Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phương thức huyền thoại hóa trong văn xuôi việt nam đương đại ( qua một số sáng tác của nguyễn huy thiệp, tạ duy anh, nguyễn xuân khánh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.4 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-------

-------

LÊ QUỐC HIẾU

PHƢƠNG THỨC HUYỀN THOẠI HÓA TRONG
VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
(Qua một số sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp,
Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 10/2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-------

-------

LÊ QUỐC HIẾU

PHƢƠNG THỨC HUYỀN THOẠI HÓA TRONG
VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
(Qua một số sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp,
Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh)


CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ:

LÝ LUẬN VĂN HỌC
60. 22. 01. 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
\

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. DIÊU LAN PHƢƠNG

HÀ NỘI - 10/2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................................5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...................... Error! Bookmark not defined.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.................................... Error! Bookmark not defined.
5. Cấu trúc của luận văn ......................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 1: HUYỀN THOẠI HÓA VÀ MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC BIỂU
HIỆN CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠIError!

Bookmark

not

defined.

1.1. Huyền thoại và phê bình huyền thoại ............... Error! Bookmark not defined.
1.1.1. Huyền thoại .............................................. Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Phê bình huyền thoại ................................ Error! Bookmark not defined.
1.2. Huyền thoại và hành trình tìm kiếm phương thức biểu hiện của văn xuôi Việt
Nam sau 1975 .......................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG THỨC HUYỀN THOẠI HÓA TỪ BÌNH DIỆN HÌNH
TƢỢNG THẨM MĨ ................................................ Error! Bookmark not defined.
2.1. Nhân vật huyền thoại ...................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Nhân vật theo cấu trúc đối lập nhị nguyênError!

Bookmark

not

defined.
2.1.2. Nhân vật mang màu sắc huyền thoại ........ Error! Bookmark not defined.
2.2. Không gian huyền thoại .................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Không gian theo cấu trúc đối lập nhị nguyênError!

Bookmark

not

defined.
2.2.2. Không gian tâm linh, huyền ảo ................ Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Không gian biểu tượng ............................. Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC, KHUYNH HƢỚNG TÁI TẠO
HUYỀN THOẠI: HUYỀN THOẠI CỔ ĐIỂN, TÂN HUYỀN THOẠI .... Error!
Bookmark not defined.
1



3.1. Tái tạo, hòa trộn những motif, điển tích trong huyền thoại phương Đông và
phương Tây .............................................................. Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Motif Đứa bé thần kì và Sự ra đời kì lạ ... Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Motif Hóa thân ......................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.4. Motif Tội ác - trừng phạt ......................... Error! Bookmark not defined.
3.1.5. Motif Hành trình ...................................... Error! Bookmark not defined.
3.2. Giễu nhại, giải huyền thoại .............................. Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Quan niệm về giễu nhại, giải huyền thoại Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Các xu hướng giải huyền thoại ................. Error! Bookmark not defined.
3.2.2.1. Giải huyền thoại về lịch sử, chính trị . Error! Bookmark not defined.
3.2.2.2. Giải huyền thoại về tâm thức dân gianError!

Bookmark

not

defined.
3.3. Thế giới cổ mẫu, biểu tượng ............................. Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Cổ mẫu đất - nước .................................... Error! Bookmark not defined.
3.3.2. Cổ mẫu sông - biển ................................... Error! Bookmark not defined.
3.3.3. Cổ mẫu giấc mơ........................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .............................................................. Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 9

