hồi: nó không phải là một quá trình

một chiều mà bao gồm những cơ chế đối thoại về những thông tin được đưa
ra. Đó cũng là quy trình tư vấn được triển khai tới cộng đồng.
-

Đổi mới và sáng tạo: các thông điệp không được mờ nhạt và nhàm

chán, cần làm rõ những thông tin được truyền tải sẽ tạo sự khác biệt như thế
nào đối với đời sống của người nhận thông tin – nó cần tạo ra sự tin tưởng và
sự tự tin (được cộng đồng địa phương chấp nhận). Những người làm Truyền
thông phát triển, tuy nhiên, cần cân bằng giữa sáng tạo với mức độ chấp nhận
và những giá trị của cộng đồng nhận thông tin.
-

Giá trị Độc lập: nó không phải là “những gì chính phủ nói”. Cách tiếp

cận này góp phần xây dựng những cơ chế có sự tham gia và hoạt động mạng
lưới, tổ chức phi chính phủ, tổ chức cộng đồng, đồng thời khuyến khích liên
kết với mạng lưới trên khắp đất nước và thực sự trên toàn thế giới.
-


Tính bền vững và liên tục: nó không phải là những thông tin bị lãng

quên trong một cộng đồng và không bao giờ quay trở lại trong nhiều tháng.
-

Thiết lập nền tảng chung với cộng đồng những người được người

nhận của các thông tin / thông điệp: không phải là việc những công chức chỉ
thỉnh thoảng xuất hiện tại cộng đồng làm “chuyên gia” để chỉ bảo hay giúp
đỡ cộng đồng. “chuyên gia về bóng ma ‘một số để” giáo dục và nâng lên của
cộng đồng. Mà các tiêu chuẩn, quy phạm, các giá trị, thói quen của cộng đồng
phải là tối thượng.
-

Sự tham gia của cộng đồng: chương trình phát triển được thiết kết

cho cộng đồng hoặc đem lại thông tin mà các những người thiết kế dự án cho
rằng cộng đồng cần, thường không mang tính chủ động cho dù vẫn có thể bền
vững. Một trọng tâm chính của phương pháp này là lên kế hoạch với các cộng
đồng, tạo ra các cơ chế trong đó cộng đồng và người làm phát triển có vị thế
4


bình đẳng, và sử dụng phương pháp truyền thông có sự tham gia. Điều này
thường đòi hỏi các nhà hoạch định chính phủ, các nhà phát triển hoặc nhân
viên cộng đồng phải nghe lời tham vấn của cộng đồng và thay đổi các quan
điểm của mình.
-

Sự tiếp cận và sự hiện diện của chính phủ, nơi chính phủ không còn


là một thực thể xa lạ và không biết đến những kinh nghiệm phát triển cộng
đồng. Cách tiếp cận giảm thiểu, loại bỏ việc cộng đồng phải di chuyển xa, với
chi phí tương đối lớn để có thể tiếp cận các dịch vụ và thông tin từ chính phủ.
Còn là những khó khăn khi các cơ quan chính phủ không được xác định rõ
ràng, khó nhận dạng, các tòa nhà không tiếp cận, và những cán bộ không thân
thiện, không chuyên nghiệp. Các phương pháp tiếp cận truyền thông phát
triển giúp nhân viên chính phủ gặp mặt trực tiếp với cộng đồng qua đó tăng
cường tính chịu trách nhiệm, lòng tin ở địa phương.
-

Sử dụng ngôn ngữ đơn giản và có liên quan mà những quan niệm gắn

bó với những kinh nghiệm của cộng đồng, sử dụng ngôn ngữ riêng của cộng
đồng, và cộng đồng tham gia vào xây dựng các bộ tài liệu trong các chương
trình truyền thông phát triển.
5. Phương pháp được sử dụng cho truyền thông phát triển
-

Việc thừa nhận của địa phương: Nghiên cứu các trường hợp cụ thể

và thí điểm các các chương trình
-

Chương trình gắn bó cộng đồng có hòa hợp với nhịp điệu cuộc sống

của cộng đồng: kết nối các sự kiện tại cộng đồng, nơi mà các cán bộ truyền
thông được cộng đồng biết tới và thừa nhận (! Không nổi tiếng mặc dù), ăn ngủ
tại cộng đồng, sống cùng với cộng đồng khi thực hiện các chuyến công tác;
-


Video: đào tạo kỹ năng cơ bản và đảm bảo tài trợ trang thiết bị.

