Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Hành động cảm thán trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.43 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Thanh Vân

HÀNH ĐỘNG CẢM THÁN TRONG
TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Dư Ngọc Ngân

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả được đưa ra

trong luận văn là trung thực và chưa được công bố ở bất kì công trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả luận văn

Phạm Thanh Vân


LỜI CẢM ƠN


Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Dư Ngọc Ngân, người đã tận tình dìu

dắt tôi từ những bước đầu tiên trong công tác nghiên cứu khoa học cũng như đã chu đáo chỉ bảo,

hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô đã giảng dạy chúng tôi những ba năm học vừa qua,

phòng Khoa học công nghệ và sau Đại học, Thư viện Đại học Sư Phạm Tp, Hồ Chí Minh, Thư viện

Khoa học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã
tạo nhiều điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành luận văn này.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................... 2
T
4

4T

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ 3
T
4

4T

MỤC LỤC .............................................................................................................................. 4
T
4


T
4

QUY ƯỚC VIẾT TẮT........................................................................................................... 6
T
4

4T

DẪN NHẬP ............................................................................................................................ 7
T
4

4T

1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu .................................................................................... 7
T
4

T
4

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................................. 7
T
4

4T

2.1. Theo quan điểm của ngữ pháp truyền thống ......................................................................................7

T
4

T
4

2.2. Quan điểm ngữ nghĩa- ngữ dụng học ............................................................................................. 10
T
4

T
4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 12
T
4

4T

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu .............................................................................. 12
T
4

T
4

4.1. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................ 12
T
4


4T

4.2. Nguồn ngữ liệu .............................................................................................................................. 12
T
4

4T

5. Cấu trúc luận văn ...................................................................................................................... 12
T
4

4T

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ VÀ HÀNH ĐỘNG CẢM THÁN
.............................................................................................................................................. 14
T
4

T
4

1. Hành động ngôn từ .................................................................................................................... 14
T
4

4T

1.1. Khái niệm hành động ngôn từ ......................................................................................................... 14
T

4

4T

1.2. Những hành động ngôn từ .............................................................................................................. 14
T
4

4T

1.3. Hành động ở lời...................................................................................................................... 15
T
4

4T

1.3.1. Phân loại hành động ở lời ............................................................................................................ 15
T
4

4T

1.3.2. Các điều kiện sử dụng hành động ở lời ......................................................................................... 17
T
4

T
4

1.3.3. Phương thức thực hiện các hành động ở lời .................................................................................. 18

T
4

T
4

1.4. Mối quan hệ giữa cảm thán và tình thái trong tiếng Việt ......................................................... 19
T
4

T
4

1.5. Hành động cảm thán ............................................................................................................... 23
T
4

4T

1.5.1. Khái niệm hành động cảm thán ................................................................................................... 23
T
4

T
4

1.5.2. Đặc điểm của hành động cảm thán ............................................................................................... 24
T
4


T
4

1.5.3. Phân loại hành động cảm thán ..................................................................................................... 25
T
4

4T

Chương 2: PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN HÀNH ĐỘNG CẢM THÁN TRONG TIẾNG
VIỆT ..................................................................................................................................... 28
T
4

T
4

2.1. Phương thức sử dụng các phương tiện trực tiếp biểu thị ý nghĩa cảm thán .............................. 28
T
4

T
4

2.1.1. Phương thức sử dụng từ ngữ cảm thán ......................................................................................... 29
T
4

T
4


2.1.2. Phương thức sử dụng từ ngữ cảm thán chuyên biệt ....................................................................... 30
T
4

T
4

2.1.2.1. Thán từ ................................................................................................................................ 30
T
4

4T


2.1.2.2. Quán ngữ cảm thán .............................................................................................................. 45
T
4

4T

2.1.3. Phương thức sử dụng những từ ngữ cảm thán không chuyên biệt ................................................. 54
T
4

T
4

2.1.3.1 Những từ ngữ cảm thán lâm thời ........................................................................................... 55
T

4

T
4

2.1.3.2. Các trợ từ tình thái ............................................................................................................... 56
T
4

4T

2.1.3.3. Các phụ từ chỉ mức độ cao, hơn mức bình thường ................................................................ 59
T
4

T
4

2.2. Phương thức sử dụng các kết cấu biểu đạt ý nghĩa cảm thán ................................................... 66
T
4

T
4

2.3. Phương thức sử dụng ngữ điệu biểu thị ý nghĩa cảm thán ....................................................... 69
T
4

T

4

2.3.1. Khái niệm ngữ điệu ..................................................................................................................... 69
T
4

4T

2.3.2. Vai trò của ngữ điệu trong chức năng thể hiện hành động cảm thán tiếng Việt .............................. 70
T
4

T
4

2.3.2.1. Ngữ điệu trong hành động cảm thán có IFIDs chuyên biệt .................................................... 70
T
4

T
4

2.3.2.2. Ngữ điệu trong hành động cảm thán có từ cảm thán không chuyên biệt (trợ từ tình thái và phụ
từ chỉ mức độ cao) ............................................................................................................................ 72
T
4

4T

2.4. Phương thức sử dụng các phương tiện gián tiếp biểu thị ý nghĩa cảm thán .............................. 75

T
4

T
4

2.4.1. Hành động cảm thán được thực hiện gián tiếp bằng hình thức của hành động hỏi ......................... 75
T
4

T
4

2.4.2. Hành động cảm thán được thực hiện gián tiếp bằng hình thức của hành động thông báo ............... 79
T
4

T
4

KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 83
T
4

4T

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 85
T
4


4T

NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN ..................................................................................... 88
T
4

T
4

PHỤ LỤC ............................................................................................................................. 89
T
4

T
4


QUY ƯỚC VIẾT TẮT

Sp1: người nói 1 (speaker 1)

Sp2: người nói 2 (speaker 2)

