MỞ ĐẦU
“Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp khôn ngoan của
Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài của Lênin” Nhà sử học
Tourmen đã nói về Bác bằng một câu khái quát như thế. Mấy mươi năm đi qua
ngần ấy thời gian đã đủ làm vật đổi, sao dời. Song, nó cũng làm cho ta thấy nhận
định của Touemen là hoàn toàn đúng đắn. Thế giới ca ngợi Hồ Chí Minh không
những vì người là biểu tượng mẫu mực về đạo đức mà còn là vì tư tưởng về Xây
dựng Đảng cộng sản cầm quyền của Người còn ngọn đuốc hồng cho các Đảng
chính trị trên thế giới soi chung.
Lịch sử nhân loại cho thấy mỗi quốc gia đều cần đến một nền tảng tư tưởng
đúng đắn để nhận thức thế giới và định hướng cho con thuyền quốc gia trong thế
giới đó. Từ khi ra đời đến nay, nước Việt Nam hiện đại đã có một nền tảng tư tưởng
vững chắc, đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cộng Sản dẫu trải qua
nhiều thay đổi to lớn, nhưng tư tưởng của Người về Xây dựng Đảng vẫn sáng ngời
giá trị lý luận và thực tiễn. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh
không ngừng chăm lo xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng vững
mạnh, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và toàn dân tộc, chỉ ra cho đảng và mọi đảng viên phương hướng tu dưỡng, phấn
đấu, rèn luyện, tránh những sai lầm khuyết điểm để xứng đáng với trọng trách,
xứng đáng với niềm tin mà nhân dân giao phó. Bởi theo Người "Một dân tộc, một
Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân" Nhìn lại chặng đường lịch sử
đã qua của nhân loại, nghiền ngẫm lại cuộc động đất chính trị từ sự sụp đổ của
Đảng cộng sản Liên Xô và các nước Đông Âu ở thập niên 90 thế kỷ XX càng
khẳng định sâu sắc hơn tư tưởng của Bác về xây dựng đảng trong điều kiện đảng
1
cộng sản cầm quyền. Những bước phát triển của Đảng ta qua các chặng đường lịch
sử chính là những bước vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa tư tưởng
Hồ Chí Minh vào cuộc sống hiện thực, đồng thời, nâng tư tưởng của Người lên một
tầm cao mới.
Hiện nay, tình hình trong nước và thế giới đang có những diễn biến phức tạp,
khó lường đang đặt ra những thời cơ và thử thách lớn. Để lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta viết tiếp thắng lợi trong thời đại mới, để giữ vững vai trò
lãnh đạo, để giữ vững sự cầm quyền của đảng là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng
của đảng và dân tộc ta. Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
cộng sản cầm quyền đang là một vấn đề cấp thiết, một vấn đề nóng bỏng tính thời
sự trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng đảng theo tinh thần nghị quyết trung ương
bốn khóa XI và cũng chính vì lẽ đó, tôi quyết định chọn vấn đề "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền và một số giải pháp giữ vững sự
cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho tiểu
luận nhằm góp một phần nhỏ vào giải quyết yêu cầu cấp bách trên đây.
2
NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM
QUYỀN, NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
1.1. Quan niệm về Đảng cầm quyền và Đảng Cộng sản cầm quyền
Quan niệm về Đảng cầm quyền
Đảng cầm quyền là một khái niệm của khoa học chính trị, có nội dung xác
định cho biết Đảng chính trị nào là lực lượng nắm chính quyền, quản lý đất nước,
điều hành xã hội phù hợp với lợi ích giai cấp mình.
Theo V.I.Lênin, đảng cầm quyền tức là “đảng nắm chính quyền” bằng những
người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện công việc quản lý trong bộ máy nhà
nước. Những cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước phải hoạt động làm sao bảo
đảm vừa với tư cách là người đại diện cho đảng thực hiện việc tuyên truyền, vận
động nhân dân đi theo đảng, tức là hoạt động “lãnh đạo”, vừa với tư cách là người
đại diện cho đảng, đồng thời là đại biểu của nhân dân thực hiện công việc quản lý
nhà nước, tức là hoạt động “cầm quyền”. Điều đó cho thấy, đảng cầm quyền là một
khái niệm gắn với quyền lực. Tức đảng có quyền lực chính trị mà cụ thể là ở việc
“nắm chính quyền” hay “nắm quyền lực nhà nước”. Không những thế, khi đảng
nắm được chính quyền thì đảng không chỉ có quyền lực chính trị, mà “với tư cách
nhà nước, còn có thêm được quyền lực kinh tế”[4; tr. 75].
Theo cách hiểu phổ biến trên thế giới hiện nay, đảng cầm quyền là đảng
giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh. Trên cơ sở đó đảng
đứng ra thành lập chính phủ và đưa ra các quyết định chính sách dưới danh nghĩa
quyền lực nhà nước, đại diện cho nhân dân.