Video sau đó ghi lại những vấn đề quan trọng đối với cộng đồng, hoặc nội
dung cuộc họp cộng đồng, sau đó có thể gửi đến những người làm chính sách
địa phuơng…
5


-

Chương trình gắn bó với các nhóm người cụ thể: Đề án thanh niên trẻ

về cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống….
-

Các vòng thảo luận nhóm tại cộng đồng: các bên liên quan hoặc

người đại diện thảo luận về các vấn đề quan trọng cho cộng đồng – nhu cầu
thông tin, thắc mắc về dịch vụ được giao, vv Đây là một cuộc thảo luận mở
theo các nguyên tắc của nhóm nhỏ năng động
-

Diễn đàn trên đài phát thanh: chương trình phát sóng trực tiếp hoặc

được thiết kế để phát thanh tại cộng đồng. có thể là các nhóm chuyên gia,
lãnh đạo địa phương, đại điện cộng đồng trao đổi về chủ đề liên quan… các
loại chương trình khác nhau…
-


Các công cụ, phương tiện khác có sự tham gia của Cộng đồng: các

cuộc thảo luận trực tiếp có sự tham gia, các cộng đồng, mạng lưới, trường học
nơi có thể huy động nhiều đại diện, nhiều người…
- Truyền hình: (thông thường như mô tả ở trên, nhưng có thể cũng hiển
lộ như tính năng cho trình điều quốc gia nơi mà các đài truyền hình quốc gia
có chương trình cụ thể được phát triển trong tự nhiên)
-

Băng cassette/ đĩa: người ghi lại những kinh nghiệm riêng của họ và

điều này được cho ăn, người ra quyết định bản địa hình thức phỏng vấn
chuyên sâu trong khi các thành viên cộng đồng đang bận rộn với công việc
của họ hoặc công việc là một trong câu hỏi (địa phương thất nghiệp thanh
niên ngồi trong quán rượu một)
-

Kịch, sân khấu: là một trong những giải pháp tốt để nói về những

điều nhạy cảm mà mọi người không tiện đề cập.
6. Những đặc điểm của người làm truyền thông phát triển tại “cấp cơ sở”
- Nhiệt huyết và gắn bó với nhu cầu của cộng đồng
- Theo “tiếng gọi” của cộng đồng, đặt cộng đồng lên trước
-

Có kỹ năng đa dạng và dễ đáp ứng

6



-

Có hiểu biết về nhiều lĩnh vực của chính phủ, cơ cấu, chương trình,

chính sách
-

Có kỹ năng thúc đẩy tốt

-

Có hiểu biết tốt về cộng đồng nơi mình làm việc – lịch sử, con người,

ngôn ngữ, kinh tế cơ bản, cấu trúc, các tổ chức, địa chỉ liên lạc cụ thể
-

Sáng tạo: Hiểu biết về nhiều phương pháp sáng tạo của truyền thông

phát triển
-

Biết và chấp nhận những giới hạn của cá nhân: Biết khi nào cần tìm

tới những chuyên gia để đảm bảo những kinh nghiệm, dịch vụ tốt nhất được
truyền đạt.
7. Nhiệm vụ của cán bộ truyền thông phát triển:
- Liên kết, hoạt động mạng lưới
- Kỹ năng thúc đẩy tốt
-


Kỹ năng phỏng vấn

-

Năng năng diễn dịch thông tin

-

Hiểu biết về công nghệ truyền thông (hỗ trợ cộng đồng tận dụng được

những công nghệ truyền thông)
-

Liên kết, kết nối với các mối quan hệ khác khi cần thiết

-

Nghiên cứu

- Đào tạo
-

(một số hiểu biết, kỹ năng về hành chính, báo cáo, tài chính….)

8. Mô hình truyền thông có sự cùng tham gia (hay mô hình truyền
thông hai chiều mềm dẻo - Participatory communication)
Mô hình truyền thông có sự cùng tham gia ra đời là kết quả tất yếu
của sự phê phán quá trình truyền thông một chiều của mô hình phổ biến
kiến thức. Mô hình cùng tham gia có phương pháp tiếp cận từ dưới lên,
đặc biệt chú trọng đến bản sắc văn hóa của địa phương cũng như sự dân

chủ và cùng tham gia ở mọi cấp độ. Hay nói cách khác, truyền thông có
7


sự cùng tham gia là mô hình có sự tham gia tích cực của xã hội. Jacobson
và Kolluri (1999:268) khẳng định:
… hướng tiếp cận có sự tham gia có xu hướng tập trung vào phương tiện
truyền thông nhỏ hơn là lớn, truyền thông theo chiều ngang chứ không phải
chiều dọc, tập thể tự lực hơn là phụ thuộc vào các chuyên gia bên ngoài, và
hành động hơn là định hướng theo kiểu lý thuyết.
Sau nhiều năm nghiên cứu truyền thông nói chung và truyền thông
phục vụ phát triển nói riêng, nhà nghiên cứu truyền thông phát triển Servaes
(1999; 2003) đã đề xuất một mô hình truyền thông có sự tham gia tích cực
của xã hội và phác thảo những nét chính của mô hình đó như sau:


Mô hình có sự tham gia coi con người là những nhân tố làm chủ hay là
những người tham gia vì sự phát triển. Con người sẽ tự nhận thức, đánh giá
bản thân thay vì tự hạ thấp bản thân. Phát triển nghĩa là mang lại tự do và giải
phóng cho con người và văn hóa bản địa cần được trân trọng.



Mô hình có sự tham gia xem xét con người như những hạt nhân của sự
phát triển. Phát triển nghĩa là nâng cao đời sống tinh thần của một cộng đồng
địa phương, để họ được tự hào về nền văn hóa, tri thức và môi trường của
mình. Phát triển nhằm mục đích giáo dục và khuyến khích con người tích cực
trong việc cải thiện xã hội của mình đồng thời duy trì cân bằng sinh thái.