IFIDs: Phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời

[2, tr18]: 2 số thứ tự tài liệu tham khảo, tr.8 số trang trong tài liệu

[5, 345]: 5 là số thứ tự tác phẩm làm tư liệu, 345 số trang trong tác phẩm



DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Khái niệm cảm thán trong tiếng Việt đã được biết đến từ rất sớm qua kết quả “phân loại
câu theo mục đích phát ngôn”, theo đó trong tiếng Việt có bốn loại câu: trần thuật, cầu khiến,
nghi vấn, cảm thán.
Tuy nhiên, từ những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, khi lí thuyết về hành động ngôn
từ của J.L.Austin, H.P.Grice, J.R. Searle phát triển mạnh mẽ, thì giới Việt ngữ học nhận thấy
rằng xung quanh “câu phân loại theo mục đích phát ngôn” còn rất nhiều điều mới mẻ và hữu
ích khi soi chiếu bằng lí thuyết trên. Chính vì vậy mà thời gian qua đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu tiếng Việt chuyên sâu về nội dung này. Các tác giả nhận thấy có sự phân biệt giữa
câu nghi vấn và hành động hỏi, giữa câu trần thuật và hành động xác nhận, câu cầu khiến và
hành động cầu khiến, giữa câu cảm thán và hành động bày tỏ cảm xúc và nhiều điều thú vị
khác. Mặc dù vậy đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về hành
động cảm thán trong tiếng Việt, vốn là một trong những hành động ngôn từ có tần số xuất hiện
cao trong giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Vì vậy, chúng tôi thực hiện luận văn này cũng với mục đích vận dụng lí thuyết về hành
động ngôn từ để khảo sát hành động cảm thán trong tiếng Việt với mong muốn có được sự hệ
thống với góc nhìn mới về hành động ngôn từ này, đồng thời cũng hi vọng kết quả tìm hiểu
này sẽ có ích cho việc nghiên cứu chung về hành động ngôn từ trong tiếng Việt.
- Về mặt lí luận: luận văn hi vọng góp phần làm rõ thêm về khái niệm hành động cảm thán,
phân loại hành động cảm thán trong tiếng Việt.
- Về mặt thực tiễn: việc miêu tả các phương thức thể hiện hành động cảm thán trong tiếng Việt
có thể đóng góp thiết thực cho việc nói, viết và dạy-học tiếng Việt hiện nay.

2. Lịch sử vấn đề
Vì là một nội dung có tính thực tế cao trong giao tiếp bằng ngôn ngữ nên từ trước đến
nay cảm thán đã được nhiều công trình Việt ngữ học quan tâm. Xét về cơ sở lí thuyết mà các
tác giả lựa chọn khi quan tâm đến vấn đề cảm thán, chúng tôi nhận thấy có hai khuynh hướng
sau: theo quan điểm của ngữ pháp truyền thống và theo quan điểm ngữ nghĩa- ngữ dụng học.
2.1. Theo quan điểm của ngữ pháp truyền thống



Phần lớn các tác giả theo quan niệm truyền thống đều nghiên cứu cảm thán với tư cách là
một kiểu câu theo mục đích nói bên cạnh các kiểu còn lại là trần thuật (tường thuật, kể), nghi
vấn (hỏi), cầu khiến (mệnh lệnh).
Nguyễn Kim Thản (1963) phân chia câu tiếng Việt theo mục đích nói thành bốn loại:
tường thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán. Tác giả cũng miêu tả khá cụ thể những mục đích
sử dụng và một số phương thức biểu thị của câu cảm thán. [40, tr.264]
Lê Văn Lý (1968) chia những câu trong Việt ngữ ra làm 8 loại: câu tự loại, câu đơn
giản, câu phức tạp, câu khẳng định, câu phủ định, câu nghi vấn, câu khuyến lệnh (ngôn ngữ
thế lực), câu cảm thán (ngôn ngữ tình cảm). Theo tác giả, câu cảm thán là một câu diễn tả tình
cảm xen lẫn vào một ý tưởng, như: vui, buồn, ngạc nhiên, đau đớn, lo sợ, tức giận, phẫn
uất,…[29, tr.188]
Cùng quan điểm với tác giả Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Minh Thuyết (1997) cũng cho
rằng ứng với mỗi mục đích giao tiếp, thường có một kiểu câu riêng với đặc điểm riêng về cấu
trúc và ứng với mục đích bộc lộ tình cảm, cảm xúc của người nói có kiểu câu cảm thán (câu
cảm). [15, tr.273-274]
Còn Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1983) xếp câu cảm
thán (thuật ngữ sách dùng là câu biểu cảm) vào kết quả phân loại dựa vào thuyết tính, bao
gồm: khẳng định và phủ định, tường thuật, nghi vấn, cầu khiến và biểu cảm. Tác giả của cuốn
sách cũng nhận định rằng: Trong câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến đều có sự biểu
thị cảm xúc. Nhưng câu biểu cảm vẫn có thể có hình thức riêng. [55, tr.205]
Tác giả Hồ Lê (1992) quan niệm rằng mỗi câu phát ra đều phải theo một trong bốn định
hướng: trần thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán, người thụ ngôn phải cảm nhận được định
hướng của từng câu để có phản xạ thích hợp. Đối với câu cảm thán, anh ta không phải hiểu
được nội dung ấy mà còn phải nhận ra điểm cảm thán trong câu (thường được diễn đạt hiển
ngôn nhưng cũng có khi ẩn mặc) và chuẩn bị hành động phản ứng. [26, tr.417]
Tác giả Nguyễn Thị Ly Kha (2008) căn cứ vào mục đích giao tiếp, phân chia câu thành
những loại quen thuộc đã có trong ngữ pháp truyền thống: câu trần thuật, câu cầu khiến, câu
nghi vấn, câu cảm thán. Tuy nhiên, tác giả cũng đi theo khuynh hướng của lí thuyết hành động

ngôn từ khi cho rằng các câu trần thuật, nghi vấn, hoặc cầu khiến đều có thể thực hiện cả
nhiệm vụ bộc lộ tình cảm và thái độ. [25, tr.202-218]
Thực tế trong khuynh hướng của ngữ pháp truyền thống khi phân loại các kiểu câu
tiếng Việt theo mục đích nói, bên cạnh đa phần là các quan niệm cho rằng có bốn kiểu câu như
đã nói- trong đó luôn có cảm thán, thì cũng có một số cách phân loại khác. Ở đây chúng tôi xin
mở rộng để có được cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về lịch sử nghiên cứu vấn đề.


