Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 151 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH






Phan Thị Phương Thế Ngọc








Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THÀNH THI






Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhân vật là đối tượng trung tâm, là linh hồn của tác phẩm văn học. Qua nhân vật,
nhà văn bày tỏ quan điểm, tư tưởng, nhận thức,… trước cuộc đời và con người; gửi
gắm những tình cảm, suy tư, trải nghiệm của chính lòng mình, đời mình; đồng thời thể
hiện tài năng, cá tính, phong cách của mình.
Nhìn lại chiều dài lịch sử văn học Việt Nam, ta thấy xuất hiện nhiều loại nhâ
n vật:
người phụ nữ, người nông dân, người lính, người anh hùng, người trí thức,… Mỗi loại
nhân vật đều có những đặc điểm riêng về hoàn cảnh, cuộc sống, diện mạo, tâm hồn,
tính cách,… nhưng sâu sắc và phức tạp hơn cả, có lẽ là hình tượng người trí thức.
Trí thức là người có kiến thức từ việc học tập, nghiên cứu, luôn khát khao cống
hiến tài năng cho đời
, và có lối hành xử văn minh, văn hóa. Ở họ, tập trung mọi tinh
hoa của dân tộc và nhân loại. Họ là nhân vật trung tâm, là động lực của xã hội, có sự
đóng góp to lớn và giúp xã hội phát triển vững chắc, ngày càng văn minh, tiến bộ hơn.
Họ mang cái đẹp đến cho đời. Họ khai sáng cho những vùng đất còn tối tăm, hoang dã,
cho những con người còn sống trong nghèo đói, lạc hậu, u mê.
Trí thức, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ, m
ang lí tưởng, hoài bão, ước mơ cao cả, luôn
khát khao sáng tạo, và lúc nào cũng băn khoăn, tìm kiếm cho mình một chỗ đứng, một
lẽ sống trong cuộc đời, một con đường đi riêng cho mình. Họ gánh trên vai thiên chức
khai hóa dân trí và cải cách xã hội. Bên cạnh đó, họ lại là những người giàu mặc cảm
và cô đơn trong những bi kịch cá nhân. Vốn nhạy bén, đa cảm, dễ xúc động, lãng mạn
và mơ mộng trước cái đẹp, họ
mang đầy những trăn trở, day dứt, dằn vặt, đau đớn

trước cái xấu trong cuộc đời và trong chính con người mình. Thế giới tâm hồn của
người trí thức đầy bí ẩn, phức tạp, nhiều cung bậc, sắc thái, thanh âm, luôn khát khao
vươn đến cái đẹp hoàn mỹ, tuyệt đối.
Hiện thực cuộc sống tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội, người trí thức rất
nhạy cảm với thời cuộc và những đổi thay trong cuộc sống. Bên cạnh quan niệm sống,
lí tưởng sống, họ còn phải tự tìm con đường đúng đắn để cống hiến tài năng và sáng
tạo, để hoàn thiện nhâ
n cách, chế ngự tham vọng, tránh rơi vào những sai lầm, đánh
mất đi phẩm cách của mình, gây ra những tác hại cho con người và xã hội. Họ luôn
muốn sống xứng đáng và đẹp đẽ. Vì thế, trong họ luôn có nhu cầu nhận thức và tự
nhận thức; thường xuyên diễn ra những xung đột, những mâu thuẫn, những cuộc đấu
tranh nội tâm gay gắt, mãnh liệt để tự ý thức, tự nhận thức bản ngã đích thực của m
ình,
để từ đó càng hoàn thiện mình hơn.
Nhà văn cũng là trí thức văn nghệ sĩ, nên khi viết về nhân vật trí thức văn nghệ sĩ,
chính là lúc họ đang viết chuyện của đời mình, của lòng mình, của giới mình. Ở đây,
nhà văn và nhân vật đã có mối dây đồng cảm sâu sắc và dường như không có khoảng
cách. Hơn ai hết, nhà văn hiểu r
õ nhân vật, cũng như hiểu rõ những ngõ ngách, những
khía cạnh, những ưu nhược điểm của bản thân mình và đời sống nội tâm phức tạp của
mình. Nhà văn mổ xẻ con người và thế giới tâm hồn của nhân vật, cũng chính là mổ xẻ
con người và thế giới tâm hồn của nhà văn trong những biến động của cuộc đời và bể
dâu của tình người.
Tìm
hiểu về nhân vật trí thức trong văn học, ta tìm đến với diện mạo và tâm hồn
của giới văn nghệ sĩ Việt Nam nói riêng, của trí thức Việt Nam nói chung. Do vậy, tác
giả luận văn muốn khám phá, soi sáng những chiều kích, những ngóc ngách, những
góc cạnh trong con người và tâm hồn của nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi
Việt Nam hiện đại, những vấn đề xoa
y quanh nhân vật, và cả những gì nhà văn gửi

gắm qua nhân vật của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Ở đây, chúng tôi phân loại nhân vật trí thức trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam
hiện đại như sau:
Nhân vật trí thức sáng tạo ra cái đẹp: nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, kiến trúc sư,…
Nhân vật trí thức truyền tải kiến thức, ánh sáng văn hóa: nhà giáo, nhà báo,…
Nhân vật trí thức được đào tạo qua trường lớp, làm những nghề chuyên môn khác
như: luật sư, bác sĩ, kỹ sư,…
Luận văn tập trung tìm
hiểu hai kiểu nhân vật trí thức: người sáng tạo ra cái đẹp và
người truyền tải kiến thức, ánh sáng văn hóa (chủ yếu là nhà văn và nhà giáo) được gọi
chung là nhân vật trí thức - văn nghệ sĩ. Do vậy, luận văn chỉ điểm qua sơ lược những
nhân vật trí thức khác để làm nền tảng cho việc khái quát diện mạo chung của giới trí
thức Việt Nam.
2.2. Phạm vi nghi
ên cứu
Luận văn khảo sát phần văn xuôi Việt Nam hiện đại (từ đầu thế kỉ XX – 2000) chia
làm ba giai đoạn: đầu thế kỉ XX – 1945, 1945 – 1975, sau 1975. Ở mỗi giai đoạn, do
giới hạn của đề tài, luận văn chỉ chọn tìm hiểu một số tác phẩm nổi bật viết về nhân vật
trí thức văn nghệ sĩ.
Danh mục các tác giả, tác phẩm được chọn để khảo sát:
- Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám
năm 1945:
+ Nhất Linh: Hai vẻ đẹp, Làm gì mà băn khoăn thế, Đôi bạn, Đoạn tuyệt, …
+ Khái Hưng: Đẹp, Gánh hàng hoa.
+ Thạch Lam: Đói, Đứa con đầu lòng, Một cơn giận, Sợi tóc, Ngày mới,…
+ Nguyễn Tuân: Vang bóng một thời, Tùy bút I, Tùy bút II, Nguyễn, Thiếu quê
hương.
+ Vũ Trọng Phụng: Số đỏ.