Mô hình có sự tham gia chú trọng vào cộng đồng địa phương hơn là cả
dân tộc nói chung, vào thuyết phổ biến nhất nguyên hơn là chủ nghĩa dân tộc,
vào đời sống tinh thần hơn là chủ nghĩa nhân văn muôn thuở, vào đối thoại
hơn là độc thoại và vào sự tự do, giải phóng hơn là sự bất hòa.



Thực chất, truyền thông phát triển là sự thúc đẩy quá trình dân chủ ở
cấp cộng đồng và phân chia lại quyền lực. Như vậy, truyền thông phát triển đe
dọa trực tiếp những người mà vị trí và sự tồn tại của họ phụ thuộc vào quyền
lực và sự kiểm soát đối với những người khác.
Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, vai trò quan trọng của truyền thông có
sự tham gia đối với sự phát triển xã hội là không thể phủ nhận. Servaes khẳng
8


định đó là một hiện tượng của toàn cầu và những giá trị cơ bản của mô hình
này sẽ luôn tồn tại một khi xã hội còn bị chia rẽ.

8.1 Mô hình phổ biến kiến thức và lý thuyết hiện đại hóa
Mô hình truyền thông của học thuyết hiện đại hóa là sự phổ biến kiến
thức, bởi vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng vai trò của mô hình này là chuyển
giao những cải tiến công nghệ từ phương Tây sang các nước ít phát triển hơn,
đồng thời thúc đẩy sự biến đổi xã hội. Lazarsfeld và các đồng nghiệp, trong
một cuốn sách xuất bản năm 1968, tin rằng công thức truyền thông trong lý
thuyết hiện đại hóa là dòng truyền thông hai bước, nghĩa là các ý tưởng được
truyền từ báo in và phát thanh tới các nhà lãnh đạo tư tưởng, sau đó từ những
người này chuyển tới những người ít tích cực hơn trong xã hội. Năm 1991,
trong cuốn Communication for development in the Third World: Theory and

Practice (tạm dịch:Truyền thông phục vụ phát triển ở thế giới thứ ba: Lý
thuyết và Thực tiễn) nhà nghiên cứu Melkote đã mô tả mô hình truyền thông
dòng chảy hai bước trong sơ đồ sau:
TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

NHÀ LĐ TƯ TƯỞNG

Các cá nhân

NHÀ LĐ TƯ TƯỞNG

Các cá nhân

9

NHÀ LĐ TƯ TƯỞNG

Các cá nhân


Mô hình truyền thông dòng chảy hai bước
(Two-step flow model of communication)
Còn theo Lerner (1967), vai trò truyền thông trong phát triển được biết
đến như phương tiện nhân rộng những thay đổi và quyền lực của truyền
thông ở đây là nâng cao và truyền bá sự đồng cảm giữa các nhóm công
chúng của mình.
Bên cạnh các yếu tố như dòng chảy hai bước, nhà lãnh đạo tư tưởng và
sự đồng cảm, phương tiện truyền thông đại chúng với tự do thông tin được
nhấn mạnh như một phương tiện có sức lan tỏa hiệu quả. Các phương tiện
truyền thông đại chúng kết nối mọi người trong xã hôi và mang đến những

thông tin từ khắp nơi trên khắp thế giới. Tự do thông tin đã giải phóng con
người khỏi sự “thao túng một chiều” (theo Schramm, 1964). Tương tự như
vậy, thông qua các phương tiện truyền thông, thông tin về những tiến bộ khoa
học kỹ thuật của phương Tây cũng được truyền thông tới những nước kém
phát triển hơn. Với sức mạnh và ưu điểm vượt trội, các phương tiện truyền
thông được ví như những phương tiện có sức lan tỏa kỳ diệu và các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra các chức năng chính của truyền thông đại chúng trong
phát triển như sau:


Phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp thông tin cho những
người ở các nước đang phát triển;



Phương tiện truyền thông đại chúng có thể mở ra các chân trời mới,
bởi vậy nó giúp xây dựng và phát triển sự đồng cảm trong công chúng;



Phương tiện truyền thông đại chúng có thể thu hút sự chú ý đối với các
vấn đề và mục tiêu của phát triển;



Phương tiện truyền thông đại chúng có thể thúc đẩy những khao khát
cá nhân và khao khát dân tộc.

10



Từ những chức năng trên, nhà nghiên cứu Schramm kết luận rằng chính
các phương tiện truyền thông đại chúng có thể tạo ra môi trường, xu thế của
sự phát triển.
9. vai trò của “con người” trong các hoạt động/chiến dịch truyền
thông hướng tới phát triển bền vững.
9.1 Thuật ngữ Phát triển bền vững (PTBV – Sustainable
Development) lần đầu tiên được
sử dụng trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do IUCN đề xuất năm
1980. Mục tiêu tổng thể của Chiến lược là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo
vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ PTBV ở đây được đề cập tới với một
nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái,
nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật. Năm 1987, trong báo cáo
“Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Quốc tế về môi trường và Phát triển
lần đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ về PTBV là: “Sự phát
triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng
của các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn các nhu cầu của chính họ”. Nội
hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Rio – 92 và được bổ sung,
hoàn chỉnh tại Hội nghị Johannesburg – 2002: “Phát triển bền vững là quá
trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự
phát triển. Đó là: phát triển
kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Ngoài ba mặt chủ yếu
này, có nhiều người còn đề cập tới những khía cạnh khác của phát triển bền
vững như chính trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc... và đòi hỏi phải tính toán và
cân đối chúng trong hoạch định các chiến lược và chính sách phát triển kinh
tế-xã hội cho từng quốc gia, từng địa phương cụ thể. Nếu phân tích kỹ hơn thì
giữa phát triển truyền thống và PTBV có hàng loạt điểm khác biệt có tính chất
nguyên tắc
9.2. Sơ đồ/mô hình phát triển bền vững:


11


Có nhiều sơ đồ/mô hình PTBV được đề xuất: WCED, 1987 Jacobs và
Sadler, 1990 Việt Nam UNESCO
9.3. Cơ sở sinh thái học của phát triển bền vững:
Để triển khai các chiến lược và kế hoạch phát triển bền vững, Liên Hợp
Quốc đã thành lập Chương trình “Đánh giá hệ sinh thái thiên niên kỷ (MA)”
(tháng 6/2001), nhằm mục đích giúp các khu vực và quốc gia:
+ Hiểu biết một cách sâu sắc hơn mối quan hệ giữa HST (tự nhiên) và
phúc lợi của con người;
+ Phân tích những tiềm năng của các HST có thể đóng góp vào công
cuộc xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống cho cộng đồng;
+ Đánh giá mức độ phù hợp của các chính sách ở những cấp ra quyết
định khác
nhau;
Hệ kinh tế
Hệ xã hội
Hệ tự nhiên
Phát triển bền vững44
+ Tích hợp các lĩnh vực kinh tế, môi trường, xã hội và văn hóa;
+ Tích hợp thông tin từ cả hai nguồn: khoa học xã hội và khoa học tự
nhiên;
+ Phân tích và đánh giá những phương án về chính sách và quản lý, nhằm
duy trì dịch vụ của các HST và hài hòa nó với nhu cầu của người dân, và
+ Tăng cường quản lý HST tổng hợp. HST ở đây được hiểu theo nội hàm
mới – “một tổ hợp động của các quần xã thực vật, động vật, vi sinh vật và các
điều kiện môi trường vô sinh xung quanh trong sự tương tác lẫn nhau như một
đơn vị chức năng; con người là một bộ phận hữu cơ của HST”.
Định nghĩa này nhấn mạnh con người là một thành viên đặc biệt của

HST theo nghĩa Con người, một mặt, có những tác động mạnh mẽ nhất vào
HST theo cách riêng của mình (có ý thức và bằng công cụ) và mặt khác lại là
12


đối tượng mà bất kỳ nghiên cứu HST nào cũng phải hướng tới để đem lại
phúc lợi cho họ.
Nói cách khác, MA sẽ hỗ trợ để lựa chọn những phương án tốt nhất và
xác định cách tiếp cận mới, phù hợp để thực hiện kế hoạch hành động triển
khai Agenda 21 nhằm đạt được các mục tiêu thiên niên kỷ. Đối với các nhà
hoạch định chính sách, MA đưa ra một cơ chế để giúp họ:
+ Xác định phương án nhằm đạt được các mục tiêu bền vững và phát
triển con người;
+ Hiểu biết một cách sâu sắc hơn khái niệm đánh đổi có liên quan tới tất
cả các
ngành, các bên trong những quyết định liên quan tới môi trường;
+ Liên kết các phương án giải quyết nhằm đạt được hiệu quả tổng hòa
cao nhất.
10. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
10.1Việt Nam tham gia các hoạt động quốc tế
Việt Nam đã sớm tham gia vào tiến trình chung của thế giới trong việc
xây dựng Chương trình Nghị sự 21. Năm 1992, đoàn đại biểu Chính phủ Việt
Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển ở
Rio de Janero (Braxin) đã ký Tuyên bố chung của thế giới về môi trường và
phát triển, Chương trình Nghị sự 21 toàn cầu, cam kết xây dựng Chiến lược
PTBV quốc gia và chương trình nghị sự 21 địa phương. Năm 2004, Việt Nam
đã phê chuẩn Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường thời kỳ đến 2010 và
định hướng đến 2020. Việt Nam cũng đã tham gia nhiều cam kết quốc tế
nhằm bảo vệ môi trường và phát triển xã hội. Năm 2000, Việt Nam cam kết
thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ của thế giới. Hội đồng PTBV quốc gia

cũng đã được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005. Hội đồng do Phó Thủ tướng Chính phủ làm
Chủ tịch, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư là Phó Chủ tịch thường trực. Cơ
quan 50 Thường trực giúp việc cho Hội đồng PTBV là Văn phòng PTBV, đặt
13


tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hòa nhập với cộng đồng quốc tế, trong quá trình
đổi mới kinh tế và xã hội, PTBV, với những nội hàm phát triển toàn diện và
có hiệu quả về kinh tế, đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường, luôn luôn là mục tiêu phát triển trong từng thời kỳ kế hoạch
của đất nước. Đại hội Đảng lần thứ IX đã thông qua Mục tiêu chiến lược 10
năm (2001-2010), mà nội dung tập trung vào những nhân tố phát triển bền
vững: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống
vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn
lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh
tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản. Vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao”. Để thực hiện Mục tiêu PTBV như Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế về PTBV, Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở
Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là chiến lược khung,
bao gồm những định hướng lớn, làm cơ sở pháp lý để các bộ, ngành, địa
phương, các tổ chức và cá nhân triển khai thực hiện và phối hợp hành động,
nhằm bảo đảm phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ XXI. Định hướng
Chiến lược về PTBV ở Việt Nam nêu lên những thách thức mà Việt Nam
đang phải đối mặt, đề xuất những chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật
và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên để thực hiện Mục tiêu PTBV. Với những
định hướng chiến lược phát triển dài hạn, văn bản Định hướng Chiến lược

PTBV ở Việt Nam sẽ thường xuyên được xem xét, bổ sung và điều chỉnh cho
phù hợp với từng giai đoạn phát triển, cập nhật những kiến thức và nhận thức
mới nhằm hoàn thiện hơn về con đường PTBV ở Việt Nam.
10.2 Tám nguyên tắc chính cho phát triển bền vững của Việt Nam:
Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình phát triển chúng ta cần
thực hiện những nguyên tắc chính sau đây: Thứ nhất, con người là trung tâm
14


của PTBV. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của
mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán trong mọi giai đoạn phát
triển. Thứ hai, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát
triển sắp tới, bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền vững,
bảo đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm cho nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý
và hài hòa với phát triển xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên trong giới 52 hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo
vệ môi trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc “mọi mặt kinh tế, xã
hội và môi trường đều cùng có lợi”. Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng
môi trường là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Tích cực
và chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường
do hoạt động của con người gây ra. Cần áp dụng rộng rãi nguyên tắc “người
gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì phải bồi hoàn”. Xây dựng
hệ thống pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về công tác bảo vệ môi trường; chủ
động gắn kết và có chế tài bắt buộc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường
trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tếxã hội, coi yêu cầu về bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong
đánh giá PTBV. Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách
công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của
các thế hệ tương lai. Tạo lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong
xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển; được tiếp cận tới những nguồn lực

chung và được phân phối công bằng những lợi ích công cộng; tạo ra những
nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau; sử
dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo lại được; gìn giữ và cải
thiện môi trường sống; phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân thiện với môi
trường; xây dựng lối sống lành mạnh, hài hòa, gần gũi và yêu quý thiên nhiên.
Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước.
15


Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử
dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất. Trước mắt, cần được đẩy mạnh sử
dụng ở những ngành và lĩnh vực sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả
năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác. Thứ
sáu, PTBV là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và
địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng
dân cư và mọi người dân. Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có
liên quan trong việc lựa chọn các quyết định về phát triển kinh tế, xã hội và
bảo vệ môi trường ở địa phương và trên quy mô cả nước. Bảo đảm cho nhân
dân có khả năng tiếp cận thông tin và nâng cao vai trò của các tầng lớp nhân
dân, đặc biệt là của phụ nữ, thanh niên, đồng bào các dân tộc ít người trong
việc đóng góp vào quá trình ra quyết định về các dự án đầu tư phát triển lớn,
lâu dài của đất nước. Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để PTBV đất nước. Phát triển các
quan hệ song phương và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế và khu
vực; tiếp thu có chọn lọc các tiến bộ khoa học công nghệ, tăng cường hợp tác
quốc tế để PTBV. Chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả,
năng lực cạnh tranh. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các tác động xấu đối
với môi trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra.
Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ

môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Ví dụ: Vai trò của con người trong chiến lược phát triển bền vững giao
thông đô thị Việt Nam đến năm 2030
* Sự cần thiết nghiên cứu
Chiến lược phát triển bền vững giao thông đô thị có vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế các đô thị nói riêng, kinh tế quốc gia nói chung. Trong
thời gian qua, quy hoạch phát triển giao thông các đô thị lớn như Thủ đô Hà
Nội, TP. Hồ Chí Minh… đã được lập, phê duyệt và tổ chức triển khai thực
hiện. Trong quá trình xây dựng quy hoạch, nhiều yếu tố đã được nghiên cứu
16