Bùi Đức Tịnh (1954) không đề cập đến câu cảm thán mà chỉ có sự phân loại như sau:
câu xác định, câu phủ định, câu nghi vấn, câu khuyến lệnh và câu tỏ sự mong ước hay hối tiếc.
[46, tr.376-383]
Các tác giả Lê Cận- Phan Thiều- Diệp Quang Ban- Hoàng Văn Thung (1983) trong
Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2 có ý kiến như sau: xét về mục đích nói năng, tất cả các câu nói đều
có thể quy về ba loại: câu kể, câu hỏi và câu cầu khiến. Tuy nhiên, trong phần Thành phần phụ
của câu, sách có đoạn viết trong những ngữ cảnh nhất định, phụ ngữ cảm thán có thể trở
thành một câu (…) và phụ ngữ cảm thán là thành phần phụ biểu thị tình cảm của người nói
đối với người nghe, làm cho người nghe thông cảm với mình (…) [7, tr.239]. Như vậy rõ ràng
nếu chiếu câu được hình thành từ phụ ngữ cảm thán theo kết quả phân loại trên thì có vẻ như
đó là sự phân loại chưa thực sự bao quát, vì không rõ các tác giả sẽ xếp những câu dạng này
vào loại nào: kể, hỏi hay cầu khiến.
Hoàng Trọng Phiến (1980) dựa vào quan niệm về nhiệm vụ thông tin- ngữ pháp của
câu, tác giả chia thành câu kể, câu cầu khiến, câu hỏi và câu than gọi. Tác giả không cho câu
cảm xúc là một loại câu. Bởi lẽ, cảm xúc với cái ý nghĩa sắc thái tình cảm của chủ thể phát
ngôn thì câu nào lại không có. Và, do đó không tạo thành sự đối lập: câu cảm xúc và câu
không cảm xúc. [36, tr.269]
Nhìn chung, bốn kiểu câu trần thuật (kể), cầu khiến, nghi vấn (hỏi), cảm thán đã trở
thành phổ thông trong tiếng Việt khi đề cập đến sự phân loại câu. Nhưng thực tế, trong số
những người theo quan điểm truyền thống, có một số tác giả trong khi gọi các kiểu câu phân
loại theo mục đích phát ngôn, cũng nói rõ đó không phải là một sự phân loại chỉ đơn thuần dựa
vào mục đích giao tiếp, mà là sự phân loại kết hợp cả hai mặt mục đích giao tiếp/công dụng và

đặc điểm cấu trúc/ngữ pháp (Nguyễn Minh Thuyết [15, tr.274-275], Diệp Quang Ban [1,
tr.224]). Như Bùi Mạnh Hùng (2003) nhận xét: Tuy nhiên quan niệm phân loại câu kết hợp cả
hai mặt này chỉ thể hiện dưới dạng những nhận định có tính chất khái quát, không áp dụng
được trên thực tế, vì không thể vận dụng nhất quán để phân loại một cách có hệ thống các
kiểu câu khi gặp những câu mà giữa hình thức và công dụng của nó không có sự thống nhất
[24, tr.48]. Nguyễn Văn Hiệp (2008) cũng đồng tình khi nhận định rằng cái thường gọi là
phân loại câu theo mục đích nói của ngữ pháp truyền thống, (…) thực chất là sự nhập nhằng
giữa hai tiêu chí phân loại câu theo hình thức ngữ pháp và phân loại phát ngôn theo mục đích
phát ngôn hay lực ngôn trung. [23, tr.220-221]
Trong những cách phân loại câu tiếng Việt theo mục đích nói, có một trường hợp “hiếm
hoi” (từ dùng của tác giả Bùi Mạnh Hùng [24, tr.48]), đó là sự phân loại dựa vào ngữ điệu của


Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê [11, tr.639-640] (ngữ điệu là cái giọng ta nói ra một câu).
Kết quả phân loại như sau:
-

Câu nói theo giọng thường

-

Câu nói theo giọng hỏi

-

Câu nói theo giọng biểu cảm (để tỏ tình cảm hay sai bảo ai)
Xét về thời gian, quan điểm này không mới. Có thể thấy được hạn chế ở quá trình phân

tích của sự phân loại này là “phân tích về vấn đề hữu quan của hai tác giả còn sơ sài và có chỗ
thiếu chính xác” (nhận xét của Bùi Mạnh Hùng [24, tr.49]) song, rõ ràng trong khi những cách