Quan niệm về Đảng Cộng sản cầm quyền
Trong các nước xã hội chủ nghĩa, thuật ngữ "đảng cầm quyền" là thuật ngữ
để chỉ duy nhất có Đảng Cộng sản cầm quyền, đang nắm chính quyền lãnh đạo
3
cách mạng của nước đó, như Đảng Cộng sản Trung Quốc (dù Trung Quốc có nhiều
đảng nhưng chỉ có Đảng Cộng sản cầm quyền). Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này và thời điểm đó bênh cạnh Đảng Cộng sản
còn có Đảng Xã hội và Đảng Dân chủ, Người khẳng định "Đảng ta là đảng cầm
quyền" để chỉ vị thế của Đảng Cộng sản trong việc nắm giữ quyền lực nhà nước so
với các đảng khác trong xã hội.
Nhìn chung, Đảng Cộng sản cầm quyền là một khái niệm chỉ rõ đặc điểm,
vai trò của đảng trong giai đoạn cách mạng mà giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo
của đội tiên phong chính trị của nó là Đảng Cộng sản đã giành được chính quyền,
trở thành lực lượng lãnh đạo đất nước và toàn xã hội
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập 1930, song phải đến khi cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công. Chính quyền về tay nhân dân, Đảng cộng sản
Việt Nam mới trở thành Đảng cầm quyền. Kể từ đó, Đảng lãnh đạo chính quyền, và
nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từng bước xây dựng chủ nghĩa
xã hội, và tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
1.2. Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
1.2.1. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị.
Vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị là tác dụng, chức năng của Đảng
trong quá trình vận động của hệ thống chính trị. Cụ thể là, Đảng giữ vai trò lãnh
đạo trong hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là
sự dẫn đường, chỉ hướng của Đảng đối với hệ thống chính trị tiến tới đích xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị được biểu hiện trên thực tế bằng hoạt động đề ra chủ trương, đường lối và động
viên, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối đó đối với các thành phần của hệ
thống chính trị. Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền,
giữ vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị. Vì:
4
Về lý luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và
thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng
đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống
nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm
minh. Do vậy, đường lối của Đảng là cơ sở lý luận cho tổ chức, hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.
Về thực tiễn: Đảng Cộng sản Việt Nam là tiền thân, là nguồn gốc của các
thiết chế khác trong hệ thống chính trị. Có thể nói, Đảng là tổ chức ra đời sớm nhất
trong hệ thống chính trị. Để thực hiện đường lối cách mạng của Đảng mà các tổ
chức khác đã ra đời. Nói cách khác, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị- xã
hội là phương tiện để thực hiện nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Là một Đảng chính
trị, nên Đảng giữ vai trò lãnh lãnh đạo. Dù cầm quyền hay chưa cầm quyền thì
Đảng cũng vẫn phải thực hiện vai trò lãnh đạo của mình
1.2. 2 Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng
Nội dung cầm quyền
Với tư cách là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước nhân
dân về vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Nội dung cầm quyền
của Đảng, thể hiện quyền hạn và trách nhiệm của Đảng trong việc quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước trong thời kỳ nhất định, và trong từng lĩnh vực cụ
thể, trong các mối quan hệ quyền lực cụ thể với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức đoàn thể nhân dân. Nội dung cầm quyền của Đảng thể hiện rõ nhất trong
5
cương lĩnh chính trị, trong chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, đảm bảo
tính định hướng chính trị cho sự phát triển của đất nước hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, việc xác định nội dung
cầm quyền của Đảng trong từng giai đoạn cụ thể của đất nước là rất quan trọng.
Nội dung cầm quyền của Đảng là toàn bộ hoạt động của đảng cầm quyền, từ
việc xác định mục tiêu chính trị của Đảng và dân tộc, cho đến nội dung thực hiện
mục tiêu chính trị đó; nó bao quát toàn diện các lĩnh vực của đời sống chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Trong lĩnh vực chính trị, việc hoạch định đường lối chính trị là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của Đảng. Để cầm quyền lãnh đạo, Đảng có trách nhiệm xác
lập thể chế chính trị - xã hội của đất nước trên các mặt: cơ cấu tổ chức chính trị - xã
hội, cơ chế vận hành xã hội và những điều kiện đảm bảo cho hai vấn đề trên.
Trong lĩnh vực kinh tế, nội dung cầm quyền và lãnh đạo trọng tâm của Đảng
là việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây được
xem là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Một vấn đề có tính quyết định là phải đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng
sản xuất bằng con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong lĩnh vực xã hội, Đảng phải lãnh đạo phát huy sức mạnh của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các quan hệ xã
hội lành mạnh, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội phát triển con người, xây
dựng một xã hội văn minh, con người hạnh phúc.
Trong lĩnh vực văn hóa, trên nền tảng của việc xây dựng một nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng phải định hướng xây dựng một nền văn hóa
chính trị nói chung và văn hóa cầm quyền của đảng nói riêng. Văn hóa chính trị của
Đảng, đến lượt mình, nó chỉ đạo việc lựa chọn mục tiêu, lý tưởng chính trị; nó quy
6
định đường lối, nội dung, chiến lược phát triển đất nước.
Một nội dung quan trọng của Đảng cầm quyền là quan hệ với Nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo Nhà nước
bằng cách đưa đảng viên của mình ứng cử vào các chức vụ quan trọng của các cơ
quan Nhà nước, lãnh đạo các cơ quan đó vận hành theo chủ trương, đường lối của
mình.