xem xét, về các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, một số yếu tố chưa được
quan tâm, chú trọng. Phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của
đất nước đã được phê duyệt, cần phải xây dựng chiến lược phát triển bền
vững giao thông đô thị Việt Nam đến năm 2030 nhằm xác định rõ quan điểm,
mục tiêu, nội dung, chính sách, giải pháp phát triển và triển khai thực hiện
chiến lược đề ra, góp phần giải quyết nhu cầu giao thông, ùn tắc, tai nạn, ô
nhiễm môi trường, nâng cao văn hóa, văn minh giao thông đô thị.
*Hiện trạng giao thông, chiến lược phát triển giao thông đô thị
Cùng với sự phát triển kinh tế, tỷ lệ đô thị hoá của Việt Nam sẽ nâng cao dần
và dân số đô thị sẽ tăng theo cấp số nhân trong các thập kỷ tới, đuổi kịp mức
đô thị hoá của Trung Quốc vào năm 2020, khi đó dân số đô thị sẽ chiếm
khoảng 45%, đến năm 2030 khoảng 60 – 70%. Tốc độ tăng nhanh dân số đô
thị sẽ gây áp lực lớn lên năng lực kết cấu hạ tầng hiện tại, bộc lộ sự ùn tắc chủ
yếu trong cung cấp dịch vụ của nó. Đô thị hoá mang lại cơ hội để giảm chi phí
của việc cung cấp kết cấu hạ tầng nhờ tính kinh tế theo quy mô. Tuy nhiên, để
tận dụng được cơ hội này đòi hỏi phải có chiến lược tốt cho đầu tư mới. Đô
thị hoá đặt ra hàng loạt thách thức cho xây dựng chiến lược. Trong tương lai,
tốc độ tăng cao của dân số đô thị được dự báo là yếu tố chính thúc đẩy đầu tư

vào kết cấu hạ tầng giao thông. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh hiện đang đóng
góp gần một phần ba GDP của cả nước. Vì thế, hệ thống giao thông có hiệu
quả tại các đô thị lớn của Việt Nam là điều quan trọng nhằm góp phần tăng
trưởng kinh tế cả nước. Việc chú trọng tới chiến lược phát triển bền vững đô
thị là rất quan trọng nhằm bảo đảm tăng trưởng sẽ được phối hợp trên các
hành lang giao thông có mật độ cao và sự kết hợp hài hòa giữa các lợi ích đầu
tư vào kết cấu hạ tầng giao thông đô thị.
Kết cấu hạ tầng giao thông của các đô thị trong những năm gần đây đã
được quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới nên đã đáp ứng cơ bản
yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu vận tải. Tuy nhiên, do tốc độ đô
thị hóa nhanh, dân số đô thị, nhu cầu vận tải tăng cao, cầu vận tải đã vượt
17


cung kết cấu hạ tầng giao thông đô thị nên đã biểu hiện một số bất cập như:
Kết cấu hạ tầng giao thông đô thị còn yếu kém so với phát triển đô thị
Quỹ đất dành cho giao thông tại các đô thị Việt Nam còn quá thấp so với các
đô thị trong khu vực và thế giới (thường quỹ đất dành cho giao thông chiếm
khoảng 16% – 26% diện tích đất xây dựng đô thị, còn tại Thủ đô Hà Nội và
TP. Hồ Chí Minh chỉ chiếm khoảng 8% – 10%). Mạng lưới đường phân bố
không đồng đều, mặt cắt ngang hẹp, nhiều giao cắt, hầu hết là giao bằng, ít
nút khác mức.
Vận tải hành khách công cộng chưa đáp ứng nhu cầu và sự bùng nổ của
phương tiện cá nhân gây sức ép lên kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Tại các đô thị lớn, vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt như Hà Nội,
TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hải Phòng, Đà Nẵng, bước đầu đã đáp ứng được
khoảng từ 1,0 đến 9% nhu cầu đi lại (Hà Nội 9,0%, TP. Hồ Chí Minh 7,5%,
Đà Nẵng 1,0%, Hải Phòng 1,0%, Cần Thơ 1,2%), chưa có tàu điện ngầm
(metro), tàu điện trên cao, xe buýt nhanh… Ở các đô thị còn lại, phương tiện
đi lại chủ yếu là xe máy, xe ô tô con, xe đạp và đi bộ.

Tốc độ phát triển của phương tiện cá nhân tăng nhanh hàng năm, đặc biệt
tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh (Hà Nội năm 2005 có 1.942.975 xe máy, đến
hết năm 2011 có 3.980.070 xe máy, tăng 205%; xe ô tô con năm 2005 có
108.398 xe, đến hết năm 2011 có 417.103 xe, tăng 383,8%). Sự bùng nổ
phương tiện cá nhân trong khi kết cấu hạ tầng giao thông chưa theo kịp yêu cầu
phát triển đã kéo theo các hậu quả như ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường.
Năm 2011, Hà Nội đã có 78 điểm, TP. HCM có 114 điểm ùn tắc giao thông.
Công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, quản lý quy hoạch, tổ chức quản lý
giao thông đô thị còn bất cập
Đến nay chưa có chiến lược phát triển giao thông đô thị nói chung, chiến
lược phát triển bền vững giao thông đô thị nói riêng. Việc xây dựng, triển khai
quy hoạch giao thông vận tải đô thị còn chưa đồng bộ với các quy hoạch khác.
Ở hầu hết các đô thị hiện chưa có bộ phận quản lý hữu hiệu. Cách thức tổ chức
18