phân loại cùng thời còn nhập nhằng về tiêu chí thì cách phân loại của hai ông là dựa vào dấu
hiệu hình thức một cách thuần nhất.
2.2. Quan điểm ngữ nghĩa- ngữ dụng học
Tiêu biểu cho khuynh hướng này trong nghiên cứu cảm thán tiếng Việt có thể kể đến
các tác giả sau: Diệp Quang Ban, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thị Lương, Nguyễn Thiện Giáp,
Nguyễn Đức Dân, Đỗ Hữu Châu, Đỗ Hùng Việt,…
Diệp Quang Ban (2004, 2008) theo định hướng ngữ pháp chức năng hệ thống của
M.A.K Halliday, tác giả cho rằng câu phân loại theo mục đích nói là hiện tượng nằm trên
đường biên giới của câu xét theo cấu tạo hình thức và câu xét ở phương diện sử dụng. Với tiêu
chí lấy hình thức làm cơ sở phân loại và lấy mục đích nói làm tên gọi, câu xét theo mục đích
nói được chia thành bốn kiểu sau đây: câu trình bày, câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm
thán [5, tr.108-109]. Và ở đây tác giả cũng quan tâm đến cảm thán một cách khái lược, song
cũng chỉ với tư cách là một kiểu câu chứ chưa phải là một hành động ngôn từ.
Tác giả Cao Xuân Hạo (1991) khẳng định đối với tiếng Việt căn cứ vào một số thuộc
tính về cấu trúc cú pháp có thể phân loại các câu ra làm hai loại lớn: câu trần thuật và câu nghi
vấn. Tác giả cho rằng “câu cảm thán” chỉ là câu trần thuật có màu sắc cảm xúc được đánh
dấu mà thôi [21, tr.384]. Còn về những hành động ngôn từ, Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức
năng liệt kê một bảng khá dài những hành động ngôn trung trong đó có kể đến than phiền và
mừng vốn là những hành động cảm thán cụ thể và có đề cập đến câu nghi vấn có giá trị cảm
thán [21, tr.388- 389, 412]. Như vậy trong quan điểm của Cao Xuân Hạo, mặc dù trình bày
không thật chi tiết, nhưng chúng ta thấy có sự tách bạch giữa hai khái niệm: câu cảm thán và
hành động cảm thán.
Nguyễn Thị Lương (2005) quan tâm đến cả hai vấn đề: hành động cảm thán và câu cảm
thán. Tác giả có viết: Trong hoạt động giao tiếp, con người sử dụng rất nhiều hoạt động nói
trực tiếp như: trần thuật, hỏi, cầu khiến, cảm thán, hứa, dọa, thề, khen, chê, thách, đố,… Mỗi


hành động như vậy đều được thực hiện bằng những kiểu câu có hình thức, chức năng phù hợp
với đích ở lời của chúng. Trong số các hành động nói, thực tế cho thấy, các hành động trần
thuật, hỏi, cầu khiến, cảm thán, khẳng định, phủ định được sử dụng nhiều hơn cả trong hoạt

động giao tiếp. Phương tiện ngôn ngữ để thực hiện các hành động đó là các kiểu câu tương
ứng: câu trần thuật, câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm thán và câu phủ định. [30, tr.190-191].
Tuy nhiên phần chi tiết về cảm thán mà tác giả đề cập là câu cảm thán.
Nguyễn Thiện Giáp (2008) thì gián tiếp đề cập đến hành động cảm thán thông qua nhận
định Ngữ pháp truyền thống khi nghiên cứu các câu phân loại theo mục đích nói thì thực tế đã
nghiên cứu các biểu thức ngôn hành của những hành động ngôn từ tương ứng [17, tr.388].
Riêng về cảm thán, tác giả chỉ nói đến một số cách thức để tạo câu cảm thán (thán từ, tình thái
từ,…) mà thôi.
Các tác giả Nguyễn Đức Dân (1998), Đỗ Hữu Châu, Đỗ Hùng Việt (2008) chủ yếu
nghiên cứu về hành động ngôn từ trong tiếng Việt nói chung dựa trên lí thuyết của J. Austin và
J. Searle. Nguyễn Đức Dân (1998) trong cách phân loại hành động ở của J.Searle mà tác giả
trình bày có phần đề cập đến lớp biểu cảm. Lớp này gồm những hành vi tại lời như: xin lỗi,
chúc mừng, tán thưởng, cảm ơn, mong muốn, ruồng rẫy, biểu lộ tình cảm (vui thích, khó
chịu)…. Đỗ Hữu Châu, Đỗ Hùng Việt trong Giáo trình Ngữ dụng học có đoạn: Ngữ pháp
TND (tiền ngữ dụng- chúng tôi chú thích) chia theo mục đích nói căn cứ vào đặc điểm hình
thức bốn kiểu câu: trần thuật, hỏi, cầu khiến, cảm thán (có tác giả thêm: phủ định). Thực ra,
bốn kiểu câu này chỉ là bốn biểu thức ngữ vi của bốn hành động ở lời thường gặp. Vì số lượng
hành động ở lời lớn hơn nhiều nên số lượng các biểu thức ngữ vi cũng lớn hơn bốn (hoặc
năm) kiểu câu của ngữ pháp TND rất nhiều. [10, tr. 73]
Như vậy, theo quan điểm ngữ dụng học, cảm thán là một hành động ngôn từ. Các tác
giả theo quan điểm này trong Việt ngữ học đã dựa trên lí thuyết hành động ngôn từ của
J.Austin và J.Searle đã xây dựng những tiền đề lí luận cơ bản cho việc nghiên cứu các hành
động ngôn từ trong tiếng Việt.
Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành có đề cập đến câu cảm
thán, hành động cảm thán, như: Nhận xét về đặc điểm ngữ nghĩa của một kiểu câu tiếng Việt
của Lê Quang Thiêm (1985) [44], Một số hình thức hỏi biểu thức cảm thán trong tiếng Việt
của Nguyễn Thị Hồng Ngọc (2003) [34], An ủi- lời hồi đáp tích cực cho hành vi cảm thán và
Hành vi cảm thán gián tiếp của Hà Thị Hải Yến (2001) (2004) [51][52], Cách sử dụng từ ngữ
cảm thán trong truyện Kiều của Phạm Thị Kim Thoa (2009) [45].
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Hành động cảm thán, nghĩa là như từ đầu đã xác

định, khuynh hướng chúng tôi lựa chọn và lấy làm cơ sở lí luận là lí thuyết hành động ngôn từ


của ngữ dụng học. Chúng tôi cho rằng cảm thán là một nhu cầu có thực trong giao tiếp, và để
thực hiện nhu cầu đó con người có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, trong đó chủ yếu
là ngôn từ. Nói khác đi cảm thán là một hành động ngôn từ, một hành động ngôn từ độc lập và
có tư cách ngang bằng với các hành động ngôn từ khác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hành động cảm thán trong tiếng Việt thể hiện nhiều giá trị ở lời cụ thể khác nhau, như:
than phiền, rên rỉ, mừng, vui, sướng, trầm trồ…. Giữa các hành động ấy, điểm khác nhau cơ
bản chính là tình cảm, cảm xúc của người nói được thể hiện. Để tạo được sự đa dạng ấy, tiếng
Việt có thể sử dụng nhiều phương thức biểu đạt khác nhau. Trong giới hạn luận văn, chúng tôi
dành phần lớn sự quan tâm cho các phương thức ấy. Chúng tôi tiếp nhận và vận dụng những
kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học về vấn đề cảm thán để từ đó đặc trưng hóa các phương
thức thể hiện hành động cảm thán trong tiếng Việt. Cụ thể là:
-