Phương thức cầm quyền của Đảng:
Phương thức cầm quyền của Đảng là hệ thống phương pháp, hình thức, biện
pháp mà Đảng vận dụng để sử dụng Nhà nước, tác động vào Nhà nước và bằng
Nhà nước nhằm thực hiện các nội dung cầm quyền, đạt mục tiêu cuối cùng của
Đảng. Phương thức cầm quyền của Đảng cũng có nghĩa là Đảng xây dựng tổ chức,
thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước để thực hiện vai trò cầm quyền của mình.
Phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo là những khái niệm khác
nhau, nhưng có những nội dung đồng nhất với nhau. Đảng vẫn có thể lãnh đạo
nhân dân khi chưa giành chính quyền, nhưng Đảng chỉ có thể cầm quyền khi đã
giành được quyền lực nhà nước về tay mình. Do vậy, phương thức cầm quyền của
Đảng thực chất chỉ là phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng đã ở vị
thế cầm quyền. Nếu không ở vị thế cầm quyền, Đảng không thể nào thực hiện được
đầy đủ các phương thức lãnh đạo này, đặc biệt là việc lãnh đạo Nhà nước thể chế
hóa đường lối của Đảng thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các phương thức cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội bao gồm:
Thứ nhất, lãnh đạo thông qua các quan điểm, cương lĩnh, chiến lược, các
đường lối, chủ trương, điều lệ, chỉ thị và các quyết định khác của Đảng đối với tổ
chức và hoạt động của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ hai, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương
của Đảng thành các quyết định của cơ quan công quyền. Nhà nước căn cứ vào nghị
7
quyết của Đảng để cụ thể hóa thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các đạo
luật, các nghị định, thông tư và các văn bản pháp quy khác, nhằm thực hiện nghị
quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các cơ quan lãnh đạo Đảng từ
Trung ương đến cơ sở.
Thứ tư, Đảng đưa người của Đảng vào những vị trí chủ chốt trong bộ máy
quyền lực nhà nước. Đảng đào tạo những đảng viên của Đảng trở thành những
người có phẩm chất chính trị, đạo đức, có chuyên môn giỏi, có khả năng tuyên
truyền, vận động quần chúng để giới thiệu ứng cử bầu vào các cơ quan quyền lực
dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) và giữ những cương vị chủ chốt
trong bộ máy nhà nước.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua công tác kiểm tra của các tổ
chức đảng. Nội dung của công tác kiểm tra là kiểm tra các tổ chức đảng và đảng
viên chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thứ sáu, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua tính tiên phong gương mẫu của
đảng viên.
Thứ bảy, cầm quyền, lãnh đạo phải lấy dân làm gốc, dựa vào dân, đoàn kết
toàn dân, phát huy tối đa và hiệu quả sức mạnh của nhân dân. Điều đó nói lên mục
tiêu của Đảng là vì dân và phương thức cầm quyền hiệu quả là phải dựa vào sức
mạnh của nhân dân.
Thứ tám, phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng không chỉ thể hiện ở
đường lối chính trị, cách thức điều hành Nhà nước và các tổ chức chính trị làm theo
mình. Đảng lãnh đạo một cách trí tuệ, khoa học và nghệ thuật. Đó là sự cầm quyền
khéo léo, linh hoạt, nhạy bén bảo đảm sự kết hợp thực tế, các sự kiện cụ thể.
Toàn bộ các phương thức cầm quyền của Đảng chủ yếu được thực hiện thông
qua sự lãnh đạo (với tư cách hiểu về thuật ngữ lãnh đạo như ở nước ta hiện nay), là
8
nhằm thể chế hóa ý chí của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà
nước và lãnh đạo tổ chức thực hiện ý chí đó.
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm
quyền
Là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta trong gần 4 thập kỷ, Hồ
Chí Minh đã cũng Đảng ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam đí từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác, nên Người hiểu rất rõ vai trò to lớn của Đảng đới với tiến trình lịch
sử dân tộc. Sau khi lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công khai sinh nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, Bác thường dùng cụm từ "đảng lãnh đạo", "đảng lãnh đạo
chính quyền", "đảng nắm quyền lãnh đạo,...". Trong di chúc để lại cho Đảng và dân
tộc, Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.[5; tr.510].
Quan điểm Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền bao hàm nhiều nội dung quan
trọng, không chỉ là khẳng định vị thế lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền mà
còn là nhiều nhiệm vụ trọng đại khác Đảng phải hoàn thành cũng như những đòi
hỏi về phẩm chất mà cán bộ, đảng viên phải rèn luyện phấn đấu.
Đảng lãnh đạo nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
Một trong những quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về Đảng cầm
quyền là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với chính quyền nhà nước.
