Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Mang thai hộ một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.3 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

----------------------

NGUYỄN MINH THÁI
LKT12- 04

MANG THAI HỘ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Ngành Luật Kinh tế
Mã số: 12A51010258

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội, 6/2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

----------------------

NGUYỄN MINH THÁI
LKT12- 04

MANG THAI HỘ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Ngành Luật Kinh tế


Mã số: 12A51010258

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan

Hà Nội, 6/2016


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo, cán bộ của Khoa Luật Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi, giải đáp mọi thắc mắc của sinh
viên, nhờ sự chỉ dẫn tận tình, những kiến thức quý báu trong quá trình học tập và
nghiên cứu mà thầy cô truyền đạt, em mới có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp
này!
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc, tình cảm trân trọng tới giáo viên
hướng dẫn - TS. Nguyễn Thị Lan, mặc dù công việc bận rộn nhưng cô luôn nhiệt tình
hướng dẫn, định hướng việc nghiên cứu. Trong quá trình viết bài, bài viết sơ sài và
nhiều thiếu sót, cô luôn sẵn sàng chỉ bảo tận tình!
Ngoài ra em cũng muốn gửi lời cảm ơn tới tập thể LKT 12-04, các bạn cùng
lớp đã nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian vừa qua!
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện khóa luận một cách hoàn chỉnh nhất,
song do buổi đầu làm quen với công tác nghiên cứu, khóa luận chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót và hạn chế về kiến thức chuyên môn cũng như thực tiễn, nhưng
với sự nỗ lực của bản thân, em hy vọng bài viết sẽ được thầy cô trong Hội đồng công
nhận. Em rất mong nhận được lời góp ý, bổ sung quý báu từ thầy cô để khóa luận
được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5/ 2016
Sinh viên


Nguyễn Minh Thái


MỤC LỤC

PHẦN I : MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
PHẦN II: NỘI DUNG ............................................................................................... 4
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................ 4
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO .............. 4
1.1.

Khái niệm chung về mang thai hộ........................................................ 4
1.1.1. Khái niệm vô sinh ................................................................................ 4
1.1.2. Khái niệm sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản .............................. 5
1.1.3 Khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo................................... 6

1.2.

Ý nghĩa của việc quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ......... 9

1.3

Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .................................. 11
1.3.1 Điều kiện đối với người mang thai hộ ............................................... 14
1.3.2 Điều kiện đối với người nhờ mang thai hộ........................................ 16

1.3.3 Điều kiện cơ sở y tế được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích
đạo
........................................................................................................... 18
1.3.4 Trình tự, thủ tục của việc mang thai hộ ............................................ 19

1.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo
............................................................................................................. 20
1.4.1 Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ ......................................... 20
1.4.2 Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ .................................. 23
1.5

Xác định cha/mẹ/con trong mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ..... 26
1.5.1 Xác định cha mẹ .................................................................................. 26
1.5.2 Xác định con ........................................................................................ 27

1.6. Giải quyết tranh chấp về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ................. 27
CHƯƠNG 2 .............................................................................................................. 30
MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ 30


...................................................................................................................... 30

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT ..................................................................... 30


2.1. Những vướng mắc, bất cập của pháp luật về mang thai hộ. ..................... 30
2.1.1. Nhận xét chung .................................................................................. 30
2.1.2. Một số vụ việc cụ thể .......................................................................... 31
2.1.3. Một số vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật về mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo ............................................................................ 34
2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo
............................................................................................................. 39
PHẦN III: KẾT LUẬN ........................................................................................... 44

PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 45
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 47