quản lý giao thông đô thị chưa tập trung, thống nhất; năng lực tổ chức quản lý
còn khá nhiều vấn đề, đặc biệt chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đô thị.
Hội thảo Chiến lược và giải pháp quy hoạch giao thông đô thị bền vững
diễn ra ngày 26/7/2012
* Chiến lược phát triển bền vững giao thông đô thị đến năm 2030
- Xu hướng phát triển của giao thông đô thị
a. Phát triển bền vững giao thông đô thị
Theo quan niệm chung, phát triển bền vững giao thông đô thị là phát
triển đồng bộ, hài hòa trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông, vận tải
và công nghiệp giao thông vận tải đô thị về các mặt kinh tế, xã hội, môi
trường, phục vụ yêu cầu phát triển bền vững đất nước và của chính hệ thống
giao thông đô thị.
Theo quan niệm mới, phát triển bền vững giao thông đô thị bao gồm
chiến lược phát triển bền vững kết cấu hạ tầng giao thông, vận tải và phát

triển bền vững công nghiệp GTVT đô thị về các mặt kinh tế, xã hội, môi
trường, tài chính và thể chế (quản lý).
Theo một quan niệm khác, phát triển bền vững giao thông đô thị cần
phải được bảo đảm về các mặt đất đai và môi trường, văn hóa và di sản, xã
hội và con người, phát triển và kinh tế.
b. Phương pháp tiếp cận liên kết
Liên kết các chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, vận tải với
chiến lược phát triển đô thị; liên kết về thể chế là sự phối hợp giữa các cơ
quan, doanh nghiệp vận tải hành khách công cộng, dùng hệ thống vé chung,
hợp tác công – tư; mô hình liên kết là khai thác kinh doanh, quản lý, tiện ích,
phương tiện thô sơ (phi cơ giới) và đi bộ.
Tổng hợp các chiến lược hướng tới hệ thống giao thông vận tải đô thị
bền vững gồm: khuyến khích phát triển các khu vực đô thị nén dựa trên nền
tảng vận tải công cộng; gắn kết các phương thức vận tải theo hệ thống phân
cấp có thứ bậc và tính đồng bộ cao (vận tải khối lượng lớn + xe buýt + đi bộ +
19


xe đạp hoặc vận tải khối lượng lớn + xe máy hoặc xe ô tô – gửi xe rồi đi tiếp
bằng phương tiện công cộng); kiểm soát và quản lý việc sử dụng xe máy, xe ô
tô con cá nhân; tăng cường kiểm soát và quản lý giao thông; tăng cường
nguyên tắc người sử dụng đường phải trả phí (phí bến bãi đỗ, phí ùn tắc hay
hạn chế phương tiện cá nhân, phí vào khu vực trung tâm trong các giờ cao
điểm…).
c. Lựa chọn phương tiện vận tải hợp lý
Tại các đô thị trên thế giới, khi tiến hành xây dựng chiến lược GTVT đô
thị đều đưa ra mục tiêu chính là phát triển mạng lưới vận tải hành khách công
cộng một cách hợp lý với các phương thức vận tải khác nhau, trong đó có xét
đến tác động của giao thông đô thị ít nhất về các mặt kinh tế, xã hội, môi
trường. Khi đưa ra quyết định để lựa chọn loại hình phương tiện vận tải hành

khách công cộng cho phù hợp với từng loại đô thị, đạt được mục tiêu của
chiến lược phát triển GTVT, các nhà chiến lược thường dựa vào quy mô dân
số đô thị để đưa ra các phương án lựa chọn loại hình phương tiện phù hợp với
quy mô đô thị. Tuy nhiên, đó chỉ là vấn đề lý thuyết, thực tế thực hiện có khác
tùy thuộc điều kiện cụ thể. Tại các đô thị lớn Việt Nam, loại phương tiện thích
hợp với đô thị lớn là đường sắt đô thị (loại nặng hoặc nhẹ, đi ngầm, trên cao
hoặc kết hợp) + xe buýt các loại (lớn, vừa và nhỏ + đi bộ (hoặc đi bằng xe
đạp, xe máy); các đô thị khác: xe buýt + đi bộ hoặc xe máy, xe ô tô con cá
nhân. Có thể kết hợp với các tua du lịch bằng xe ô tô buýt hoặc đường thủy
nội địa như tàu thủy cao tốc và tàu thường.
- Chiến lược phát triển giao thông đô thị
Mục tiêu phát triển: phát triển giao thông đô thị nhằm đáp ứng, tiến tới
thỏa mãn nhu cầu đi lại, nhu cầu vận tải về mặt số lượng với chất lượng ngày
càng cao.
Quan điểm phát triển: phải có tầm nhìn lâu dài (chiến lược), có đột phá,
đi thẳng vào hiện đại; tăng cường và nâng cao hiệu quả các nguồn lực, nhất là
từ nguồn ngoài ngân sách; xây dựng tiêu chí, chỉ tiêu xác định danh mục dự
20