+ Nguyên Hồng: Lớp học lẩn lút, Miếng bánh, Hai dòng sữa, Buổi chiều xám, Giọt
máu,…
+ Nam Cao: Trăng sáng, Đời thừa, Quê
n điều độ, Cái mặt không chơi được, Mua
nhà, Sống mòn,…
- Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975:
+ Nam Cao: Đôi mắt, Đường vô Nam, Nhật kí Ở rừng.
+ Nguyễn Huy Tưởng: Sống mãi với thủ đô.
+ Nguyễn Đình Thi: Vỡ bờ.
+ Nguyên Hồng: Cơn bão đã đến.
+ Nguyễn Minh Châu: Dấu chân người lính.
+ Trần Đình Vân: Sống như anh.
- Giai đoạn từ sau năm
1975 (tính đến năm 2000):
+ Nguyễn Minh Châu: Cỏ lau, Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa,…
+ Ma Văn Kháng: Đám cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn,
Ngược dòng nước lũ.
+ Nguyễn Khải: Gặp gỡ cuối năm, Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi nhân gian bé tí,
Thượng đế thì cười.
+ Nguyễn Huy Thiệp: Huyền thoại phố phường, Chút thoáng Xuân Hương, Mưa
Nhã Nam, Vàng lửa, Phẩm tiết,…
+ Dương Thu Hương: Bên kia bờ ảo vọng, Những thiên đường mù.
+ Phạm T
hị Hoài: Man Nương, Thiên sứ.
+ Tô Hoài: Cát bụi chân ai.
+ Nguyễn Việt Hà: Cơ hội của Chúa.
Trong giai đoạn 1945 – 1975, luận văn sẽ không trực tiếp đề cập đến văn học thành
thị miền Nam, mà khi cần, chỉ liên hệ thêm để so sánh, đối chiếu.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp hệ thống

Luận văn hệ thống hóa các tác phẩm viết về người trí thức trong văn xuôi Việt Nam
hiện đại qua ba giai đoạn để làm rõ sự biến đổi, phát triển của hình tượng nhân vật trí
thức.
3.2. Phương ph
áp phân tích
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích là chủ yếu để khám phá những nét tính
cách đặc trưng cũng như phân tích hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí
thức qua từng chặng đường văn học.
3.3. Phương pháp tổng hợp
Phương pháp tổng hợp giúp luận văn khái quát nên những mẫu người tiêu biểu từ
việc phân tích những biểu hiện tính cách của hình tượng nhân vật, và khái quát nên
những kĩ thuật, hình thức thể hiện phổ biến khi xây dựng nhâ
n vật trí thức.
3.4. Phương pháp so sánh
Khi phân tích và khái quát tính cách nhân vật cũng như kĩ thuật, hình thức thể hiện
nhân vật, luận văn có sử dụng phương pháp so sánh để rút ra những điểm giống và
khác nhau trong hình tượng nhân vật trí thức ở mỗi chặng đường văn học nói chung, ở
mỗi tác giả nói riêng.
3.5. Phương pháp miêu tả lịch sử
Luận văn đặt những tác phẩm v
iết về người trí thức vào từng chặng đường sáng tác
để thấy được sự tác động của hoàn cảnh xã hội và góc nhìn nghệ thuật đối với sự thay
đổi trong hình tượng nhân vật.
Các phương pháp nêu trên sẽ được phối hợp với nhau trong suốt quá trình nghiên
cứu để có thể giải quyết tốt những vấn đề đặt ra.
4. Lịch sử vấn đề
Văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù dùng ngôn từ để khám
phá con người và
suy ngẫm về đời sống. Lịch sử văn học chính là lịch sử tâm hồn nhân loại. Nhiệm vụ
chủ yếu và lâu dài của văn học trong việc phản ánh hiện thực vẫn là miêu tả số phận

con người, khắc họa các tính cách con người. Để thực hiện nhiệm vụ đó, nhà văn, bằng
tài năng và tâm huyết, xây dựng nên những hình tượng nhân vật trong tác phẩm của
mình.
Văn xuôi Việt Nam hiện đại có một khối lượng lớn tác phẩm viết về người trí thức.
Có lẽ, ở loại nhân vật này, nhà văn dễ dàng bà
y tỏ, chia sẻ, phát ngôn những quan niệm,
tư tưởng, tình cảm,… của mình về con người và cuộc sống. Do vậy, có rất nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu của các nhà văn, các nhà lí luận phê bình về những tác
phẩm viết về nhân vật trí thức.
Nguyễn Hoành Khung trong bài viết về Nhất Linh (Từ điển văn học) đã nhận xét
rằng nhân vật thanh niên trí thức của Nhất Linh sống t
rong gia đình giàu sang nhưng
luôn cảm thấy băn khoăn về cuộc sống tối tăm của dân quê nghèo khổ, ngu dốt, muốn
tìm cách cứu vớt họ. Thế nhưng, “những nhân vật trí thức đầy trăn trở này chỉ để lại
trong người đọc một ấn tượng rằng họ không chấp nhận thực tế, họ luôn vật vã, suy tư,
đau khổ, nhưng họ không trở thành chiến sĩ cách mạng” [163, tr.1257]. Ở đây, Nguyễn
Hoà
nh Khung đã soi chiếu nhân vật trí thức ở vai trò xã hội của họ.
Theo Phan Cự Đệ, trong tiểu thuyết Đẹp, “dường như Khái Hưng không lí tưởng
hóa lớp văn nghệ sĩ lãng mạn, mà muốn làm sống lại một lớp văn nghệ sĩ vào những
năm 40, những “nhân vật thật trong xã hội hiện thời” với tất cả những mặt đẹp, mặt
xấu, những nét đáng yêu và đáng ghét của họ, không bì
nh luận, không phê phán. Và cố
gắng dựng nhiều kiểu người với những cá tính, phong cách và lối sống khác nhau” [52,
tr.923]. Nhìn chung, nhân vật trí thức của Nhất Linh, Khái Hưng là những “nhân vật
phi thường” hoặc “nhân vật lãng mạn”: “Họ phần lớn xuất thân từ những gia đình
quan lại hay tư sản giàu sang và có một cuộc sống dư dật. Họ nếu không phải là những
“khách tình si” cả cuộc đời theo đuổi một mối tình lãng mạn, thì cũng l
à những
“khách chinh phu” mải mê với một lí tưởng cách mạng nào đó. Cuộc sống của họ