2


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Trong khoảng thời gian hai thập niên trở lại đây, vấn đề “huyền thoại” (myth); phê
bình huyền thoại (myth criticism); cổ mẫu (archetype) trở thành mối quan tâm lớn của
các nhà nghiên cứu. Một trong những nguyên nhân cốt lõi để hướng nghiên cứu huyền
thoại cổ mẫu ngày càng khẳng định ưu thế trong việc khám phá, giải mã tác phẩm là bởi
chúng đã trở thành những chất liệu nghệ thuật, “đi vào”, “ngả bóng” nơi các sáng tác văn
học, hình thành một khuynh hướng sáng tác huyền thoại độc đáo. Khuynh hướng này bắt
nguồn từ sự chuyển hướng mạnh mẽ trong tư duy văn xuôi (tiểu thuyết, truyện ngắn) sau
năm 1975 mà cội nguồn của nó là ý thức “vực dậy” những sáng tác truyền kì trung đại,
hoặc những nhân vật, motif trong huyền thoại, truyền thuyết Đông - Tây... Khuynh
hướng sáng tác huyền thoại không phải đến bây giờ mới xuất hiện mà huyền thoại với vai
trò là “cái nôi nguyên hợp của văn hóa loài người”, “hình thức cổ xưa nhất”, “thể loại”
tồn tại lâu đời nhất trước khi phân rã thành những hình thái ý thức khác nhau, đã trở
thành suối nguồn dồi dào, chất liệu sáng tác của mọi loại hình nghệ thuật không riêng gì
văn học. Nhà nghiên cứu Pierre Brunel quan niệm, văn chương, nghệ thuật (và hiện nay
là điện ảnh) có vai trò như một “phòng lưu trữ huyền thoại”. Huyền thoại được tái sinh,
bao bọc bởi văn chương. Huyền thoại “lấp lánh bí ẩn”, “phát sáng thông điệp”, nó trở
thành cái nôi của văn học, vì ở huyền thoại có những tình huống/hoàn cảnh/câu chuyện
mẫu với khả năng thâm nhập, tái sinh không ngừng trong cấu trúc nghệ thuật. Không chỉ
vậy, chính vì huyền thoại xuất phát từ vô thức tập thể (collective unconscious) của cộng
đồng, nhân loại nên nó như một di chỉ của kí ức, văn hóa ăn sâu vào tiềm thức, chi phối,
kiến tạo nên chất liệu trong quá trình sáng tác của người nghệ sĩ. Hướng tiếp cận huyền
thoại mở ra những khả năng/triển vọng mới trong nghiên cứu văn học nhưng đồng thời
cũng gợi mở những hướng thăm dò mới trong nghiên cứu quá trình tương tác
(interaction), xâm lấn (penetration), ứng xử (behavior) với những chất liệu huyền thoại
(materials of myth) ở từng loại hình nghệ thuật (âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, kịch, điêu
khắc…).

3



Tuy nhiên, trong thực tế nghiên cứu văn học, chúng ta vẫn chưa khu biệt một cách
chính xác giữa “huyền thoại” và “thần thoại”? Liệu đây có phải là hai thuật ngữ có nội
hàm khái niệm tương đồng? Mặt khác, những vấn đề của “huyền thoại” trong sự tương
tác/xâm lấn/“đi vào” văn học; vấn đề phê bình huyền thoại, phê bình cổ mẫu, phương
thức huyền thoại hóa (mystification), giải huyền thoại (demystification) và các khuynh
hướng sáng tác huyền thoại vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Khi “đi vào”
sáng tác văn học, huyền thoại đã tạo nên những biến đổi gì trong cấu trúc thể loại của
truyện ngắn, tiểu thuyết?
Thêm nữa, nhìn từ các phương thức biểu hiện của văn xuôi Việt Nam đương đại,
chúng ta thấy sự nở rộ của các kĩ thuật viết mới mẻ. Có những tác phẩm là sự thống hợp
của nhiều bút pháp sáng tác khác nhau (tả thực mới, phúng dụ, huyền thoại, giễu nhại, bút
pháp tượng trưng, liên văn bản, hậu hiện đại...). Nhìn từ phương diện này, huyền thoại
hóa thực chất là một phương thức, kĩ thuật sáng tác tiêu biểu của văn chương đương đại.
Vậy vấn đề đặt ra, khi sử dụng kĩ thuật này, một cách chủ ý hoặc vô thức nhà văn đã tái
tạo, ứng xử với những chất liệu huyền thoại ra sao, đồng thời có những biến đổi gì về mặt
cấu trúc, tư duy thể loại, hình tượng thẩm mĩ và trần thuật?
Huyền thoại không chỉ đơn giản như một phương thức, kĩ thuật sáng tác, mà hơn
hết, huyền thoại còn được xem như một “tiền văn bản”, một thể loại tồn tại lâu đời nhất,
một hình thức nguyên hợp sơ khai, nơi lưu giữ văn hóa nhân loại. Từ mối quan hệ giữa
huyền thoại và văn học (một trong những mảnh vỡ, hình thái ý thức riêng biệt “thoát
thai” từ huyền thoại), tác phẩm văn học chính là mảnh đất màu mỡ cho sự tham dự,
phóng chiếu (projection) của huyền thoại, tư duy huyền thoại nảy mầm biểu hiện bằng sự
cố kết, gia tăng, lặp đi lặp lại những cổ mẫu, ẩn dụ, biểu tượng, từ đó hình thành nên
những khuynh hướng sáng tác huyền thoại đa dạng.
Từ thực tiễn trong hoạt động sáng tác và nghiên cứu văn học, chúng tôi lựa chọn đề
tài Phương thức huyền thoại hóa trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Qua một số sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh) hướng đến giải quyết
những luận điểm khoa học được đặt ra ở trên.