Với tư cách là đảng cầm quyền, vấn đề Đảng lãnh đạo chính quyền được Hồ Chí
Minh coi là một nguyên tắc để bảo đảm nhà nước là nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân. Thể hiện ở những quan điểm chủ yếu sau đây:
Mục tiêu lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cho nhà nước giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân. Bác coi tính chất giai cấp của nhà nước là vấn
9
đề cơ bản của Hiến pháp. Theo Người, nhân dân lao động là lực lượng làm chủ Nhà
nước do giai cấp công nhân, mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Trong quá trình lãnh đạo Nhà nước, Đảng cần phải chú ý bảo đảm cho bộ
máy chính quyền cũng như cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh "cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư". Trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và
làng (10-1945), Bác viết “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ
toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung
cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của
Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải
hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”[6; tr.5657]. Các cấp chính quyền phải khắc phục bệnh quan liêu, lãng phí, tham ô và
những tiêu cực khác mà Người gọi đó là giặc “nội xâm”. Phê bình một số cán bộ,
đảng viên cậy thế mình là người của tổ chức đảng để phớt lờ kỷ luật trong các cơ
quan nhà nước. Người cho rằng, đảng viên không những phải chấp hành Điều lệ,
nghị quyết của Đảng mà còn phải phục tùng Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp
Theo Bác, yêu cầu đầu tiên trong sự lãnh đạo đối với đảng cầm quyền là phải
đề ra được đường lối, chủ trương đúng đắn. Đường lối đó phải được thể chế hóa
bằng Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Khi đề cập đến vấn đề nhà
nước thì điều mà Người quan tâm là quyền lực đó thuộc về ai. Đảng lãnh đạo thông
qua các tổ chức đảng trong bộ máy nhà nước bằng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức
đó. Về mặt chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước có khác nhau. Do đó, cần
phải phân biệt vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì với
tư cách là tổ chức chính trị cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra đường lối,
chủ trương và vận dụng, thuyết phục các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tham
gia các phong trào cách mạng biến chủ trương, đường lối thành hiện thực.
10
Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân
Đảng cầm quyền là người lãnh đạo duy nhất đối với toàn xã hội và khi có
chính quyền, quyền đó không thể chia rẽ cho bất kỳ ai. Đối tượng lãnh đạo của
đảng là toàn thể quần chúng nhân dân, nhằm đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Nhưng muốn lãnh đạo được nhân dân thì Đảng trước hết phải đủ năng
lực, tư cách, phẩm chất cần thiết.
Là người lãnh đạo, theo Hồ Chí Minh phải bằng giáo dục, thuyết phục để th
phục và chinh phục quần chúng nhân dân, tức là phải làm cho dân tin, dân phục để
dân theo. Đảng lãnh đạo nhưng quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân, cho nên Đảng
"phải đi đường lối của quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân
dân"[7; tr.606], mà phải giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ cho dân để thức tỉnh họ.
Đồng thời phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một khối thống nhất, bày sách lược
cho dân và hướng dẫn cho họ hành động. Vì vậy, nói đến Đảng là nói đến chức
năng lãnh đạo, sự lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo trên tất cả các mặt, lĩnh vực của
đời sống xã hội, cùng với Chính phủ Đảng phải thường xuyên quan tâm chăm lo
đến đời sống của nhân dân "Đảng vừa chăm lo tốt công việc lớn, đổi nền kinh tế và
văn hóa lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế, văn hóa tiên tiến. Đồng thời, lại luôn
quan tâm đến những việc nhỏ như: tương cà, mắm, muối cần thiết cho đời sống
hàng ngày của nhân dân"[7; tr.4]. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, là bộ phận của giai cấp và của dân tộc, chứ không phải là tổ
chức đứng trên giai cấp, trên nhân dân. Mọi cán bộ, đảng viên đều phải nhận thức
rằng nhân dân là cuội nguồn sức mạnh của Đảng, cách mạng. Sức mạnh đó bắt
nguồn từ mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Đảng phải luôn một lòng một dạ phục
sự nhân dân "ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc. Đảng ta không
có lợi ích nào khác" và vì vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải xuất phát
từ tâm tư nguyện vọng và những quyền lợi chính đáng của nhân dân, đồng thời
11
Đảng phải chịu trách nhiệm với nhân dân trước những quyết định của mình. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh "nếu nhân dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng
và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng
và Chính phủ có lỗi,... Nếu dân đói, rét, đốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay
mấy cũng không thực hiện được"[8; tr.572]
Đảng là người lãnh đạo thì phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý
kiến của nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của nhân
dân. Đảng phải thực hành triệt để dân chủ mà trước hết là dân chủ trong nội bộ
Đảng, để phát huy dân chủ được mọi khả năng trí tuệ sáng tạo của quần chúng.
Lãnh đạo nhưng phải chống bao biện làm thay, phải thông qua chính quyền nhà
nước của dân, do dân, vì dân.
Để thực hiện đầy đủ chức năng của người lãnh đạo, Hồ Chí Minh còn đề cập
một cách sâu sắc đến việc thực hiện chế độ kiểm tra và việc phát huy vai trò tiên
phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Bởi theo Người, Đảng ta không chỉ
tiên phong về mặt lý luận, mà còn phải tiên phong cả trong hành động, mõi cán bộ,
đảng viên phải "lời nói đi đôi với việc làm", "làm thì phải có kiểm tra". Vì có kiểm
tra thì mới phát hiện được việc tốt, việc chưa tốt. Tìm ra cái đúng, cái sai để từ đó
kịp thời xử lý, uốn nắn và bổ sung làm cho đường lối được đúng đắn hơn. Do đó,
lãnh đạo mà không kiểm tra coi như không lãnh đạo.