Phương thức thể hiện trực tiếp hành động cảm thán trong tiếng Việt

-

Phương thức thể hiện gián tiếp hành động cảm thán trong tiếng Việt

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học chung
như thu thập, phân loại, khảo sát ngữ liệu,…luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa- ngữ dụng kết hợp với phân tích ngữ nghĩa- cú pháp của
các biểu thức biểu đạt các loại hành động cảm thán chủ yếu trong tiếng Việt.

- Phương pháp miêu tả: được dùng để khảo sát, miêu tả các loại hành động cảm thán chủ yếu
và những phương thức thể hiện chúng trong tiếng Việt.
- Phương pháp thống kê: để định lượng các phương tiện thể hiện các hành động cảm thán chủ
yếu trong tiếng Việt.
4.2. Nguồn ngữ liệu
Các ngữ liệu được khảo sát và trình bày trong luận văn được chúng tôi thu thập từ lời ăn
tiếng nói hàng ngày và trong một số tác phẩm văn chương Việt Nam.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Phần Nội dung chính của luận văn gồm hai chương
như sau:


Chương 1: Tổng quan về hành động ngôn từ và hành động cảm thán
Trong chương này, chúng tôi trình bày những nội dung cơ bản về hành động ngôn từ có
liên quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu của luận văn như: khái niệm, phân loại hành động
ngôn từ, hành động ở lời,… ; bên cạnh đó là những vấn đề cốt yếu nhất về hành động cảm
thán: khái niệm, đặc điểm, phân loại.
Chương 2: Phương thức thể hiện hành động cảm thán trong tiếng Việt
Ở chương hai, luận văn tập trung khảo sát, miêu tả các phương tiện thể hiện hành động
cảm thán trong tiếng Việt. Đó là các phương thức thể hiện trực tiếp như từ và tổ hợp từ có ý
nghĩa cảm thán chuyên biệt, từ và tổ hợp từ cảm thán không chuyên biệt, các kết cấu biểu đạt ý
nghĩa cảm thán, ngữ điệu biểu thị ý nghĩa cảm thán; các phương thức gián tiếp thể hiện hành
động cảm thán như sử dụng hình thức hỏi, hình thức thông báo.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ VÀ HÀNH
ĐỘNG CẢM THÁN

1. Hành động ngôn từ

1.1. Khái niệm hành động ngôn từ
Thuật ngữ hành động ngôn từ (speech act) do nhà triết học Anh là J.Austin khởi xướng
và được một nhà triết học khác là J.Searle phát triển. Các tác giả này nhận ra rằng ngôn ngữ
không chỉ được dùng để thông báo hoặc miêu tả cái gì đó mà còn được dùng để thực hiện các
hành động. Chẳng hạn khi ai đó nói “Tôi cảm ơn…”, “Tôi xin lỗi…” thì những phát ngôn đó
đã thực hiện hành động “cảm ơn” và “xin lỗi”. Tương tự ta có thể có các hành động: đề nghị,
bác bỏ, tuyên bố, mời mọc, ra lệnh… Các hành động thực hiện bằng lời nói được gọi là hành
động ngôn từ. Chúng ta chỉ có thể nhận diện ra hành động ngôn từ do một phát ngôn nào đó
thực hiện khi chúng ta biết được ngữ cảnh mà phát ngôn đó diễn ra. Hành động ngôn từ chính
là ý định về mặt chức năng của một phát ngôn.
1.2. Những hành động ngôn từ
Trong giao tiếp, mỗi phát ngôn được tạo ra thường có 3 loại hành động.
- Hành động tạo lời (locutionary act )
Hành động tạo lời là hành động cơ sở của phát ngôn. Đó là hành động được thực hiện bởi
sự vận động của các cơ quan phát âm (hoặc cử động tay để tạo ra các nét chữ) vận dụng các từ
và kết hợp các từ theo quan hệ cú pháp thích hợp thành các câu…Nhờ vào hành động tạo lời,
chúng ta hình thành nên các biểu thức có nghĩa.
Nếu gặp một trở ngại nào đó ở cơ quan phát âm hoặc không tìm ra từ thích hợp, hoặc
không nắm được các quan hệ cú pháp, cách thức tổ chức các biểu thức của một ngôn ngữ thì
chúng ta không thực hiện được hoặc thực hiện không hoàn chỉnh hành động tạo lời.
- Hành động ở lời ( illocutionary act )
Đây là hành động mà đích của nó nằm ngay trong việc tạo nên phát ngôn được nói ra
(viết ra). Chính cái đích này phân biệt các hành động ở lời với nhau. Hành động tại lời hỏi có
đích là bày tỏ mong muốn được giải đáp điều người nói chưa rõ nên khác hành động ở lời hứa
vì hứa có mục đích là (người nói) tự ràng buộc mình vào một hành động sẽ thực hiện trong
tương lai.
Đích của hành động ở lời được gọi là đích ở lời nếu đích đó được thỏa mãn thì ta có
hiệu quả ở lời.