được các nhà văn thi vị hóa” [Hà Văn Đức; dẫn theo 85, tr.569].
Trong khi đó, khi “tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác”, nhân vật trí thức của Thạch
Lam lại “có nét chân thực và gần với cuộc sống đời thường,… thường được đặt trong
những hoàn cảnh khó khăn, trở ngại. Cái đói, cái nghèo dường như lúc nào cũng đeo
đẳng với số phận của nhân vật, xô đẩy họ vào những tình huống đầy tuyệt vọng” [Hà
Văn Đức; dẫn theo 85, tr.580]. Nguyễn Thành Thi (Phong cách văn xu
ôi nghệ thuật
Thạch Lam) cũng cho rằng khi tìm kiếm hình ảnh con người trong cõi thầm kín - thế
giới nội tâm, thế giới cảm giác phiền phức mà người trí thức nào cũng có, “… Thạch
Lam chỉ kể nhiều về những trạng thái bất thường hoặc những cảm tưởng, cảm giác

mới mẻ dấy lên trong tâm hồn của họ. Những trí thức bình dân này có thể thành đạt
hay thất bại trên đường đời, đáng trọng hay đáng thương trong nhân cách số phận…
song tất cả họ giống nhau ở chỗ đều có những trạng thái nội tâm “phiền phức”, những
khoảnh khắc bí ẩn, bất thường” [131, tr.64]. Hai ý kiến trên cho thấy nhân vật trí thức
có một thế giới tâm hồn phong phú, một nội tâm phức tạp. Đó là địa hạt hấp dẫn sự
khám
phá của người cầm bút.
Khi viết “Lời giới thiệu Nguyễn Tuân và thể tùy bút”, Vương Trí Nhàn cho rằng:
“Giả sử như giờ đây, có một ai đó muốn tìm hiểu cuộc sống của lớp trí thức thành thị,
nhất là cánh ký giả viết văn, viết báo đương thời xem họ ăn gì, chơi gì, đọc sách ra sao,
hưởng t
hụ ra sao…, tôi nghĩ nhất thiết người ấy phải đọc lại một số trang viết của ông
Nguyễn” [145, tr.19]. Theo nhà nghiên cứu này, nhân vật trí thức trong tác phẩm phản
ánh khá chân thực hình ảnh người trí thức ngoài cuộc đời. Mặt khác, nó phản ánh hình
ảnh của chính Nguyễn Tuân: “Nhân vật của ông nhìn kỹ đều là những con người lửng
lơ vượt thoát ra ngoài mối quan hệ bình thường với xã hội. Họ như không đi mà chỉ
b
ay là là trên mặt đất, không đậu hẳn vào đâu, gì cũng biết, mà hóa ra không ràng
buộc với cái gì cả. Nghề nghiệp, không xác định. Nhà cửa, không thiết tha. Cho đến cả

tiền tài, sự nghiệp cũng không phải là điều họ quan tâm theo đuổi... Niềm say mê mà
nhân vật của Nguyễn Tuân và chính ông để cả đời theo đuổi là say mê tìm hiểu chính
mình và và khắc họa bức chân dung tinh thần khác người của mình trước đồng loại”
[Vương Trí Nhàn, Lời giới thiệu Thiếu quê hương; 146, tr.330].
Nhà văn Nam Cao có một mảng tác phẩm về đề tài người trí thức. Xoay quanh việc tìm
hiểu những tác phẩm này có nhiều ý kiến sâu sắc, thỏa đáng. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức
đặc biệt chú ý đến những biến động trong đời sống tinh thần của nhân vật trí thức của Nam
Cao trong mối quan hệ với hoàn cảnh: “Tiếp xúc với những thực tế khắc nghiệt, trải qua
những cuộc vật lộn kiếm sống, con người trí thức tiểu tư sản bị quăng quật nhừ tử cả thể xác
lẫn tâm hồn” [166, tr.483]. Bích Thu nhận ra: “Với các nhân vật nhà văn, nhà giáo nghèo, cái
nhục vì miếng ăn được Nam Cao đẩy lên đỉnh điểm. Đó là sự giằng xé nội tâm giữa “vị nhân
sinh” và “vị nghệ thuật”, giữa những lo lắng đời thường, thế sự với khát vọng sáng tác nghệ
thuật của họ” [Sức sống của một sự nghiệp văn chương; 134, tr.33]. Nguyễn Hoành Khung
(trong Nam Cao, về tác gia và tác phẩm) cho rằng: “Trong khi dựng lại tình cảnh nhếch nhác
của người trí thức nghèo, ngòi bút Nam Cao đã tập trung xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần
của họ, qua đó đặt ra một loạt vấn đề có ý nghĩa khái quát xã hội và triết học sâu sắc. (…).
Đó là tất cả tấn bi kịch đang diễn ra ngấm ngầm trong đời sống tinh thần thế hệ 1930 khi đó”
[134, tr.409-413]. Nhà văn đã phát hiện ra mặc cảm cô đơn, vỡ mộng trong tấn bi kịch tinh
thần của người trí thức, và, qua những câu chuyện về người trí thức: “Câu chuyện đời thường
xoàng xĩnh thế thôi, nhưng bao vấn đề hệ trọng trong tinh thần thời đại đã được đặt ra một
cách ám ảnh: cá nhân và xã hội, lí tưởng và hiện thực, nghệ thuật và tìn
h thương, nhân cách
và hoàn cảnh” [134, tr.475]. Một số bài viết khác về tác phẩm viết về người trí thức của Nam
Cao: Nam Cao và sự lựa chọn một chủ nghĩa hiện thực mới (Phạm Xuân Nguyên), Nam
Cao và nghệ thuật sáng tạo tâm lí (Hà Minh Đức) [134], Nam Cao – nhà văn hiện thực
xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn (Trần Đăng Xuyền, Tạp chí Văn học, số 6, 1998)
[153],... đều xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần của nhân vật trí thức. Đặc biệt, Đinh Trí Dũng
(Bi kịch tự ý thức – Nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của Nam Cao) còn phát hiện ra:
“Trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 không phải chỉ có các nhân vật của Nam Cao
mới có vấn đề tự ý thức. Các nhân vật tiểu tư sản trong truyện ngắn của Thạch Lam, Nguyên

Hồng, Bùi Hiển,… cũng có nhiều phút suy tư dằn vặt đầy cảm động, nhưng chưa ai đưa được
vấn đề tự ý thức của nhân vật lên đến mức sâu sắc, thường trực, nhất quán như ở ngòi bút
Nam Cao” [134, tr.213].