Mặc khác, theo Hồ Chí Minh, "là người lãnh đạo" cũng có nghĩa bao hàm cả
trách nhiệm là người "đày tớ" của dân, tức là nhằm đem lại các quyền và lợi cíh
cho quần chúng nhân dân, là thể hiện sự tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân. Người
chỉ rõ "đã phụng sự nhân dân phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì có lợi cho
dân thị phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh"[12;
tr.88]. Hồ Chí Minh dùng cụm từ "đầy tớ thật trung thành" là để nhắc nhở và chỉ rõ
vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt động của mình đều
phải quan tâm đến lợi ích của nhân dân "khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, tận
12
tụy với công việc, gương mẫu trước nhân dân, phải thường xuyên kiểm tự phê bình
và phê bình, tự sữa chữa như mỗi ngày rữa mặt"[11; tr. 239].
Không những vậy, "đầy tớ thật trung thành của nhân dân" còn đòi hỏi mối
đảng viên, cán bộ của Đảng không chỉ có sự nhiệt tình, lòng hăng hái mà còn phải
có tri thức khoa học, trình độ chuyêm môn nghiệp vụ, thấm nhuần đạo đức các
mạng "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư", không chỉ nắm vững và thực hiện
tốt quan điểm đường lối của Đảng mà còn phải gương mẫu, sống nêu gương trước
dân, "sao cho được lòng dân", biết tuyên truyền, vận động lôi cuốn quần chúng tin
và theo Đảng đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Có thế nói, "vừa lãnh đạo, vừa là đầy tớ" tuy là hai khái niệm khác nhau,
tưởng chừng như mâu thuẫn nhưng lại được Hồ Chí Minh sử dụng để chỉ rõ sự gắn
bó, thống nhất biện chứng với nhau để làm rõ một đảng chân chính, đó là đảng của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Dù là người lãnh đạo hay
là đầy tớ, theo Hồ Chí Minh đều có chung một mục đích và phấn đấu vì lợi ích, tự
do và hạnh phúc của nhân dân. Làm tròn hai nhiệm vụ trên là cơ sở vững chắc, bảo
đảm cho uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng không những được ăn sâu, bám chắc
trong lòng giai cấp, mà còn cả trong các tầng lớp quần chúng nhân dân lao động và
cả trong toàn thể dân tộc Việt Nam.
Đảng cầm quyền, dân là chủ
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước,
nhưng quan trọng là chính quyền thuộc về ai, phục vụ ai. Hồ Chí Minh thấy rõ tính
hai mặt của quyền lực. Một là, nó sẽ là công cụ sắc bén để cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới, thúc đẩy bước tiến của lịch sử. Hai là, quyền lực là công cụ đàn
áp, kìm hãm ghê gớm sự phát triển của xã hội.
Quyền lực sẽ phát huy mặt tích cực khi Đảng cầm quyền còn là đầy tớ trung
thành của nhân dân, được nhân dân ủng hộ. Hồ Chí Minh coi đây là sự khác biệt
13
giữa Đảng Cộng sản với Đảng tư sản, Người nhấn mạnh, Đảng lãnh đạo cách mạng
là để thiết lập và củng cố quyền làm chủ của nhân dân. Quyền lực thuộc về nhân
dân là bản chất, là nguyên tắc của chế độ mới, một khi xa rời nguyên tắc này Đảng
sẽ trở thành đối lập với nhân dân. Dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, là đầy tớ thì Đảng
phải lấy dân làm gốc. Trái với nguyên tắc đó, Đảng sẽ thoái hóa, biến chất, trở
thành Đảng đối lập với dân, đứng trên dân, trên pháp luật, còn đảng viên, cán bộ
của Đảng sẽ trở thành những ông "quan cách mạng", những kẻ "vinh thân phù da"
vì quyền lợi ích kỷ của bản thân mình.
Hồ Chí Minh đã xây dựng cơ chế "Đảng cầm quyền" cốt lõi của cơ chế đó là
quan hệ giữa Đảng với nhân dân, với nhà nước. Đảng phải trong sạch, xứng đáng là
người lãnh đạo, người đầy tớ của dân. Nhà nước là nhà nước của dân, do dân,vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ chính quyền các cấp đều là công bộc của dân,
đầy tớ của dân. Trong mối quan hệ giữa Đảng - Dân, thì Dân "là chủ", cán bộ, đảng
viên là "đầy tớ" của Dân. Quan điểm Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền luôn thể
hiện mối quan hệ đồng hành: Đảng cầm quyền, dân làm chủ. Có thể khái quát quan
điểm ấy như sau:
Đảng - chính quyền
Đảng - Dân
Chính quyền - Dân
Trong đó, dân là đối tượng mà cả Đảng, chính quyền vừa thực hiện vị thế
lãnh đạo, tổ chức, vừa có nhiệm vụ mang lại quyền lợi cho họ. Còn người dân vừa
là đối tượng được phục vụ, vừa là thành phần đông đảo thực hiện nghĩa vụ công
dân và chịu sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ ra
mối quan hệ này "Đảng ta là một đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tới thật trung thành của nhân
dân"[9; tr. 510] và "Chính phủ, từ Hồ Chủ tịch đến các vị ủy ban đây, rồi các bộ
14
trưởng, đến các cán bộ thôn, xã, gọi là chính quyền, gọi là chính phủ đều là đây tớ
của nhân dân... Dân làm chủ thị Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này
khác,... Làm đày tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là quan cách
mạng"[10; tr.375].