4


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như đã nhấn mạnh về vai trò của huyền thoại như là “trạng thái đầu tiên” của cái
mà sau này sẽ được gọi là “ý thức xã hội của một cộng đồng dân tộc” hoặc “liên dân tộc”,
do vậy, nghiên cứu về huyền thoại đã có một lịch sử kéo dài. Luận văn tìm hiểu “phương
thức huyền thoại hóa” - một vấn đề của huyền thoại, tức là nghiên cứu quá trình, cơ chế
xâm lấn của huyền thoại, tư duy huyền thoại trong văn học viết, mà phạm vi cụ thể là văn
xuôi Việt Nam đương đại. Do vấn đề nghiên cứu, tuy chỉ chạm đến một khía cạnh nhỏ
của huyền thoại, nhưng lại mở ra “đại lộ thênh thang” về lịch sử nghiên cứu huyền thoại.
Mặt khác, vấn đề này trong những năm gần đây đã nhận được sự quan tâm của các dịch
giả, nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu so sánh với các hướng nghiên cứu đã thực sự tạo
dựng thành một khuynh hướng trong khoa học văn học ở Việt Nam hiện nay như: Tự sự
học (Narratology), Hậu hiện đại (Postmodern), Diễn ngôn (Discourse), Liên văn bản
(Intertextuality), Chuyển thể (Adaptation),… rõ ràng, Phê bình huyền thoại vẫn còn khá
mờ nhạt.
Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh đã trở thành
“mảnh đất” được đào xới, thâm canh nhiều. Có thể nêu tên một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu được xuất bản trong thời gian qua như: Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (Phạm Xuân
Nguyên sưu tầm và biên soạn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001); Giã biệt bóng tối,
tác phẩm & lời bình (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2010); Lịch sử và văn hóa - Cái nhìn
nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh (Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2012)…, đó là còn chưa kể hàng
trăm công trình luận văn, luận án, các bài nghiên cứu… có liên quan mà chúng tôi chưa
thể khảo sát hết được. Tuy vậy, vấn đề huyền thoại hóa trong văn xuôi Việt Nam đương
đại vẫn có những khoảng trống cần được nghiên cứu một cách hệ thống.
Trong phần này, chúng tôi không khảo sát lịch sử nghiên cứu theo hướng tiếp cận
lịch đại, đồng đại mà triển khai theo từng cấp độ và hình thức nghiên cứu cụ thể. Luận
văn tìm hiểu vấn đề huyền thoại hóa trong văn xuôi Việt Nam đương đại qua nghiên cứu
trường hợp (case study) sáng tác của ba tác giả, do vậy lịch sử vấn đề chúng tôi triển khai

theo hai hướng cụ thể, bao quát từ phạm vi rộng đến hẹp: Tiếp nhận và quảng bá lí thuyết
về huyền thoại, cổ mẫu và Về các khuynh hướng nghiên cứu huyền thoại.
5