Dấu hiệu của hiệu quả ở lời là lời hồi đáp của người tiếp nhận hành động tại lời (người
nghe, người đọc). Cũng có những hành động ở lời có hiệu quả là một hành động mượn lời vật
lí.
Ví dụ:
(1) A: Đem chén vào ăn cơm con!
B: Dạ!
Hiệu quả của hành động tại lời sai là việc đứa con thực hiện hành động mượn lời vật lí “đem
chén” .
- Hành động mượn lời ( perlocutionary act )
Hành động mượn lời khi thực hiện một phát ngôn là hành động nhằm gây ra những biến
đổi trong nhận thức, trong tâm lí, trong hành động vật lí có thể quan sát được, gây ra một tác
động nào đấy đối với ngữ cảnh. Giả sử A tạo ra phát ngôn “Trời nóng quá!” thì hành động tạo
lời của câu này là hành động phát ra câu đó với những từ ngữ có nghĩa và được sắp xếp theo
một trình tự nhất định, hành động ở lời của câu này là một lời than về thời tiết “trời nóng” tại
thời điểm phát ngôn, hành động mượn lời có thể là hành động bật quạt (mở cửa) của người
nghe hoặc chỉ lặng yên không thực hiện yêu cầu đó.
Ba thuật ngữ locutionary act, illcutionary act, và perlocutionary act được Hoàng Phê
dịch là hành động phát ngôn, hành động dĩ ngôn và hành động dụng ngôn; Cao Xuân Hạo dịch
là hành động tạo ngôn, hành động ngôn trung và hành động xuyên ngôn; Nguyễn Đức Dân
dịch là hành vi tạo lời, hành vi ở lời và hành vi mượn lời. Chúng tôi sử dụng cách dịch của tác
giả Đỗ Hữu Châu.
Ba loại hành động: hành động tạo lời, hành động ở lời, hành động mượn lời được thực
hiện theo cách thích hợp khi tạo ra một phát ngôn.
1.3. Hành động ở lời
1.3.1. Phân loại hành động ở lời
Có hai hướng phân loại hành động ở lời: một của J.Austin và một của J.Searle. Ở đây
chúng tôi xin trình bày kết quả phân loại của J.Searle. J.Searle đã phân ra 5 kiểu cơ bản của
hành động tại lời như sau:
- Hành động tuyên bố (declaration)
Hành động tuyên bố là hành động người nói thực hiện nhằm làm thay đổi địa vị hoặc

điều kiện bên ngoài của một đối tượng hoặc hoàn cảnh chỉ bằng cách tạo ra phát ngôn, như: từ
bỏ, đặt tên, sa thải, khai mạc, … Đặc trưng của hành động tuyên bố là từ ngữ làm thay đổi
thực tại, người nói gây ra tình huống.


- Hành động biểu kiến (representative)
Hành động biểu kiến là hành động thể hiện cái mà người nói tin tưởng. Hành động này
thể hiện ở những câu mà người nói phải chịu trách nhiệm về giá tri chân lí mà mệnh đề được
biểu đạt. Nhóm biểu kiến có thể bao gồm các hành động như: khẳng định, quả quyết, phỏng
đoán, miêu tả, thông báo, từ chối, tán thành, phản đối, giả định, gợi ý, tranh cãi, hưởng ứng,
giải thích,… Đặc trưng của hành động biểu kiến là: làm từ ngữ khớp với thực tại, người nói tin
vào tình huống.
- Hành động biểu cảm (expressive)
Với hành động này, người nói thể hiện trạng thái tâm lí của mình đối với sự tình trong
nội dung mệnh đề, như xin lỗi, phàn nàn, chúc mừng, cảm ơn, hoan nghênh. Đặc trưng của
hành động biểu cảm là: làm từ ngữ khớp với thực tại, người nói cảm thấy tình huống.
- Hành động cầu khiến (directive)
Đây là hành động mà người nói nhằm làm cho người nghe thực hiện điều gì đó, chẳng hạn:
hỏi, yêu cầu, ra lệnh, nài ép, thỉnh cầu. Đặc trưng của hành động cầu khiến là làm thực tại
khớp với từ ngữ, người nói muốn tình huống xảy ra.
- Hành động ước kết (commissive)
Người nói cam kết một hành động tương lai nào đó, chẳng hạn: bảo đảm, hứa hẹn, cam
đoan, thề, tuyên thệ. Đặc trưng của hành động ước kết là làm thực tại khớp với từ ngữ, người
nói dự định tình huống.
J. Searle phân loại hành động trên dựa vào các tiêu chí cơ bản sau:
- Đích ở lời:
Đích ở lời của một hành động ngôn từ là mục đích của hành động đó. Chẳng hạn đích ở
lời của hành động hứa hẹn là tự gán trách nhiệm tinh thần về sự thực hiện việc gì. Đó là điều
kiện thiết yếu của hành động hứa hẹn. Đích ở lời không trùng với hiệu lực ở lời. Hai hành
động khác nhau có thể cùng một đích ở lời nhưng hiệu lực ở lời lại khác nhau. J.Searle nêu ví

dụ sau: Hai hành động ra lệnh và thỉnh cầu đều cùng một đích ở lời là người nghe sẽ nhận
thực hiện (hoặc không thực hiện) một việc gì đó nhưng hiệu lực ở lời lại khác nhau, ra lệnh là
bắt buộc còn thỉnh cầu thì chỉ kêu gọi sự thiện chí của người nghe mà thôi.
- Hướng khớp ghép giữa từ ngữ với thực tại:
Hướng khớp ghép là mối quan hệ giữa từ ngữ và thực tại mà hành động đề ra. Hướng
khớp ghép có thể được xây dựng theo hai chiều: từ từ ngữ tới thực tại hoặc từ thực tại tới từ
ngữ. Chẳng hạn trong cầu khiến hoặc trong ước kết, hướng khớp ghép là từ từ ngữ tới thực tại,
nghĩa là lời có trước, sau đó hành động mới thực hiện sao cho phù hợp với lời. Trong hành