Trong công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ
khám phá nhiều tác phẩm viết về người trí thức trong giai đoạn văn học 1945 – 1975.
Theo ông, tuỳ bút Nhận đường (Nguyễn Đình Thi) đã “ghi lại lộn xộn những thắc
mắc nhiều khi đau xót của một cuộc lột vỏ... Cuộc lột vỏ nhiều khi rất đau đớn” [20,
tr.130] của người trí thức. C
òn Đôi mắt (Nam Cao) là “một tuyên ngôn của những nhà
văn lớp trước kiên quyết đoạn tuyệt với con người cũ và cố gắng vươn tới để hoà nhập
quần chúng cách mạng” [20, tr.131]. “Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Sóng gầm (Nguyên
Hồng) miêu tả chuyện thất nghiệp, đói cơm, rách áo, những đau đớn quằn quại trong
tâm hồn lớp tiểu tư sản trí thức nghèo ở thành thị; những con đường đến với cách
mạng khác nhau của họ, những nỗi băn khoăn, lo lắng của họ trước vận mệnh của đất
nước, của dân tộc” [
20, tr.230]. Đặc biệt, khi xây dựng nhân vật điển hình Tư (Vỡ bờ),
“Nguyễn Đình Thi tập trung miêu tả niềm say mê sáng tạo của một nghệ sĩ có tài,
trong sạch” [20, tr.357] và “Nhà văn muốn đặt ra vấn đề có
tầm khái quát cao: số
phận của những nghệ sĩ muốn sáng tạo ra một nền nghệ thuật chân chính trong xã hội
Tư bản chủ nghĩa, một xã hội mà mọi thứ thiêng liêng nhất của con người đều biến
thành hàng hóa” [20, tr.369]. Những tác phẩm viết về người trí thức trong giai đoạn
này đều khẳng định vai trò nghệ sĩ - chiến sĩ của nhân vật trí thức.
Hà Minh Đức (Khảo l
uận văn chương) nhận thấy trong Nhật kí Ở rừng “ít nhiều
bóng dáng của con người trí thức tiểu tư sản thời kì trước Cách mạng của Nam Cao
đang tự vượt lên ở trình độ cao hơn. Vẫn những tâm trạng dày vò trong cuộc đấu tranh
giữa hai con người tích cực và tiêu cực được bộc lộ ra một cách chân tình nhưng khác
đi là không xót xa, bế tắc. Con người cũ hiện ra thấp thoáng trong mạch

cảm nghĩ như
một liên hệ, một trăn trở để càng nổi lên những suy nghĩ khỏe khoắn, tốt đẹp của con
người mới” [24, tr.328]. Cũng theo nhà nghiên cứu này, qua nhân vật trí thức của mình,
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã “khai thác sâu vào thế giới tiểu tư sản với những màu
sắc đa dạng và phức tạp của nó… Trong cuộc kháng chiến của Thủ đô, những người
trí thức tiểu tư sản, đặc biệt là bộ phận tiểu tư sản nghè
o, đã biểu thị sâu sắc lòng
quyết tâm đánh giặc giữ nước” [24, tr.678].
Những tác phẩm viết sau năm 1975 với cái nhìn tiểu thuyết đã làm thay đổi cách
nhìn về nhân vật trí thức. “Khi tiếng nói thế sự vang lên trong văn học, muôn vàn
những sinh hoạt đời thường bày ra trước mắt, văn học đề cập đến cái sai, cái xấu, và
cả cái ác trong nội bộ con người, giữa con người với con người” [L
a Khắc Hoà, Nhìn
lại những bước đi, lắng nghe những tiếng nói; 89, tr.62]. Cho nên, “Không phải ngẫu
nhiên mà giai đoạn này, trong văn xuôi lại nổi lên nhân vật người trí thức. Trong rất
nhiều lý do, chúng tôi nghĩ có một lý do rất quan trọng này: Trí thức thường nhạy cảm,
dễ thức tỉnh, khả năng tự ý thức cao, hành trình tinh thần của loại nhân vật này thường
phong phú,
phức tạp” (Nguyễn Thị Bình; 6, tr.311). Do đó, nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu tập trung đi vào khai thác những biểu hiện của nhân vật trí thức trong thời
hiện đại.
Lê Thành Nghị quả quyết, từ nhân vật trí thức trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu, người đọc có thể nhận ra “bài học về nhân thế, sự thực nghiệt ngã trong các mối
quan hệ con người, nỗi buồn về những khuất tất ở đời...” [Nguyễn Mi
nh Châu -
Người mải miết với cái đẹp; 100, tr.188].
Trong Đám cưới không có giấy giá thú, “Ma Văn Kháng viết về cái “bi kịch vỡ
mộng” của “một bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn sách hay để
lầm chỗ” rất tâm huyết, suy nghĩ và trăn trở, khát vọng và nỗi đau trước thời cuộc,
trước tình trạng xuống cấp về trình độ tư duy và phẩm chất đạo đức ngay trong một số

người tự cho mình là cán bộ lãnh đạo, là trí thức hoặc là kỹ sư của tâm hồn” [Phan Cự
Đệ; 20, tr.271]. Lê Thành Nghị (Người trí thức trong Đám cưới không có giấy giá
thú) phân tích rõ nét hơn nữa: “Đám cưới không có giấy giá thú làm nổi rõ trước mắt
bạn đọc một sự tha hóa, pha trộn của đội ngũ trí thức trong trường học, sự tha hóa của
nhân cách, sự pha trộn hổ lốn dẫn đến xung đột gay gắt giữa những người đồng
nghiệp, sự đảo lộn kỷ cương trong một không gi
an vốn được xem là nền nếp, sự phạm
quy nghiêm trọng ở chốn học đường, những thô phàm trong hành vi và lời ăn tiếng nói
của những thầy giáo - lớp người vốn là kỹ sư của tâm hồn, luôn tôn trọng cái đẹp, cái
chuẩn xác, cái “mực ngay thước thẳng” ở đời” [100, tr.134]. Từ nỗi đau, bi kịch của
một người trí thức, nhà văn Ma Văn Kháng đã khái quát bi kịch c
hung của người trí
thức trong một xã hội, một môi trường, một nền kinh tế cơ chế thị trường, đồng thời đề
cập đến thực trạng tha hóa, xuống cấp về đạo đức trong một bộ phận trí thức.
Đi sâu vào thực trạng này, nhân vật trí thức càng nhem nhuốc, xúi xó hẳn đi, và phá
hủy kiểu nhân vật trí thức truyền thống. Nguyễn Thị Thu Nguyên (Nghệ thuật xây
dựng
nhân vật trong tiểu thuyết Thiên sứ) đã có những nhận định khái quát: “Trong
truyền thống văn học trước 1945, trí thức như một biểu tượng của dân trí, là tinh hoa
của một cộng đồng, người đại diện cho cái mới, cái tiến bộ… Trong văn học hiện thực
xã hội chủ nghĩa, do hoàn cảnh lịch sử, nhân vật công – nông – binh lên ngôi, nhân vật
trí thức luôn đứng ở vị trí chông chênh và đầy mặc cảm
trên hành trình hòa nhập vào
dòng thác cách mạng… Trong văn học đổi mới, sự trở lại của nhân vật trí thức đánh
dấu một thay đổi quan trọng trong sự bừng tỉnh của ý thức cá nhân, đồng thời cũng là
sự thay đổi quan niệm về bản chất văn chương” [89, tr.252]. Ma Văn Kháng đổ lỗi cho
hoàn cảnh đã tạo nên bi kịch của n
gười trí thức. Dựa vào mối quan hệ giữa thời thế và
con người, Nguyễn Khải đưa ra một loạt trí thức “lạc thời”,... Thế nhưng, nhân vật trí
thức của Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu tuy có ít nhiều nét nhem