Khóa luận tốt nghiệp 2016

PHẦN I : MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tế, hiện nay các trường hợp vô sinh, hiếm muộn xảy ra ngày càng nhiều trên
toàn thế giới và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Vấn đề này ngày càng ảnh
hưởng đến hạnh phúc mỗi gia đình và sự phát triển chung của toàn xã hội. Mặc dù
trình độ khoa học, kỹ thuật hiện nay về hỗ trợ sinh sản khá phát triển nhưng vẫn
không giải quyết hết được những vấn đề về sinh sản đối với những cặp vợ chồng vô
sinh vì nhu cầu quá nhiều và còn nhiều trường hợp đã thực hiện nhiều lần kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản nhưng vẫn không thành công. Bởi vậy, việc quy định về mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo là cần thiết và hợp lý.
Nếu như có mặt tại các khoa khám hiếm muộn, vô sinh, tận mắt chứng kiến hàng
nghìn người ngày đêm chạy chữa, lo lắng để mong mỏi có được đứa con ruột thịt thì
mới nhận thấy hết được ý nghĩa nhân văn của việc cho phép mang thai hộ, vừa cứu
vãn hạnh phúc vợ chồng, vừa tạo niềm vui cho không ít gia đình cũng như bạn bè,
người thân của họ.
Thực trạng ở Việt Nam hiện nay có tỷ lệ vô sinh trong cả nước khá cao, 7.7 %
(tương đương khoảng 700.000 - 1 triệu cặp vợ chồng hiếm muộn trong cả nước).
Theo Báo cáo của Bộ Y tế về sinh con theo phương pháp khoa học thì trước đây, nhu
cầu mang thai hộ khá phổ biến, nhưng do pháp luật cấm nên đã có nhiều cặp vợ
chồng phải ra nước ngoài để thực hiện trái phép việc mang thai hộ hoặc tìm đến
những dịch vụ mà pháp luật không cho phép như “đẻ thuê”, tiềm ẩn những hậu quả
pháp lý và thiệt hại khó lường trước được. Do vậy, cần thiết phải có những quy định
pháp luật về vấn đề này.
Quy định về mang thai hộ đã được Quốc hội thông qua lần đầu tiên và được ghi

nhận trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, đáp ứng nhu cầu chính đáng của
những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn. Luật Hôn nhân Gia đình 2014 quy định về
vấn đề này đã tránh sự lạm dụng quy định của pháp luật vào mục đích đẻ thuê kiếm
lợi hay lạm dụng tình dục, lợi dụng việc đẻ thuê để cưỡng đoạt tài sản, đẻ thuê phục
vụ cho những kẻ buôn bán người và nội tạng... Đây là lần đầu tiên Luật ghi nhận cho
phép thực hiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nên mang thai hộ là quy định mới
và phức tạp trong quá trình áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Do đó, việc nghiên cứu
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

1


Khóa luận tốt nghiệp 2016

đề tài “Mang thai hộ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” là hết sức cần thiết.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: Có cái nhìn khái quát và toàn diện về mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo; đưa ra giải pháp để hoàn thiện hơn quy định của pháp luật.
Ý nghĩa thực tiễn: Làm cơ sở tham khảo cho những ai muốn nghiên cứu về mang
thai hộ; hoặc cho những cặp vợ chồng muốn tiến hành kỹ thuật mang thai hộ nắm
được những kiến thức cơ bản về nội dung cũng như thủ tục khi muốn mang thai hộ và
nhờ mang thai hộ.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận của mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo, những quy định của pháp luật hiện hành đối với việc mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo nhằm tiếp cận vấn đề mang thai hộ một cách cụ thể. Đồng thời, có
cái nhìn khái quát, toàn diện, sâu sắc về vấn đề này, góp phần hoàn thiện quy định về
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nói riêng và Luật Hôn nhân và Gia đình nói
chung.
4. Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề mang thai hộ, vì pháp luật
chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cấm thực hiện mang thai hộ vì mục
đích thương mại nên khóa luận chỉ nghiên cứu mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ở
Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận đi từ cái khái quát đến cụ thể, từ cái chung đến cái riêng dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đồng thời, khóa luận còn sử
dụng các phương pháp:
Phương pháp phân tích, giải thích.
Phương pháp chứng minh để đưa ra các dẫn chứng, chứng minh.
Phương pháp tổng hợp thống kê tài liệu.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

2


Khóa luận tốt nghiệp 2016

6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2
chương:
Chương 1: Lý luận chung về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Chương 2: Một số vướng mắc, bất cập của pháp luật về mang thai hộ và một số
giải pháp giải quyết

Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

3



Khóa luận tốt nghiệp 2016

PHẦN II: NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH
NHÂN ĐẠO
1.1.