động biểu kiến và biểu cảm, thì thực tại có trước, lời nói phải làm sao cho phù hợp với thực
tại.
- Trạng thái tâm lí được thể hiện :
Mỗi kiểu hành động ở lời ứng với sự thể hiện trạng thái tâm lí nhất định. Trong hành
động biểu kiến, trạng thái tâm lí của người nói là phải có lòng tin vào mệnh đề được nói ra.
Với cầu khiến, trạng thái tâm lí là mong muốn người nghe thực hiện hành động. Trong hành
động biểu cảm, trạng thái tâm lí phụ thuộc vào mục đích của hành động ngôn từ cụ thể (thể
hiện sự vui sướng, mừng rỡ hay thất vọng v.v). Trong hành động ước kết, trạng thái tâm lí của
người nói là định làm cái gì đó.
Mỗi hành động ở lời muốn thực hiện được phải có những cơ sở, những ràng buộc nhất
định. Cảm thán là một hành động ở lời thuộc loại hành động biểu cảm. Cho nên tiếp sau đây,
chúng tôi xin đề cập đến những điều kiện sử dụng các hành động ở lời.
1.3.2. Các điều kiện sử dụng hành động ở lời
Con người ta khi thực hiện bất cứ hành động nào cũng phải hội đủ những điều kiện nhất
định mới có được kết quả như mong muốn, dù đó là hành động vật lí giản đơn như rọc giấy
(có giấy, có dao (đủ sắc), có nhu cầu rọc giấy…). Vì cũng là hành động, hơn nữa lại là hành
động xã hội nên hành động ở lời cũng có những điều kiện thích hợp mới thực hiện được và
mới có hiệu quả. Mỗi hành động ở lời: kêu, chào, xin lỗi, mời, cầu xin, hứa, bảo,…đều có điều
kiện riêng.
Trong những điều kiện riêng của mỗi hoạt động ở lời khác nhau, J.Austin và J.Searle đã

tìm ra những điểm chung mà J.Austin gọi chúng là những điều kiện thuận lợi (felicity
conditions).
- Điều kiện nội dung mệnh đề: Đây là điều kiện liên quan đến cấu trúc quan hệ ngữ
nghĩa của nội dung mệnh đề. Điều kiện này chỉ ra nội dung hoạt động ở lời, chẳng hạn đối với
hành động hứa và hành động cảnh báo thì nội dung của phát ngôn phải nói về một sự kiện
tương lai, hành động hứa đòi hỏi cái sự kiện tương lai đó sẽ là hành động của người nói.
- Điều kiện chuẩn bị: Điều kiện này liên quan tới những hiểu biết của người thực hiện
hoạt động về những tri thức nền của người tiếp nhận hành động, về quyền lợi, về trách nhiệm,
về năng lực tinh thần và vật chất của người tiếp nhận hành động. Cũng thuộc điều kiện chuẩn
bị là lợi ích, trách nhiệm, năng lực vật chất, tinh thần cũng như quyền lực của người nói đối
với hành động ở lời mà mình đưa ra.


- Điều kiện tâm lí: Đây là điều kiện chỉ ra trạng thái tâm lí của người thực hiện hành
động ở lời thích hợp với hành động ở lời mà mình đưa ra. Điều kiện tâm lí còn có nghĩa là
người nói thực sự chân thành mong đợi hiệu quả ở lời của hành động ở lời mà mình thực hiện.
- Điều kiện căn bản: Theo điều kiện này thì người thực hiện hành động ở lời nào đó khi
phát ngôn ra biểu thức ngôn hành tương ứng bị ràng buộc ngay vào kiểu trách nhiệm và hành
động ở lời tạo ra biểu thức ngôn hành đó đòi hỏi. Chẳng hạn, khi hứa hẹn bằng lời, người nói
đã gắn vào mình trách nhiệm thực hiện lời hứa. Khi ra lệnh, trách nhiệm và sự ràng buộc lại
gắn vào người nghe, nghĩa là người nghe phải thực hiện nó hoặc bị ràng buộc phải thực hiện
nó.
1.3.3. Phương thức thực hiện các hành động ở lời
Hành động ở lời là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Ngữ dụng học. Từ đây luận văn
xin dùng thuật ngữ hành động ngôn từ để chỉ hành động ở lời.
Các hành động ngôn từ có thể được thực hiện bằng hai phương thức: trực tiếp và gián
tiếp, được gọi tên tương ứng là hành động ngôn từ trực tiếp và hành động ngôn từ gián tiếp.
- Hành động ngôn từ trực tiếp:
Hành động ngôn từ trực tiếp là hành động mà người nghe có thể nhận diện ra đích ở lời
dựa vào chính câu chữ biểu thị chúng (không phải suy ý, không phải dựa vào ngữ cảnh). Trong

trường hợp này, hình thức từ ngữ và mục đích nói có sự thống nhất. Hành động ngôn từ trực
tiếp còn được gọi là hành động câu chữ.
Các dấu hiệu nhận diện hành động ngôn từ trực tiếp:
+ Dựa vào các động từ ngôn hành (động từ ngữ vi)
Động từ ngôn hành là những động từ nói năng mà khi nói ra ở ngôi thứ nhất, thời hiện
tại (bây giờ) và không có bất kì một yếu tố hình thái nào liên quan tới thái độ, cách đánh giá…
của người nói, thì người nói thực hiện luôn cái hành động ở lời do động từ đó biểu thị.
Ví dụ:
(2)

Tôi khuyên các em đừng nên học tủ.