2.1. Tiếp nhận và quảng bá lí thuyết về huyền thoại, cổ mẫu
Khoảng thời gian một thập niên trở lại đây, những công trình dịch thuật, các tài liệu
nghiên cứu huyền thoại và thi pháp huyền thoại trong sáng tác văn học đã tăng hẳn lên.
Tiếp nhận lí thuyết về huyền thoại trong giới khoa học văn học ở Việt Nam khá muộn
mằn. Theo tìm hiểu của chúng tôi, bài viết “Fzan Kafka - và vấn đề “huyền thoại” trong
văn học” của Hoàng Trinh đăng trên tạp chí Văn học (tháng 5/1970) có vai trò “tiên
phong” trong việc luận bàn về “huyền thoại” trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Theo
tác giả, “không nên nghĩ rằng trong các tiểu thuyết Lâu đài, Vụ án và các truyện ngắn
trong tập Vạn lí trường thành, Biến dạng… Kafka muốn phản ánh hay ghi lại những câu
chuyện có thật nào đó theo quan niệm thông thường của các nhà văn hiện thực”, hơn hết
những tư liệu này chỉ là cái “cớ” để thông qua đó dựng lên “huyền thoại” - “tức là những
hình tượng văn học gián tiếp và có tầm khái quát lớn, mang một ẩn ý sâu, phản ánh
những tư tưởng triết học của tác giả về những vấn đề nào đó đang đặt ra trong cuộc sống”
[76; tr.95]. Những lí giải của Hoàng Trinh chưa thật thuyết phục và rõ ràng. Vì “huyền
thoại” trong hai sáng tác Vụ án, Lâu đài của Kafka chỉ dựa trên những ẩn dụ khá kín đáo
của cấp độ hình ảnh và câu chữ nên một người đọc nếu không nắm rõ những điển tích,
motif trong huyền thoại phương Tây sẽ rất khó để hiểu được. Cũng trong bài viết này,
Hoàng Trinh đã đưa ra những nhận xét xác đáng về khái niệm huyền thoại trong văn học.
Theo ông, huyền thoại không gì khác chính là những “hình ảnh” có nguồn gốc, được “rút
ra” trong hệ thống thần thoại, điển tích hoặc là
những hình ảnh khác thường, “phi lí tính” do nhà văn sáng tạo ra, qua đó nói lên một cách
ẩn ý những sự thật, những nỗi niềm, những ước vọng nào đó của cá nhân mình đồng thời
cũng là thời đại mình. Nó là một tấm voan mờ ảo khoác lên trên những hiện thực sinh
động, mà nhà văn đã chủ động che bớt ánh sáng hoặc phá bỏ kích tấc [76; tr.95].


Rõ ràng, theo quan điểm của Hoàng Trinh, huyền thoại không chỉ trở thành một suối
nguồn chất liệu dồi dào mà còn trở thành phương thức biểu hiện, biện pháp cảm thụ thế
giới, và là “nơi gửi gắm những điều thực tế nhà văn muốn nói”.
Bài viết của Phùng Văn Tửu “Vấn đề huyền thoại trong văn học nghệ thuật” đăng
trên tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số tháng 3/1976 đã soi chiếu huyền thoại như một
6