Đảng cầm quyền, không phải mọi đảng viên của Đảng đều nắm giữ các chức
vụ lãnh đạo. Tuy nhiên, ở bất kỳ cương vị nào, người đảng viên cũng ý thức được
vai trò lãnh đạo Đảng của mình và trên thực tế, phải luôn là tấm gương thực hành
nhiệm vụ được giao với kết quả cao nhất, đi đầu trong phong trào cách mạng. Vì
vậy, trong di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn "mõi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thầm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
đầy tớ thật trung thành của nhân dân"[9; tr. 510]. Hồ Chí Minh nhắc nhiều lần cụm
từ "thật sự", "thật",... Bởi lẽ đây là nhiệm vụ vốn không dễ thực hiện trong thời kỳ
Đảng cầm quyền và vì nếu "không thật sự", mà "giả dối" thì sự nghiệp vẻ vang của
Đảng khó có thể đứng vững.
15
Chương 2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIỮ VỮNG SỰ CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Thực trạng công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời
gian qua
Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản cầm quyền đã được Đảng và
Nhà nước ta vận dụng và phát triển sáng tạo trong suốt tiến trình cách mạng của
dân tộc và do đó, cách mạng Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi to lớn, rút ra
nhiều bài học quý báu. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiếp tục tăng
cường sự lãnh đạo trong quá trình xây dựng hệ thống tổ chức, đổi mới hoạt động bộ
máy Nhà nước với mục tiêu tăng cường hiệu lực và khả năng quản lý của nó.
Văn kiện Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng đã chỉ rõ "dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chức năng của Nhà nước là thể chế hóa bằng pháp luật, quyền hạn, lợi ích,
nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật" [13;
tr.451-452]. Vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đã được trang trọng ghi trong điều
4 Hiến pháp 1992 của nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam "Đảng Cộng sản
Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành
quyền lợi của giai cấp công nhân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Đến
Hội nghị Trung ương 2 (khóa VII), Đảng ta một lần nữa khẳng định cần phải tiếp
tục "đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là điều quan trọng nhất để tiến
hành đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho sự lãnh đạo của
Đảng có chất lượng và hiệu quả hơn, đồng thời làm cho sự quản lý và điều hành
của Nhà nước có hiệu lực hơn, pháp luật được tôn trọng hơn, quyền làm chủ của
nhân dân được phát huy hơn"[14; tr.469]. Đồng thời trong nhiều văn kiện của Đảng
còn khẳng định, Đảng lãnh đạo Nhà nước - tức Đảng cầm quyền, chứ không phải
làm thay Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng Đảng và mọi đảng viên đều
16
phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các tổ chức đảng và đảng
viên phải nghiêm chỉnh chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
Đến Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục nêu quan điểm "tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước... Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh đạo"[15; tr.129]. Vận dụng và phát
triển sáng tạo quan điểm của Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền, nhiều lần Đảng ta
đã phân định rõ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong tiến
trình cách mạng nước ta.
Tuy nhiên, trong tiến trình đổi mới, dưới tác động của nhiều nhân tố khách
quan và chủ quan, Đảng ta không ngừng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để
làm rõ mục tiêu và mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Nếu Đại hội VIII, Đảng xác định mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn mịnh, thì Đại Hội IX, Đảng đã bổ sung cum từ "dân chủ" để khẳng định
vai trò to lớn của dân và dân chủ trong quá trình đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tổng kết thực tiễn hơn 20 năm đổi mới và tiếp tục mục tiêu xây dựng đất
nước Việt Nam dan giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Đó là xã hội " do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới"[16; tr.68].
17
Lịch sử hoạt động của Đảng hơn 80 năm qua, lúc chưa cầm quyền cũng như
đã cầm quyền, Đảng ta đã khẳng định được vai trò cực kỳ to lớn của Đảng đối với
quá trình giải phóng dân tộc và chấn hưng đất nước. Chính sự lãnh đạo của đảng
đúng đắn của đảng đối với chính quyền và cả hệ thống chính trị là yếu tố quan
trọng đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2.2. Một số giải pháp giữ vững sự cầm quyền cầm quyền của Đảng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
2.2.1 Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm
chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là "gốc" của người cách mạng, đạo
đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên là bất kỳ khó khăn nào cũng kiên quyết
làm cho đúng chính sách và Nghị quyết của Đảng, gương mẫu cho quần chúng
"triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân"[11; tr.329]
đây chính là sức mạnh của đảng.
Nghị quyết trung ương 4 (khóa) chỉ rõ "một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, với những biểu hiện khác
nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi,...tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc,..."[18; tr.2]. Do
đó, hơn bao giờ hết, Đảng cần quan tâm chăm lo bồi dưỡng giáo dục, rèn luyện đạo
đức, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục
chủ nghĩa Mác - Lênin và cuộc vận động học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh có hiệu quả thiết thực.