nhuốc, xúi xó, vẫn được các nhà văn xem họ là “chuẩn” của cách sống đẹp. Còn trong
Thiên sứ, Phạm Thị Hoài đã phá hủy hình tượng nhân vật trí thức truyền thống, nhà
văn “tập trung vào một đối tượng mà chị cho là ưu tú (élite), tầng lớp trí thức. Bằng
một hệ thống chữ nghĩa sắc như dao và một thái độ không chút khoan nhượng, thậm
chí đôi lúc đến mức đanh đá, chị xoáy sâu vào những ung nhọt vẫn bị che giấu của cái
tầng lớp thường đầy ảo tưởng về chính mình đó, mổ xẻ không thương tiếc cái tầng lớp
là đại diện ấy của xã hội, tự đặt nó đối diện với thực chất chẳng hay ho gì của c
hính nó,
thẳng tay lột tung chiếc mặt nạ lâu nay nó tự đeo cho mình” [Nguyên Ngọc, Văn xuôi
Việt Nam hiện nay – Lôgic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và
triển vọng; 89, tr.175]. Chưa khi nào, nhân vật trí thức bị phanh phui đến tận cùng
những mặt trái, góc khuất như trong những t
ác phẩm viết về họ sau năm 1975.
Mang tinh thần phê phán, nhà văn có ý thức mổ xẻ cái xấu xa, cái thấp hèn của con
người. Cho nên, hình tượng nhân vật trí thức không còn đẹp đẽ như trong nhận thức
truyền thống của cộng đồng nữa. Nguyễn Huy Thiệp viết khá nhiều truyện ngắn về
người trí thức. “Nhà văn đề cập đến những “trí thức giả cầy”
và “sự ngu dốt của bọn
có học”. Đối với Nguyễn Huy Thiệp, nghệ sĩ chẳng phải loại người nào đặc biệt. Văn
chương cũng như mọi nghề khác vậy thôi. Thậm chí một số ông nhà văn còn nhếch
nhác, bệ rạc quá quắt nữa là đằng khác” [Nguyễn Đăng Mạnh; 97, tr.254]. Sử dụng
những nhân vật đã ổn định về gi
á trị trong quá khứ để chuyển tải các vấn đề hiện tại,
Nguyễn Huy Thiệp đã tạo nên một cuộc tranh cãi thú vị trong giới nghiên cứu, phê
bình: Một trường hợp đang bàn cãi (Đặng Anh Đào; Văn nghệ, ngày 3-9-1988), Khởi
sắc hay là sự chuyển mình của văn học (Nguyễn Oanh, Văn nghệ, 3-12-1988), Về
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn Văn Lưu, Bá
o Hà Nội mới, 28-8-
1988),... Trong Nhà văn hiện đại - Những giới hạn và sứ mệnh, Trần Văn Toàn có
cái nhìn thấu đáo hơn: “Các nhà văn trong những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là

những người có thể tạng mẫn cảm. Họ hiểu và cảm nhận một cách tinh tế sức o ép của
cuộc đời lên tồn tại của một cá thể. Có khi họ c
òn được miêu tả như một nhà tiên tri
thấu thị. Rất tinh tế nhưng bất lực. Tất cả họ đều bị lún sâu trong đám bùng nhùng của
hiện thực đời sống, hoàn toàn không có khả năng tác động đến hiện thực” [89,
tr.133]…
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ trình bày một số ý kiến, bài viết có liên
quan tới đề tài. Nhìn chung, có nhiều ý kiến, bài viết về nhân vật trí thức trong văn học,
nhưng đó mới chỉ là những bài viết rải rác, chưa có một công trình dày dặn nào khảo
sát loại hình nhân vật
này qua ba giai đoạn phát triển của văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam hiện đại. Do vậy, chúng tôi, bằng khả năng còn hạn hẹp của mình, mong muốn
đóng góp một vài ý kiến trong việc nghiên cứu hình tượng người trí thức trong văn
xuôi Việt Nam hiện đại.
5. Đóng góp của luận văn
5.1. Trên cơ sở nhìn nhận vai trò của người trí thức văn nghệ sĩ trong đời sống xã

hội hiện đại qua từng giai đoạn phát triển, luận văn xác định vị trí của hình tượng nhân
vật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
5.2. Với cái nhìn hệ thống, luận văn khảo sát, mô tả hình tượng nhân vật trí thức -
văn nghệ sĩ theo sự phân chia giai đoạn và theo cái nhìn nghệ thuật của nhà văn (tư duy
sử thi hay tư duy tiểu t
huyết); từ đó, rút ra những đặc điểm chính của loại nhân vật này
trong quá trình hình thành và phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
5.3. Luận văn tìm hiểu và khái quát những hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng
nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại để làm nổi rõ hơn vị trí,
đặc điểm của hình tượng nhân vật trong văn học, đồng thời thấy đư
ợc phần nào đặc
điểm sáng tạo nghệ thuật của nhà văn - những trí thức ngoài cuộc đời.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn triển khai thành
ba chương:
Chương 1: Người trí thức hiện đại Việt Nam - từ cuộc đời đến những trang văn
Chương 2: Hình tượng nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại - những
mẫu người đa tính cách
Chương 3: Hình tượng giàu ý nghĩa nhận thức và đậm chất tự truyện, bi kịch












Chương 1:
NGƯỜI TRÍ THỨC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
TỪ CUỘC ĐỜI ĐẾN NHỮNG TRANG VĂN
Trí thức là người có kiến thức, tài năng, nhân cách và cá tính sáng tạo. Ở bất kỳ
thời đại nào, họ đều có vai trò to lớn và đặc biệt quan trọng đối với sự tồn vong, phát
triển và tiến bộ của xã hội. Họ thực hiện sứ mệnh của lịch sử, thiên chức của người
“làm đổi thay thế giới”, khai hóa đất nước, đưa đất nước, dân tộc đến với chân trời tri
thức, với ánh sá
ng văn minh và giá trị nhân văn cao cả. Bàn tay và khối óc của họ làm
ra của cải vật chất cho xã hội, phát minh ra những thành tựu khoa học vĩ đại, kiến thiết
nên những công trình kiến trúc đồ sộ, vẽ nên những bức danh họa muôn đời, sáng tạo
những áng văn c