“phương thức nghệ thuật đang có xu hướng trở thành một trong những kĩ thuật sáng tác
của tiểu thuyết hiện đại” [78; tr.111]. Phùng Văn Tửu luận bàn khái niệm “huyền thoại”,
đồng thời chỉ ra sự quan tâm đến huyền thoại của các nhà nghiên cứu Việt Nam và thế
giới qua việc liệt kê những công trình nghiên cứu, sáng tác tiêu biểu. Không chỉ vậy, nhìn
vào đời sống văn học Việt Nam, tác giả còn lí giải nguyên nhân mà huyền thoại trở thành
vấn đề “xa lạ”, “ít ai quan tâm” bằng những dẫn chứng khá thuyết phục. Đó là do hoàn
cảnh đất nước ta, với hai cuộc chiến tranh liên miên kéo dài, chủ nghĩa anh hùng cách
mạng với những nguyên tắc mĩ học phải được đề cao. Vậy nên ở giai đoạn văn học cách
mạng, sáng tác cũng như lí luận phê bình thế kỉ XX, huyền thoại - với quan niệm, nhận
định liên quan đến sự mơ hồ, kì ảo ít được chú ý. Tuy nhiên, tình hình đã có biến đổi,
khởi sắc. Từ sau năm 1986, “trên văn đàn những tác phẩm với các nhân vật, các sự kiện
siêu nhiên hoặc được xây dựng trên cơ sở của trí tưởng tượng sáng tạo, vượt ra ngoài
khuôn khổ chân thực cụ thể lịch sử” xuất hiện ngày càng nhiều. Bài viết của Phùng Văn
Tửu đưa ra những kiến giải khoa học sắc sảo, gợi mở khả năng mới trong ứng dụng
nghiên cứu huyền thoại, cổ mẫu.
Tác giả Lại Nguyên Ân (“Thần thoại, văn học, văn học huyền thoại” đăng trên tạp
chí Văn học, số tháng 3/1992) bày tỏ những quan ngại về tình trạng nghiên cứu huyền
thoại. Thứ nhất, giới nghiên cứu “chưa chú ý đến mối liên hệ giữa văn học với thần
thoại” (Lại Nguyên Ân đồng nhất giữa hai thuật ngữ “huyền thoại” và “thần thoại” LQH chú thích). Thứ hai, thái độ xem thường, thậm chí là phủ nhận những sáng tác
huyền thoại ở văn học thế kỉ XX. Thứ ba, khẳng định một cách mạnh mẽ “thế giới quan
thần thoại” không hề mất đi cùng với việc “ý thức nguyên hợp đã mất đi khi phân lập
thành các hình thái ý thức riêng biệt”, nên không chú ý đến hiện tượng “ý thức huyền

thoại hóa”. Bài viết chỉ ra sự bùng nổ mạnh mẽ của các kiểu sáng tác huyền thoại trong
văn học thế giới thế kỉ XX. Tác giả khẳng định khả năng/ý thức huyền thoại hóa đang
ngày càng lớn mạnh trong cả đời sống xã hội và văn học, cùng sự cảnh báo những hệ quả
của ý đồ huyền thoại hóa.
Chùm bài “Phương pháp phê bình huyền thoại học” (Đỗ Lai Thúy giới thiệu) đăng
trên tạp chí Văn học nước ngoài, số 2/2001 gồm: “J. Grimm - Huyền thoại Đức”;
7


“Gilbert Durand và phương pháp phê bình huyền thoại học”, Jean-Yves Tadié và “Huyền
thoại trong tiểu thuyết của Emile Zola” của Lê Ngọc Tân tiếp tục đóng góp những diễn
giải về huyền thoại, ứng dụng lí thuyết huyền thoại trong nghiên cứu văn học. Đặc biệt,
trong bài viết “Gilbert Durand và phương pháp phê bình huyền thoại học”, tác giả JeanYves Tadié đã chỉ ra vai trò của phương pháp này là “phân tích văn bản huyền thoại” để
tìm kiếm “chuyện kể nằm bên dưới chuyện kể, gắn liền với ý nghĩa của mọi chuyện kể”
[62; tr.208]. Đồng thời, tác giả còn đưa ra ba giai đoạn của phương pháp phê bình huyền
thoại: một “bản liệt kê những chủ đề huyền thoại”, những tình huống phối hợp các nhân
vật và các trang trí, cuối cùng, sự đối chiếu những bài học của huyền thoại với những
huyền thoại khác thuộc “một thời đại hay một không gian văn hóa khá xác định” [62;
tr.208].
Năm 2004, nhóm dịch giả Song Mộc, Trần Nho Thìn giới thiệu công trình dịch Thi pháp
của huyền thoại (1976) của nhà nghiên cứu văn học dân gian lỗi lạc người Nga E.M.
Meletinsky. Có thể khẳng định, đây là công trình có ý nghĩa khoa học lớn lao trong việc
giới thiệu tư tưởng lí luận về huyền thoại của Meletinsky. Công trình gồm ba phần. Phần
thứ nhất, giới thiệu những lí thuyết mới về huyền thoại và cách tiếp cận văn học từ góc
độ nghi lễ - huyền thoại. Phần thứ hai, trình bày những hình thức cổ điển của huyền thoại
(tư duy huyền thoại, chức năng của huyền thoại, huyền thoại cổ về sự sáng tạo, về lịch
biểu, về chu kì, về người anh hùng…) và sự thể hiện của huyền thoại trong truyện kể dân
gian. Phần thứ ba mang tính chất ứng dụng nhiều hơn. Tác giả đã phân tích sự xuất hiện
của “chủ nghĩa huyền thoại” trong văn học thế kỉ XX, nghiên cứu trường hợp tiểu thuyết
của James