(khuyên là động từ ngôn hành)
Tôi đã khuyên các em đừng nên học tủ rồi mà.
(khuyên không còn là động từ ngôn hành vì có từ tình thái đã cho biết hành động
khuyên được nói đến ở đây chủ thể phát ngôn thực hiện trong quá khứ)
+ Dựa vào hình thức của câu
Câu hỏi thường có các đại từ nghi vấn ai, gì nào … phụ từ nghi vấn, quan hệ từ lựa
chọn hay, …đã…chưa ,…, các tiểu từ hình thái dùng để hỏi: à, ơi, nhỉ, nhé… và ngữ điệu hỏi,


hành động cầu khiến thường được thực hiện bằng hình thức câu có chứa phụ từ mệnh lệnh
hãy, đừng, chớ, các tiểu từ đi, thôi, nào…và ngữ điều cầu khiến; hành động cảm thán cũng có
những dấu hiệu khu biệt về hình thức, chúng tôi sẽ miêu tả cụ thể ở chương sau.
- Hành động ngôn từ gián tiếp
Hành động ngôn từ gián tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện bằng cách sử dụng
các phương tiện biểu đạt của hành động ngôn từ này để đạt tới hiệu lực ở lời của một hành
động ngôn từ khác.
Ví dụ: Trong tập quán giao tiếp của người Việt ta thường gặp những hành động chào được
thực hiện gián tiếp bằng hình thức hỏi, như “Bác đi đâu đấy?”, “Mới về à?”, “Đến sớm

vậy?”…
Để nhận diện hành động ngôn từ gián tiếp người ta thường nhắc tới bốn cơ sở sau:
-

Hoàn cảnh giao tiếp

-

Các thao tác suy ý

-

Các ước định xã hội (hay các lẽ thường)

-

Các quy tắc điều khiển hành động ngôn ngữ

Các hành động ngôn từ trực tiếp thường được biểu thị bằng các biểu thức ngôn hành
tường minh, còn trong hành động ngôn từ gián tiếp là các biểu thức ngôn hành nguyên cấp.
Biểu thức ngôn hành tường minh là biểu thức ngôn hành có động từ được dùng trong chức
năng ngôn hành (động từ nói năng thực hiện hành động tại lời ngay khi phát âm). Biểu thức
ngôn hành nguyên cấp là biểu thức tuy có hiệu lực ở lời nhưng không có động từ ngôn hành.
Sở dĩ chúng tôi đề cập đến hành động ngôn từ trực tiếp và gián tiếp là vì hành động cảm
thán trong tiếng Việt cũng được thực hiện bằng cả hai phương thức này.
1.4. Mối quan hệ giữa cảm thán và tình thái trong tiếng Việt
Thường thì khi đề cập đến cảm thán người ta hay liên tưởng đến khái niệm tình thái.
Đôi khi chúng ta còn gặp quan điểm cho rằng tình thái và cảm thán giống nhau, cùng đều thể
hiện tình cảm, cảm xúc. Quả thực, cảm thán và tình thái có quan hệ khá gắn bó, tuy nhiên đây
là hai khái niệm khá tách bạch.

Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học hiện nay được các tác giả dùng để chỉ một
phạm trù ngữ nghĩa rộng lớn, xoay quanh mối quan hệ giữa người nói, nội dung miêu tả trong
phát ngôn và thực tế. Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tình thái trong ngôn
ngữ học.
Vinogradov xem tình thái như một phạm trù ngữ pháp độc lập, tồn tại song song với
phạm trù vị tính, biểu thị những mối quan hệ khác nhau của thông báo với thực tế. Tác giả cho


rằng: “Mỗi câu đều mang một ý nghĩa tình thái như dấu hiệu cấu trúc cơ bản, tức chỉ ra quan
hệ đối với hiện thực”. Nội dung thông báo, có thể được người nói hiểu như là hiện thực hay
phi hiện thực, là đã tồn tại trong quá khứ, trong hiện tại, hay là điều sẽ được thực hiện trong
tương lai, là điều mà người nói mong muốn hay đòi hỏi với ai đó…
O.B. Xirotinina thì cho rằng tình thái nằm trong vị tính của câu. Đối với các ngôn ngữ
biến hình thì “Thời tính, tình thái vị tính và ngôi tính nằm trong cấu trúc vị tính và cùng nhau
tạo nên cái gọi là vị tính mà thiếu nó thì không thể có thông báo”.
Với Gak thì tình thái phản ánh mối quan hệ của người nói đối với nội dung phát ngôn
và nội dung phát ngôn đối với thực tế. Tình thái biểu hiện nhân tố chủ quan của phát ngôn, đó
là sự khúc xạ của một phân đoạn thực tế qua nhận thức của người nói. (Gak, 1986)
Ngoài ra còn có một số định nghĩa khác như:
Tình thái là phạm trù ngữ nghĩa chức năng thể hiện các dạng quan hệ khác nhau của
phát ngôn với thực tế cũng như các dạng đánh giá chủ quan khác nhau đối với điều được thông
báo. (Liapol, 1990).
Tình thái là thái độ của người nói đối với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay cái sự
tình mà mệnh đề đó miêu tả. (Lyons, 1977).
Những định nghĩa trên đây về tình thái chúng tôi kế thừa từ kết quả nghiên cứu của tác
giả Nguyễn Văn Hiệp trong Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp. [23, tr84-85]
Qua những nghiên cứu khá bao quát và tỉ mỉ NguyễnVăn Hiệp cũng nhận thấy rằng:
tình thái, theo một định nghĩa được rất nhiều nhà nghiên cứu nhất trí, đó là “quan điểm hoặc
thái độ của người nói đối với mệnh đề mà câu nói biểu thị hoặc các tình huống mà mệnh đề
miêu tả” (Lyons,1977)- Dẫn theo [23, tr86], và cách sử dụng thuật ngữ đối lập tình thái và nội

dung mệnh đề có lẽ là cách dùng phổ biến nhất hiện nay.
Chẳng hạn, cùng một một nội dung sự tình “Tuấn học rất giỏi” người ta có thể thể hiện
những nội dung tình thái rất khác nhau:
(3) Tuấn từng học giỏi.
(4) Có lẽ Tuấn học giỏi.
(5) Gì thì gì, Tuấn là người học giỏi.
(6) Có phải Tuấn học giỏi?
(7) Tuấn không bao giờ là người học giỏi.
(8) Tuấn mà học giỏi à?
Với phát ngôn (3), người nói thể hiện thông báo của anh ta như một xác nhận về một sự
tình được coi là hiện thực. Với phát ngôn (4), người nói thể hiện thông báo của anh ta chỉ như
một phỏng đoán, nôi dung sự tình là một kiến giải chủ quan của người nói, dựa vào những



×