hương bất hủ,…
Người trí thức in đậm dấu ấn cá nhân của mình ở những biến chuyển lớn lao của
đời sống xã hội, của quốc gia dân tộc. Văn học là nơi ghi lại những dấu ấn sâu đậm đó
của người trí thức, đặc biệt của giới văn nghệ sĩ. Văn học và đời sống có mối quan hệ
mật thiết với nha
u. Văn học phản ánh mọi khía cạnh của đời sống. Đời sống xã hội với
những biến cố quan trọng, những sự thay đổi lớn lao ảnh hưởng đến cuộc sống con
người, tác động sâu sắc đến tinh thần, tình cảm, suy nghĩ, hành động của họ. Có thể nói,
mọi sự thay đổi của đời sống xã hội đều tác động đến người trí thức, và cũng chính
người trí thức, với nhu cầu nội tại của m
ình, góp phần làm thay đổi đời sống xã hội.
Văn học là nơi thể hiện sâu sắc, chân thực, toàn diện hình ảnh và vai trò của họ ở mỗi
giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển của đất nước. Ở chương 1, tác giả luận văn đi vào tìm
hiểu vai trò của người trí thức trong đời sống xã hội hiện đại và vị trí của hình tượng
người trí thức trong văn xuôi Việt N
am hiện đại qua ba giai đoạn phát triển: Đầu thế kỉ
XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, từ năm 1945 đến năm 1975, và từ sau năm
1975 (tính đến năm 2000).
1.1. Vai trò của tầng lớp trí thức trong đời sống xã hội hiện đại
1.1.1. Người khai sáng văn hóa và tiên
phong trong cải cách xã hội (Giai đoạn
từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945).
Sau khi xâm lược nước ta, Pháp tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất
từ năm 1897 đến năm 1914, lần thứ hai từ năm 1919 đến năm 1929) khiến cho nước ta
suy sụp, kiệt quệ về kinh tế, đời sống nhân dân đói khổ, lầm than, biến nước ta thành
nơi tiêu thụ hàng hóa, và thành nơi cung cấp sức người sức của cho gót già
y xâm lược
của bọn lính viễn chinh. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa, cơ cấu xã hội Việt Nam có
những biến đổi sâu sắc. Một số thành phố công nghiệp ra đời, nhiều đô thị, thị trấn xuất
hiện, cuộc sống thay đổi từ thành thị đến nông thôn. Những giai cấp, tầng lớp xã hội: tư

sản, tiểu tư sản (trí thức, viên chức, học sinh, sinh viên,…), công nhâ
n, dân nghèo
thành thị,… xuất hiện ngày càng đông đảo.
Trước thực trạng đó, tầng lớp trí thức phải trăn trở, hành động để tìm một lối thoát
cho đất nước. Ngay từ đầu thế kỉ, các nhà nho yêu nước mang tư tưởng tiến bộ đã thức
thời, và, chịu tác động của việc truyền bá tân thư, đã tập hợp lại đi tìm một đường lối
cứu nước mới : cải cách và duy tân. Họ thấy được tầm
quan trọng của văn hóa và trình
độ dân trí của một quốc gia nên đã mở trường Đông Kinh nghĩa thục để truyền bá tư
tưởng yêu nước và duy tân. Phong trào lan rộng từ Bắc chí Nam, có sức ảnh hưởng
mạnh mẽ đối với những nhà nho và trí thức tân học buổi đầu. Tuy về sau phong trào
duy tân thất bại, nhưng nó đã để lại những â
m vang cuộn trào trong lòng những người
yêu nước, và ghi lại những dấu ấn khó phai về vai trò, tấm lòng và bản lĩnh của trí thức
Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa phong kiến Trung Quốc,
bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Lớp thanh
niên Việt Nam tiếp xúc với văn minh phương Tây, văn hóa Pháp, trở thành tầng lớp trí
thức Tây học. Bên cạnh đó, ngoài chính sách bình định quân sự và khai thác kinh tế,
thực dân Pháp còn thi hành chính sách văn hóa nô dịch, biến một số trí thức trở thành
những kẻ lai căng, nô lệ, thực thi những chính sách cai trị của chúng, thành những “ông
Tây A
n Nam” lạc lõng trên đất nước mình. Còn phần lớn trí thức Tây học đều có tinh
thần dân tộc sâu sắc và có ý thức tự học, tự lập rất cao, mong muốn cống hiến tài năng,
tâm huyết cho đất nước. Họ ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình, mang khát vọng
thay đổi hoàn cảnh tối tăm hiện tại. Để nâng cao dân trí, họ khuyến khíc
h học chữ quốc
ngữ. Họ đề xướng nhiều phong trào cải cách xã hội, chống lại lễ giáo phong kiến lỗi
thời, lạc hậu, tôn trọng tự do cá nhân,… Có thể kể qua một số tên tuổi như Vũ Ngọc
Phan, Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn, Đông Hồ, Thiếu Sơn, Hoài

Thanh, Hải Triều, Nam Xương, Nguyễn Huy Tưởng,… Những trí thức này, ngoài vai
trò khai hoá ánh sáng và cải cách xã hội, họ còn đảm nhận những vai trò kép: nhà
chính trị - khách văn c
hương.
Trong giai đoạn này, hoạt động kinh doanh văn hóa ra đời và phát triển sôi động.
Do sự phát triển của đô thị, một lớp công chúng mới xuất hiện, có đời sống tinh thần và
thị hiếu mới. Họ tìm đến văn học như một phương tiện giải trí, một công cụ nhận thức
về thực tại cuộc sống đang thay đổi xung quanh, và những bí ẩn trong đời sống nội tâm,
trong thế giới tinh thần của con người hơn là những bài học thuyết giảng về đạo đức
của văn học trung đại. Họ đòi hỏi tác phẩm văn học phải phù hợp và phản á
nh được
nếp tâm lí, cách cảm nghĩ, những nhu cầu mới,… Mặt khác, chữ quốc ngữ được phổ
biến rộng rãi đã tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tiếp xúc với sách báo, với văn
chương. Những trí thức dâ
n tộc nhân đó mà thực hiện sứ mệnh khai thông dân trí, mở
mang dân khí. Họ dùng văn chương như một phương tiện chuyển tải ánh sáng văn hóa
và phát huy hồn dân tộc. Qua văn chương, họ gửi vào đấy lòng yêu tiếng Việt. Văn
chương có thể làm cho xã hội tiến bộ hơn, văn minh hơn, và người trí thức phải là
những người tiên phong, nòng cốt trong việc khai thông dân trí, tác động mạnh mẽ đến
đời sống xã hội. Những điều này khiến cho đời sống xã hội đầu thế kỉ XX đến Cách
mạng tháng Tám năm 1945 trở nên sôi động, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đổi
mới theo hướng hiện đại hóa, m
au chóng hòa nhập vào thế giới.
Hơn nữa, dưới chính sách chèn ép, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp, đời sống của
nhân dân ta nói chung, đời sống của tầng lớp trí thức nói riêng lâm vào tình trạng ngột
ngạt, khó khăn, bế tắc. Thực thi những thủ đoạn cai trị hà khắc, bạc đãi các tầng lớp
tiểu tư sản, các trí thức người Việt, thực dân P
háp cố tình đẩy họ vào tình trạng thất
nghiệp, bần cùng hóa, nhằm triệt tiêu khả năng phản kháng của họ. Trong khi đó, trên
vũ đài chính trị xuất hiện những lực lượng xã hội mới. Đảng Cộng Sản Đông Dương ra