8


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bằng tiếng Việt
1. Thái Thị Hoài An (2013), “Dấn ấn phương thức huyền thoại hóa của Franz Kafka
trong sáng tác của Phạm Thị Hoài”, Khoa học Văn hoá và Du lịch, tập 67 (số 12),
tr. 19-25.
2. Trần Thị An (2000), Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết dân
gian Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.
3. Tạ Duy Anh (2004), Thiên thần sám hối, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
4. Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thị Hoài Thanh (2003), Văn học hậu
hiện đại thế giới, những vấn đề lí thuyết, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
5. Lại Nguyên Ân (1992), “Thần thoại, văn học, văn học huyền thoại”, Văn học, tập
255 (số 3), tr. 59-61.
6. Bakhtin M.M. (1975), “Thời gian và không gian trong tiểu thuyết”, Trần Tân dịch,
Những vấn đề văn học và mĩ học (Moska), Tài liệu lưu hành nội bộ, Phòng Lí luận
văn học, Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
7. Bakhtin M.M. (2007), Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian
Trung cổ và Phục hưng, Từ Thị Loan dịch, Hoàng Ngọc Hiến hiệu đính, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Vũ Bão (1999), “Trương Chi của tôi”, in trong tập truyện ngắn Mây núi Thái hàng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
9. Barker, Chris (2011), Nghiên cứu văn hóa - Lí thuyết và thực hành, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
10. Barthes, Roland (2008), Những huyền thoại, Phùng Văn Tửu dịch, Nxb Tri thức,
Hà Nội.
11. Bellemin-Noël, Jean, Phân tâm học và văn học, Đỗ Lai Thúy và Phan Ngọc Hà
dịch, www.phebinhvanhoc.com.vn, ngày cập nhật 23/04/2015.
12. Lê Nguyên Cẩn (2013), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

9


13. Chevalier J., Gheerbrant A. (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà
Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du, Hồ Chí Minh.
14. Nhật Chiêu (2010), Viết tên trên nước, Nxb Thanh niên, Hồ Chí Minh.
15. Đào Ngọc Chương (2009), Phê bình huyền thoại, Nxb Đại học Quốc gia TP.
HCM, Hồ Chí Minh.
16. Châu Diên (2005), Người sông Mê, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
17. Cao Việt Dũng, “Chúng ta cần huyền thoại”, />ngày cập nhật 15/04/2015.
18. Lê Đạt, Lê Minh Hà (2006), Truyện cổ viết lại, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.
19. Đặng Anh Đào, “Huyền thoại văn chương: Thời điểm phát sáng và biến hóa trong
văn học viết hiện đại”, , ngày cập nhật
11/03/2015.
20. Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên) (2012), Lịch sử và văn hóa - Cái nhìn nghệ thuật
Nguyễn Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
21. Phong Điệp (2008), Kẻ dự phần, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
22. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
23. La Mai Thi Gia, “Ý nghĩa của motif tái sinh trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề
của truyền thuyết và truyện cổ tích”, www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, ngày cập
nhật 19/04/2015.
24. Hoàng Cẩm Giang (2011), “Sự xâm nhập và tái sinh của một số mô thức tự sự dân
gian trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay”, Văn hóa dân gian, tập 133 (số 1),
tr. 43-54.
25. Nguyễn Thị Bích Hà (2012), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
27. Phạm Thị Hoài (1989), Thiên sứ, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.