Công tác tư tưởng cần nâng cao tính chiến đấu và gắn thực tiễn, biết lắng
nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của quyền chúng nhân dân, những vướng mắc
trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Mõi cán bộ, đảng viên phải nâng
18
cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, thật sự tiên phong, gương mẫu
đi đầu trong công việc, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt đảng, sinh hoạt chi bộ; thường
xuyên lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách đạo đức của cán, đảng viên;
thực hiện tốt, có hiệu quả đảng Quy định 76 về đảng viên giữ mối liên hệ với chi ủy
và hoàn thành tốt nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Coi trọng công tác kiểm tra, giám
sát, kỳ luật nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm Quy định 47 về những
điều đảng viên không được làm. Hồ Chí Minh chỉ rõ "cấp cao thì quyền to, cấp
thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút". Chính vì vậy, mõi cán bộ, đảng viên tuyệt đối gương mẫu
tự rèn luyện, tự phấn đấu nâng cao đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư" quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
"Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn
luyện, bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong" quan điểm này của Bác đến nay vẫn còn nguyên giá
trị. Hơn lúc nào hết, vấn đề nêu gương đạo đức, nói đi đôi với làm "đảng viên đi
trước, làng nước theo sau" càng trở nên cần thiết và quan trọng. Đây chính là thước
đo phân biệt đạo đức mới, cách mạng với đạo đức giả. Cần phải chống lại những
hành vi và tư tưởng phi đạo đức.
2.2.2. Tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ,
đảng viên
Chí Minh khẳng định "Đảng không phải là tổ chức làm quan phát tài". Sức
mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, do đó phải xây dựng tổ chức của Đảng từ
trung ương đến cơ cở vững mạnh, đặc biệt là tổ chức đảng ở cấp cơ sở. Tổ chức cơ
sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở, có vị trí đặc biệt quan
trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng. Đây là nơi đầu tiên và cuối cùng chịu sự tác
động trực tiếp, sâu sắc của những thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội và tổ chức; là
19
nơi rèn luyện, giáo dục, quản lý, phát triển và sàng lọc đội ngũ đảng viên; nơi thể
hiện đầy đủ, toàn diện, trực tiếp, thường xuyên nhất về quyền làm chủ của nhân dân
và mối quan hệ mật thiết, gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Sự vững mạnh của các
tổ chức cơ sở đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự vững mạnh của toàn Đảng. Vì
vậy, toàn Đảng phải dồn sức lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, với những công việc cụ thể như
sau:
Tập trung xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt về chất lượng hoạt động
của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Chăm lo xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên ở cơ
sở, trước hết là bí thư cấp uỷ có phẩm chất, năng lực và đạo đức cách mạng, có ý
thức tổ chức kỷ luật, thật sự tiền phong gương mẫu, hoàn thành tốt các nhiệm vụ
được giao.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mô hình tổ chức của Đảng ở một số loại hình
tổ chức cơ sở đảng, vừa tạo ra mô hình tổ chức thống nhất trong toàn Đảng, vừa có
những mô hình tổ chức phù hợp với những nơi có tính đặc thù.
Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ và
phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, tiến tới thể chế hoá về
mặt nhà nước vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình cơ sở. Đặc
biệt coi trọng thắt chặt mối quan hệ của tổ chức cơ sở đảng với quần chúng nhân
dân.
Cùng với việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ
sở đảng, phải nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và chất lượng công tác kết
nạp đảng viên mới. Chú trọng kết nạp vào Đảng những Đoàn viên thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh ưu tú và những quần chúng tiên tiến trong công nhân, nông dân,
trí thức và người lao động trong các thành phần kinh tế. Thực hiện thí điểm từng
bước việc kết nạp những người đang làm chủ doanh nghiệp tư nhân có đủ điều
20
kiện, tiêu chuẩn và có nguyện vọng xin vào Đảng.
Đẩy mạnh việc xây dựng, củng cố và phát triển tổ chức đảng (tổ đảng, chi
bộ, đảng bộ) ở những thôn, làng, ấp, bản, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện
chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
ở mọi nơi và trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Tiếp tục nghiên
cứu, làm rõ mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của một số loại hình tổ
chức cơ sở đảng, nhất là trong doanh nghiệp - những nơi đang chịu sự tác động
mạnh của quá trình cổ phần hoá, sắp xếp, cấu trúc lại sản xuất.
2.2.3. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng cán bộ là gốc của mội việc "muôn việc
thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém"[11; tr. 240], cán bộ là: dây
chuyền của bộ máy", nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì toàn bộ bộ máy sẽ
tê liệt. Hiện nay cách mạng nước ta đang bước sang giai đoạn mới, phấn đấu đến
2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hơn lúc nào hết,
chúng ta ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan trọng và tính
chất khó khăn, phức tạp của vấn đề cán bộ và công tác cán bộ.
Công tác cán bộ có vị trí đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng Đảng.