đời 2/1930, phong trào cách mạng do giai cấp vô sản và Đảng lãnh đạo phát triển với
các cao trào mới. Giai cấp tiểu tư sản Việt Nam bất m
ãn sâu sắc với thực dân Pháp, lại
vốn có lòng yêu nước, nên không ít trí thức trong số họ, cùng với các giai cấp khác
như nông dân, công nhân,… đã đến với cách mạng, tham gia phong trào giải phóng
dân tộc, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh giành độc lập, tự do, thể hiện rõ ý thức
trách nhiệm của người công dân trong một đất nước đang bị nô dịch.
1.1.2. Những c
hiến sĩ trên mặt trận văn hóa, người thư kí trung thành của thời
đại (Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975)
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đem lại những đổi thay lớn lao, kỳ
diệu cho dân tộc và cho cả những cuộc “đời thừa” của người trí thức. Từ thân phận nô
lệ, con người ngỡ ngàng, sung sướng đón nhận sự tự do của một nước Việt Nam độc
lập. Đời sống cá nhâ
n được đặt vào cộng đồng, sống với đời sống chung của dân tộc và
đất nước trong những năm tháng cam go, quyết liệt, trong dòng chảy của lịch sử, lay
chuyển và thức tỉnh ở mỗi cá nhân ý thức công dân, tinh thần dân tộc tiềm tàng bấy lâu.
Người trí thức, với sự nhạy cảm vốn có, đã cảm nhận được một cách sâu sắc những
biến đổi lớn lao ấy.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng, bước
vào thời kì khôi phục đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Lúc này, xã hội Việt
Nam lại đứng trước những thử thách mới: Một mặt là những nhu cầu thiết yếu của con
người trong cuộc sống thời bình sau bao nhiêu năm chiến tranh khốc liệt; Một mặt lại
tiếp tục đấu tranh c
hống một thế lực thù địch mới - đế quốc Mỹ - để thực hiện những
mục tiêu cách mạng: thống nhất đất nước và xây dựng Chủ nghĩa x
ã hội. Những thử
thách này buộc con người Việt Nam phải phát triển theo những điều kiện lịch sử mới,
những yêu cầu mới của cách mạng trong sự thống nhất hài hòa giữa cái riêng và cái
chung.

Sau hiệp định Genève, đất nước chia hai, miền Nam buộc phải sống dưới ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Mỹ và chính quyền Sài Gòn ra sức
thực hiện những thủ đoạn tàn ác đàn áp nhân dân, chống phá cách mạng, muốn làm

tiêu tan khát vọng độc lập, thống nhất, dân chủ, và thủ tiêu ý chí chiến đấu của nhân
dân ta. Chúng muốn “Chinh phục trái tim và khối óc”, “Hủy diệt màu xanh trong tâm
hồn Việt Nam”. Chúng đàn áp dã man giới trí thức tiến bộ ở các thành thị miền Nam.
Bất chấp sự đàn áp dã man đó, trí thức Nam Bộ vẫn tiếp tục đấu tranh sôi nổi ở các đô
thị miền N
am, trong đó, văn hóa văn nghệ là một trận tuyến. Văn học yêu nước ở các
đô thị miền Nam hình thành và phát triển trong một hoàn cảnh phức tạp với sự phân
chia giới tuyến giữa những văn nghệ sĩ phản động làm tay sai cho Pháp và những văn
nghệ sĩ chân chính một lòng vì đất nước.
Trải qua bao nhiêu đau thương mất mát, trả giá bằng máu và nước mắt, cuộc kháng

chiến chống đế quốc Mỹ là một thử thách vô cùng khốc liệt, nhưng cũng là một chiến
công vĩ đại, oanh liệt, hào hùng. Cuộc chiến đấu ấy đã làm sục sôi tình yêu nước, khơi
dậy mọi sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, tập hợp mọi công dân Việt Nam trong một ý
chí chung, một vận mệnh chung, một nhiệm vụ chung. Hoàn cảnh đất nước đòi hỏi con
người phải có sự biến chuyển, sự thay đổi cho phù hợp với thời đại. Nếu trước đây,
người trí thức “bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước”, thì bây giờ, đã thực sự có
bước chuyển tiến bộ tr
ong nhận thức, tư tưởng, hành động. Từ địa vị nô lệ đến địa vị
người làm chủ đất nước, người trí thức hiểu một cách sâu sắc vai trò của họ đối với sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. “Hơn ai hết, họ cảm nhận được sự
thay đổi của vận mệnh dân tộc, vận mệnh công dân và giác ngộ sâu sắc về vai trò mới
của mình. Sau một thoáng ngơ ngác, choáng ngợp của buổi “ban đầu dân quốc”
, các
nhà văn, nhà thơ đã mau chóng hòa nhập, mau chóng tìm được nguồn cảm hứng mới
mẻ, không kém phần sôi nổi và bồng bột từ thực tế lịch sử mới để sáng tác. Từ thế giới

cái Tôi tuyệt đối, cái Tôi nhiều giọng điệu, nhiều cung bậc từng thống lĩnh văn chương
trước năm 1945, các nhà văn, nhà thơ đã bắt đầu làm quen với thế giới của cái Ta hòa
đồng, cái Ta không ranh giới giữa nghệ sĩ v
à công dân, giữa nghệ sĩ và Tổ quốc” [164,
tr.568]. Người trí thức thực hiện vai trò kép: nghệ sĩ - chiến sĩ, sống, lao động, chiến
đấu cho Tổ quốc vinh quang. Họ dùng tài năng, trí tuệ và ngòi bút
của mình phục vụ
cho kháng chiến, xây dựng một nền văn nghệ cách mạng, có sức động viên, cổ vũ lớn
lao tinh thần của quần chúng tham gia kháng chiến. Trong Đề cương văn hóa Việt Nam
năm 1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì
văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng… Anh chị
em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó” [Hồ Chí Mi
nh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.646]. Trước sự đổi đời và đổi thời, giới văn nghệ sĩ Việt
Nam đã kịp thời thức tỉnh và thức thời, đã có nhiều sự đóng góp tích cực cho cách
mạng. Chúng ta có thể kể đến những tên tuổi: Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên
Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Vi
ên, Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn
Đình Thi, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu,…
Có thể nói, giới trí thức đã góp phần không nhỏ cho thắng lợi của dân tộc. Có một
thời, người ta quan niệm trí thức chỉ là tầng lớp trung gian của cuộc kháng chiến. Họ
không đông đảo như nông dân, công nhân - lực lượng nòng cốt của kháng chiến. Nhiều
người trong số họ không trực tiếp cầm súng chiến đấu. Nhưng, xét cho cùng, chính trí
thức là người góp phần đưa kháng chiến đến thành công. Họ soi lối, chỉ đường, vạch ra
những kế hoạch tác chiến cụ thể. Họ biết cách đi sâu sát quần chúng, tìm
hiểu tâm tư,
nguyện vọng, tác động to lớn đến tâm lí chiến đấu. Hãy nhìn lại sự đóng góp to lớn của
họ trên mặt trận văn hóa văn nghệ để đánh giá một cách khách quan hơn vai trò của trí
thức ở giai đoạn này.
1.1.3. Người trí thức - điểm hội tụ của tr