10


28. Nguyễn Thái Hoàng (2014), “Không gian huyền thoại trong văn xuôi Việt Nam
đương đại”, Nghiên cứu văn học, tập 514 (số 12), tr. 75-83.
29. Nguyễn Quang Huy (2012), “Thử dẫn vào nghiên cứu văn học từ góc nhìn cổ mẫu
(archétype)”, Sông Hương, tập 281 (số 7), tr. 7-12.
30. Ilin I.P., Tzurganova E.A. (Chủ biên) (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các
trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX, Đào Tuấn Ảnh,
Trần Hồng Vân, Lại nguyên Ân dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
31. Jean-Francois, Lyotard (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Nxb Tri thức, Hà Nội.
32. Jung C. G. (2000), “Bí ẩn của những siêu mẫu”, Ngân Xuyên dịch, Phân tâm học và văn
hóa nghệ thuật, nhiều người dịch, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.
33. Jung, Carl Gutav (2008), Thăm dò tiềm thức, Nxb Tri thức, Hà Nội.
34. Kafka, Franz (2014), Hóa thân, Nxb Văn học, Hà Nội.
35. Nguyễn Thụy Khuê, “Nước và mơ”, ngày cập nhật 18/04/2015.
36. Khoa Ngữ văn và Báo chí (2007), Huyền thoại và văn học, Nxb Đại học Quốc gia
TP Hồ Chí Minh.
37. Khoa văn học (2006), Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn học,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
38. Kundera, Milan (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết - Những di chúc bị phản bội
Nguyên Ngọc dịch, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
39. Kundera, Milan (2001), Tiểu luận, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Văn hóa thông tin và
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
40. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
41. Vũ Khắc Khoan, “Trương Chi”,
ngày cập nhật 21/01/2015.

42. Cao Kim Lan (2015), Tác giả hàm ẩn trong tu từ học tiểu thuyết, Nxb Văn học,
Hà Nội.

11


43. Nguyễn Văn Long (đồng chủ biên), Trần Văn Toàn, Đặng Thu Thủy, Nguyễn
Phượng (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng
dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.
44. Lotman Yu. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá
Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
45. Meletinsky E.M. (2004), Thi pháp của huyền thoại, Trần Nho Thìn, Song Mộc
dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
46. Phạm Xuân Nguyên (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
47. Trần Thị Mai Nhân, “Tìm hiểu “phương thức huyền thoại hóa” trong một số tiểu
thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, ngày cập
nhật 15/01/2015.
48. Nhiều tác giả (1989), Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm và dư luận, Nxb Trẻ - Tạp
chí Sông Hương, Hồ Chí Minh.
49. Nhiều tác giả (2009), Nghiên cứu văn học Việt Nam - Những khả năng và thách
thức, Nxb Thế giới, Hà Nội.
50. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội
51. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
52. Nguyễn Bình Phương (2006), Người đi vắng, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.
53. Nguyễn Bình Phương, “Giá như tiểu thuyết có những bước mạo hiểm”,
www.vietnamnet.vn, ngày cập nhật 15/03/2015.
54. Trần Thị Hoài Phương (2009), Biểu tượng như một phương thức phản ánh của
văn xuôi đương đại (qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương,

Hồ Anh Thái), Luận văn Thạc sĩ Văn học, Người hướng dẫn PGS.TS. Đoàn Đức
Phương, ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN.
55. Đỗ Thị Mỹ Phương, “Nhân vật mang màu sắc kỳ ảo trong truyện truyền kỳ Việt
Nam trung đại”, Nghiên cứu văn học, tập 514 (số 1), tr. 82-93.