Nếu nói xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt của sự nghiệp đổi mới thì việc xây
dựng và đổi mới đội ngũ cán bộ lại là khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt ấy. Vì
vậy, đổi mới công tác cán bộ nhằm tạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi, chỉnh
đốn đảng theo quan điểm Hồ Chí Minh cần quán triệt và thực hiện tốt những nội
dung cơ bản sau:
Quán triệt và kiên quyết thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm của
các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu. Cấp ủy các cấp có thẩm
quyền phải chủ trì và chịu trách nhiệm về công tác tổ chức cán bộ trên cơ sở thực
21
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; cần xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá
nhân nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ tất cả các khâu của công tác
cán bộ, gồm: Xác định tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ; sử dụng, luân chuyển cán bộ; quản lý cán bộ và thực hiện
chính sách đối với cán bộ. Phải đổi mới tư duy, cách làm và khắc phục những
khuyết điểm, yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ.
Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách về phát hiện, tuyển chọn, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng người có đức có tài. Nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; kiên quyết đấu tranh khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp,
học hàm, học vị.
Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, cán bộ nữ,
cán bộ là người dân tộc thiểu số và đội ngũ chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực;
xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Công tác quy hoạch phải gắn
liền với đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ, đảm bảo vừa đáp ứng nhu cầu
chuyên môn vừa tạo điều kiện cho cán bộ được rèn luyện trong thực tiễn cở sở.
Ngoài ra, cần trọng dụng, có cách sử dụng hợp lí những cán bộ bộ "già nhưng tư
tưởng trẻ", có tầm nhìn chiến lược, còn khác khao cống hiến cho Đảng, cho Nhà
nước.
Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ
lãnh đạo, quản lý; kịp thời thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực,
không hoàn thành nhiệm vụ và uy tín giảm sút. Xử lý nghiêm minh những trường
hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy bằng cấp.
Tiếp tục thực hiện thí điểm mô hình nhất thể hoá một số chức danh cán bộ
của Đảng và Nhà nước ở các cấp Quận, Huyện, Thành Phố và tiến hành tổng kết
rút kinh nghiệp để tiến tới nhất thể hóa trong toàn đảng; tổ chức thi tuyển một số
22
chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý.
2.2.4 Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng "khi đã có chính sách đúng
thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc,
nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba đều ấy sơ sài, thì chính sách đúng
mấy cũng vô ích"[11; tr. 520]. Kiểm tra là một nguyên tắc, một mắt khâu quan
trọng của quy trình lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng, lãnh đạo mà không kiểm
tra coi như không lãnh đạo. Kiểm tra đảm bảo cho cương lĩnh, đường lối, chiến
lược và Nghị quyết Đảng được xác định đúng đắn, hoàn thiện và tạo được sự thống
nhất trong toàn đảng; vừa góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của đảng.
Nghị quyết trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách hiện nay đã
chỉ ra nhiều nguyên nhân dẫn đến, trong đó có nguyên nhân do công tác "kiểm tra,
giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên,..".
Do đó, một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay là tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, góp phần khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót của cán bộ, đảng viên
cả trong thực thi nhiệm vụ, lẫn phẩm chất, đạo đức, lối sống, về nhận thức,... Cụ
thể, cần tập trung vào những công việc cụ thể sau đây:
Tập trung kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng, các chủ trương,
đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng trên các lĩnh vực; việc chấp hành
nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ
trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; việc thực hành tiết kiệm, phòng chống tham
nhũng, lãng phí; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án
nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội; kiểm tra, giám sát việc tuyển
dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ.
Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong việc thực hiện chức trách,
23
nhiệm vụ được giao.
Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra của
Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của
mỗi cơ quan, tổ chức.
24
KẾT LUẬN
Công tác Xây dựng Đảng ở Việt Nam mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí
Minh, mãi đến hôm nay, tư tưởng về Xây dựng Đảng của Người vẫn sáng soi và sẽ
còn tiếp tục soi sáng mãi cho Đảng ta trong bối cảnh mới, khi Đảng lãnh đạo nhân
dân đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Nó không
chỉ là nền tảng, kim chỉ nam mà còn là ngọn đuốc đưa đường, chỉ lối cho sự nghiệp
cách mạng của nước nhà.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta - đại biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của
dân tộc, luôn khẳng đinh lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt, là đội tiên phong của
giai cấp công nhân và cả dân tộc. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam và sự trưởng
thành, vững mạnh của Đảng qua các giai đoạn cách mạng là bởi lẽ được ngọn đuốc
của Người dẫn đường, chỉ lối, đưa đảng ta tiến về phía trước, bên cạnh đó, Sự lớn
mạnh và giữ vững vai trò cầm quyền của đảng cũng đã chứng minh được tầm quan
trọng cũng như sự đúng đắn của Hồ Chí Minh trong công cuộc xây dựng và rèn
luyện Đảng Cộng Sản Việt Nam. Qua đó, cũng cho thấy giá trị lý luận và thực tiễn
của những luận điểm về Đảng, Đảng cầm quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Xây dựng Đảng cũng kỳ diệu như chính cuộc đời
Người, một cuộc đời kỳ diệu đã trở thành huyền thoại mà nhà báo Mỹ Hallberstam
khẳng định “Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này, hơi
giống Ganhdi, hơi giống Lênin nhưng hoàn toàn Việt Nam”.
25