án ưu tiên. Chiến lược phát triển bền vững giao thông đô thị cần phải được
xây dựng theo hướng mở, động nhằm phát triển theo hướng hiện đại, đồng bộ,
liên kết các phương thức; chuyển trọng tâm từ cung đi trước sang cầu đi
trước, từ đơn phương thức sang đa phương thức, từ dự án đơn lẻ sang định
hướng chuỗi cung và cần có cạnh tranh minh bạch để được cung cấp kết cấu
hạ tầng giao thông.
Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển:
Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông hiện đại, đồng bộ, liên kết, đáp ứng
nhu cầu giao thông tăng cao phù hợp với cấu trúc đô thị phát triển và cấu trúc
quy hoạch xây dựng vùng: xây dựng mạng giao thông cấp quốc gia, cấp vùng

kết nối với đô thị; nâng cấp mạng lưới giao thông công cộng đô thị và liên
tỉnh; cải tạo và nâng cấp các trục giao thông chính trong khu đô thị hiện hành.
Thiết lập hệ thống giao thông đáp ứng nhu cầu phát triển vận tải công cộng là
chính, từng bước giải quyết vấn đề ùn tắc, tai nạn giao thông và ô nhiễm môi
trường: tập trung cải tạo, xây dựng hoàn chỉnh mạng giao thông đô thị trung
tâm hiện hành; xây dựng mạng lưới giao thông chức năng công cộng như
đường sắt đô thị, xe buýt loại nhanh và loại thường; nâng cao chất lượng dịch
vụ của xe buýt.
Xây dựng mạng giao thông công cộng khối lượng lớn, tạo động lực phát
triển đô thị: xây dựng các tuyến đường sắt đô thị, tuyến xe buýt nhanh kết hợp
với phát triển đô thị; kết nối liên thông giữa đường sắt quốc gia, đường sắt
ngoại vi và đường sắt đô thị và với các phương thức khác.
Chiến lược phát triển vận tải đô thị nhằm nâng cao thị phần của vận tải
công cộng đô thị, hạn chế sử dụng phương tiện cơ giới cá nhân, khuyến khích
loại phương tiện không dùng năng lượng hóa thạch, tiến tới vận tải xanh:
kiểm soát giao thông đô thị, đặc biệt ở khu vực trung tâm; đáp ứng từng bước
nhu cầu về đỗ xe; xây dựng hạ tầng giao thông công cộng cần thiết như ga và
khu vực quanh ga đường sắt, bến đầu cuối, trạm dừng xe buýt; bảo đảm an

21


toàn giao thông trên những tuyến có xe tải; tạo không gian an toàn và tiện
nghi cho người đi bộ.
Phát triển các đầu mối giao thông trung chuyển để liên kết các phương
thức vận tải, đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa, hành khách ngày càng tăng,
tiến tới thỏa mãn nhu cầu vận tải: tăng cường chức năng giao thông cho các
loại phương tiện dựa vào việc khuyến khích xây dựng các trục giao thông
chính; chia sẻ và kết hợp với các phương thức vận tải đường thủy nội địa,
đường sắt; kiểm soát lưu lượng xe tải vào trung tâm đô thị bằng cách xây

dựng các trung tâm logistics (phân phối hàng); phát triển giao thông vùng
ngoài đô thị thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn; giảm tác động xấu tới môi trường khu vực gần các trục, hành lang
giao thông lớn.
- Chính sách phát triển bền vững giao thông đô thị
Xây dựng chính sách phát triển bền vững giao thông đô thị là trách
nhiệm của chính quyền các đô thị. Xây dựng khung cấp vốn cho các đô thị
bao gồm các nguồn vốn khác nhau. Cần chuyển trọng tâm từ: các ưu tiên dựa
vào các chuyên ngành sang cạnh tranh minh bạch để được cấp vốn; tập trung
vào năng lực sang tập trung hơn vào năng suất và định hướng thị trường; cấp
vốn và xem xét ưu tiên chưa rõ ràng sang ưu tiên mang tính chiến lược dài
hạn và nguồn vốn; tích cực tìm, huy động các nguồn tài chính mới; đơn vị
cung cấp dịch vụ là Nhà nước sang đơn vị cung cấp dịch vụ là hợp tác công tư
(PPP) hoặc tư nhân.
Thu hút đầu tư: đa dạng hóa các hình thức đầu tư thông qua việc giới
thiệu, quảng bá dự án; có cơ chế chính sách ưu tiên, ưu đãi đầu tư vào kết cấu
hạ tầng giao thông đô thị với các hình thức khác nhau; sắp xếp thứ tự các dự
án ưu tiên theo tiêu chí, chỉ tiêu khả thi về kinh tế (EIRR), khả thi về tài chính
(FIRR), bảo đảm thời gian hoàn vốn, hoàn thành…

22


Đấu giá quyền sử dụng đất hai bên đường, khu vực xung quanh công
trình giao thông để có vốn đầu tư trở lại vào chính con đường đó hoặc công
trình khác.
*Kết luận
Chiến lược phát triển bền vững giao thông đô thị phải gắn liền với chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, phát triển hoàn thiện hệ thống
kết cấu hạ tầng giao thông và đảm bảo hợp lý quỹ đất dành cho giao thông đô

thị. Có chính sách thích hợp để thu hút vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
giao thông, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông phục vụ vận tải hành khách
công cộng và hạn chế sử dụng phương tiện cá nhân đô thị, bảo đảm phát triển
bền vững. Nhằm thực hiện được chiến lược, bao gồm chính sách phát triển
bền vững đô thị, cần đưa ra các giải pháp khả thi và chỉ đạo thực hiện quyết
liệt. Có như vậy, chiến lược, chính sách phát triển bền vững giao thông đô thị
mới thực sự đi vào cuộc sống.

23



×