12


56. Diêu Lan Phương (2010), “Tản mạn về hậu hiện đại và đại tự sự trong văn học
Việt Nam”, Văn nghệ quân đội, tập 708 (số 3), tr. 100-106.
57. Nguyễn Hưng Quốc, “Văn bản và liên văn bản”, www.tienve.org, ngày cập nhật
12/03/2015.
58. Radugin A.A. (2001), Từ điển bách khoa văn hóa học, Vũ Đình Phòng dịch, Viện
nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
59. Radughin A.A. (chủ biên) (2004), Văn hóa học - Những bài giảng, Vũ Đình
Phòng dịch, Viện Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
60. Rjanskaya L.P, “Liên văn bản - sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử và lí thuyết
của vấn đề”, Ngân Xuyên dịch, Nghiên cứu văn học, tập 429 (số 11), tr. 195-212.
61. Stafford - Clark, David (2002), Freud đã thực sự nói gì, Nxb Thế giới, Hà Nội.
62. Tadié, Jean-Yves (2001), “Gilbert Durand và phương pháp phê bình huyền thoại
học”, Văn học nước ngoài, số 2, tr. 204-209.
63. Tamarchenko

N.D.,

“Chronotope”,



Nguyên


dịch,

www.languyensp.wordpress.com, ngày cập nhật 21/02/2015
64. Lê Ngọc Tân (2001), “Huyền thoại trong tiểu thuyết của E. Zola”, Văn học nước
ngoài, số 2, tr. 209-214.
65. Hồ Anh Thái (2004), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
66. Bùi Quang Thắng (chủ biên) (2008), 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
67. Trần Viết Thiện, “Huyền thoại trong truyện ngắn đương đại Việt Nam”,
ngày cập nhật 19/02/2015.
68. Trần Viết Thiện, “Huyền thoại mới - Một hướng tương tác nhiều triển vọng”,
ngày cập nhật 22/03/2015.
69. Trần Nho Thìn (2005), “Cách đọc huyền thoại trong bối cảnh lí thuyết thế kỉ XX”,
Văn hoá Nghệ thuật, số 6, Tr. 106-111.
70. Nguyễn Huy Thiệp (2010), Giăng lưới bắt chim, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
71. Nguyễn Huy Thiệp (1999), Như những ngọn gió, Nxb Văn học, Hà Nội.

13


72. Nguyễn Thị Bích Thu (2005), “Nhận dạng nhân vật trong truyện ngắn 19451975”, Nghiên cứu văn học, tập 411 (số 5), tr. 109-118.
73. Nguyễn Thị Như Trang (2010), “Huyền thoại từ văn học dân gian đến tiểu thuyết
tân huyền thoại thế kỉ XX - Những biến đổi trong cấu trúc tự sự”, Văn hóa dân
gian, tập 126 (số 4), tr. 40-50.
74. Nguyễn Thị Như Trang (2012), Những đặc điểm thi pháp của tiểu thuyết huyền
thoại hiện đại qua Nghệ nhân và Margarita của M. Bulgakov, Luận án Tiến sĩ
Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
75. Nguyễn Thanh Trâm (2012), “Motif hóa thân trong truyện cổ tích người Việt”,
Văn hóa dân gian, tập 139 (số 1), tr. 48-54.

76. Hoàng Trinh (1970), “Fran Kafka - và vấn đề “huyền thoại” trong văn học”, Văn
học, tập 125 (số 5), tr. 90-109.
77. Vũ Anh Tuấn (chủ biên) (2014), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
78. Phùng Văn Tửu (1976), “Vấn đề huyền thoại trong văn học nghệ thuật”, Nghiên
cứu Nghệ thuật, tập 12 (số 3), tr. 111-123.
79. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nxb Tri thức,
Hà Nội.
80. Hòa Vang (2005), Hạt bụi người bay ngược, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
81. Weller, René - Waren, Austin (1995), “Huyền thoại là gì?”, Ngân Xuyên dịch,
Văn học, tập 283 (số 7), tr. 45-46.
Bằng tiếng Anh
82. Chase, Richard (1946), “Notes on the Study of Myth”, in Myth and Literature
Contemporary Theory and Practice, edited by John B. Vickery, University of
Nebraska Press, Lincoln, pp. 67-73.
83. Degenaar, Johan (2007), “Discourses on Myth”, Myth & Symbol, Volume 4, Issue
1, pp. 1-14.
84. Encyclopædia Britannica Ultimate Reference Suite, 2015, DVD.

14



×