ình độ văn minh dân trí, dân chủ và phát
triển đời sống xã hội (Giai đoạn sau 1975)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước tự do, con người làm chủ đất nước,
làm chủ vận mệnh nhưng lại đương đầu với những khó khăn chồng chất, những thử
thách khắc nghiệt của thời hậu chiến. Từ thời chiến chuyển sang thời bình, cuộc sống
lại hiện ra với tất cả những mặt phức tạp vốn có của
nó. Những khó khăn và khủng
hoảng của đời sống kinh tế xã hội, tính phức tạp và sự chi phối của kinh tế thị trường,
sự đổi thay những quan niệm về đạo đức, nhân sinh, lối sống,… đẩy tới sự phân cực
giữa trắng – đen
, thiện – ác, tốt - xấu. Khái quát bức tranh xã hội Việt Nam những năm
bước ra từ thời chiến, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nhận định: “Thời này diễn ra
một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn
thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi
con người” [161, tr.5]. Hiện thực cuộc sống với những bộn bề, trăn trở, với những
niềm
vui và nỗi buồn của con người vừa bước ra khỏi cơn ác mộng đằng đẵng ba mươi
năm là sự thách thức lớn đối với người trí thức. Làm thế nào để xây dựng lại đất nước,
làm thế nào để hàn gắn vết thương chiến tranh,… Đến giai đoạn này, người trí thức
càng thể hiện rõ hơn vai trò khai sáng. Họ tìm cách cải cách xã hội cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu.
Yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước ngày càng trở nên bức thiết. Trước tình hình đó,
tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” (Đại hội Đảng
lần VI/1986) đã mang lại luồng sinh khí mới cho mọi mặt đời sống xã hội, đã củng cố
lòng tin của giới trí thức, giúp họ nghĩ hành động theo đúng lương tâm,
lương tri, và lý
tưởng của mình, góp phần phát triển đất nước.
Từ những năm 90 trở lại đây, đất nước ta chuyển hướng theo nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn m
inh trong bối cảnh giao lưu văn hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng toàn
cầu hóa. Giao lưu văn hóa là một cơ hội để văn hóa, văn học Việt Nam có dịp cọ xát
với thực tế, tìm kiếm một hướng đi riêng. “Sự mở rộng giao lưu văn hóa, không chỉ với
khu vực các nước Xã hội chủ nghĩa mà là với toàn thế giới, chấp nhận gi
ao lưu đa
chiều, đa phương, tuy không tránh khỏi những phức tạp, nhưng rõ ràng có tác dụng
tích cực, thúc đẩy sự khởi phát nhiều tiềm năng văn học dân tộc, nhiều thể nghiệm
cách tân” [6, tr.134]. Như vậy, trong thời đại hội nhập, một yêu cầu cơ bản và cần thiết
được đặt ra là giao lưu văn hóa “hòa nhập chứ không hòa tan”, tiếp thu những văn
m
inh tiến bộ nhưng vẫn giữ vững bản sắc dân tộc – cái gốc của dân tộc Việt Nam.
Muốn được như vậy, người trí thức phải đi đầu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bước ra từ cuộc chiến, người trí thức trở về với cái Tôi cá nhân (cái Tôi đã có sự
hòa hợp, thống nhất với cái Ta), trăn trở tìm hướng phát triển cho đất nước: công
nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo cơ chế xã hội chủ nghĩa có sự chi phối của kinh
tế thị trường; và một hướng đi mới cho văn học: xây dựng một nền văn hóa, văn học
đậm đà bản sắc dân tộc, bắt kịp và giao lưu với văn hóa, văn học thế giới. Họ trở thành
điểm hội tụ của trình độ văn minh dân trí, dân chủ, thành lương tri và sự phản tỉnh của
dân tộc, thành sức mạnh của nhân cách cá nhân trên hành trình tự hoàn thiện chính
mình.
1.2. Sự nhận thức, tự nhận thức về thiên chức xã hội và về số phận cá nhân, bi
kịch tinh thần của tầng lớp trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
1.2.1. Ưu thế nhận thức của văn xu
ôi nghệ thuật hiện đại
Trong văn học trung đại, thể loại văn học chủ đạo là thơ. Khách văn chương -
những trí thức phong kiến - dùng hình thức văn học này để giãi bày tình cảm và nói chí.
Thơ giàu cảm xúc, giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh, dễ dàng truyền tải những tình cảm, ý
chí của chủ thể sáng tạo (người nói, người viết) đến khách thể tiếp nhận (người đọc,

người nghe). Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên
tưởng, tưởng tượng phong phú, nhưng cái cốt lõi của thơ là trữ tình. Nó là tấm gương
của tâm hồn, là tiếng nói của tình cảm co
n người, những rung động của trái tim trước
cuộc đời. Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn c
on người và cuộc sống
khách quan. Trong văn học hiện đại, thơ chiếm một tỉ lệ lớn trong sáng tác, ở bất kỳ
hoàn cảnh nào, thời đại nào, con người cũng có nhu cầu bộc lộ tình cảm của mình.
Văn xuôi xuất hiện muộn hơn thơ. Bắt đầu từ “Chiếu dời đô” (Lý Công Uẩn) năm
1010, đến ba thế kỉ sau, đời Trần mới có tiếp những áng văn xuôi kể chuyện m
a quái,
thần linh (Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh). Năm thế kỉ nữa mới có được văn
xuôi quốc ngữ hiện đại nhờ vào sự truyền bá rộng rãi chữ quốc ngữ, sự xuất hiện của
báo chí và phong trào dịch thuật, và nhờ vào những tìm tòi, thể nghiệm (cả về nội dung,
hình thức, thể loại,… ) của người trí thức trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Cuối thế kỉ XIX, nhiều nhà nho, quan lại hay thâ
n sĩ - những trí thức của thời đại cũ
- hoặc tự nhiệm hoặc hưởng ứng phong trào Cần Vương, đứng lên cầm gươm giết giặc

×