Khái niệm chung về mang thai hộ
1.1.1. Khái niệm vô sinh
Khái niệm vô sinh được giải thích tại Khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015 /NĐ

– CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cụ thể: “Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một
năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện
pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai”.
Theo trang Wikipedia có thể hiểu vô sinh là hiện tượng mất hay thiếu khả
năng sinh sản xảy ra trong khoảng 10 – 15% các cặp nam nữ muốn có con.
Một cặp vợ chồng gọi là vô sinh nguyên phát nếu trong tiền sử họ chưa có thai
lần nào. Nhưng nếu trong tiền sử họ đã có ít nhất một lần mang thai, sanh sẩy hoặc
phá thai kế hoạch, rồi quá thời hạn một năm sau đó muốn có thai mà vẫn không có
thai trở lại gọi là vô sinh thứ phát.
Vô sinh có thể là nguyên phát với người vợ hay với người chồng hay với cả
chồng và vợ. Tương tự như vậy, vô sinh có thể là thứ phát đối với người chồng và
người vợ hoặc cả hai.
Các bác sĩ Khoa Hỗ trợ sinh sản của Bệnh viện Hải Phòng nhận định: “Vô
sinh (hiếm muộn) không phải hoàn toàn là do nguyên nhân từ phía người phụ nữ.
Khoảng 40% nguyên nhân từ người chồng, khoảng 40% nguyên nhân từ người vợ và

phần còn lại là do nguyên nhân từ cả vợ và chồng”. Do đó, chúng ta thấy rằng việc đi
khám và tìm nguyên nhân của hiếm muộn cần nhất thiết phải có mặt của cả hai vợ
chồng. Nói cách khác, hiếm muộn là vấn đề của một cặp vợ chồng, chứ không phải
của riêng vợ hay chồng.
Hiện nay, hầu hết thống kê trên thế giới tỉ lệ vô sinh ngày càng gia tăng, ở cả
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

4


Khóa luận tốt nghiệp 2016

các nước phát triển và đang phát triển. Có nhiều nguyên nhân gây vô sinh cho nam
giới và nữ giới khi xã hội ngày càng phát triển, như:
Phụ nữ lập gia đình trễ hơn và muốn có con ở tuổi lớn hơn.
Nhiều thống kê trên thế giới cho thấy chất lượng tinh trùng nam giới đang
giảm dần, có thể do ảnh hưởng môi trường cà hoàn cảnh sinh sống, thói quen sống
không lành mạnh.
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục xuất hiện với tỉ lệ cao hơn trong cộng
đồng do sinh hoạt tình dục không lành mạnh, dẫn đến tắc vòi trứng, giảm chất lượng
tinh trùng, rối loạn khả năng sinh sản.
Việc sinh hoạt tình dục sớm và quan hệ với nhiều “bạn tình” ngày càng phổ
biến và càng làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục và nguy
cơ dẫn đến hiếm muộn.
Một biến chứng lâu dài rất thường gặp của nạo phá thai hiện nay là vô sinh.
Rất nhiều phụ nữ sau vài lần nạo phá thai đã bị vô sinh do tắc vòi trứng hoặc viêm
dính buồng tử cung. Lối sống hiện đại và buông thả của một bộ phận người trẻ cũng
khiến tỉ lệ vô sinh ngày càng tăng.
1.1.2. Khái niệm sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định tại Khoản 21 Điều 3

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”.
Thứ nhất, thụ tinh nhân tạo.
Thụ tinh nhân tạo là phương pháp thụ tinh bằng cách đưa trực tiếp một lượng
tinh trùng sau khi đã lọc rửa vào buồng tử cung. Đối tượng áp dụng trong trường hợp
thụ tinh nhân tạo là vô sinh không rõ nguyên nhân: rối loạn phóng noãn, lạc nội mạc
tử cung, bất thường cổ tử cung, kháng thể kháng tinh trùng, phối hợp các bất thường
trên.
Điều kiện để thực hiện được kỹ thuật thụ tinh nhân tạo bao gồm hai điều kiện
đối với người vợ và đối với người chồng:
Đối với người vợ: ít nhất một trong hai vòi trứng thông, buồng tử cung bình
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

5


Khóa luận tốt nghiệp 2016

thường và buồng trứng còn hoạt động.
Đối với người chồng (hoặc người cho): mẫu tinh trùng sau lọc rửa phải đạt tối
thiểu một triệu tinh trùng di động.
Thứ hai, thụ tinh trong ống nghiệm.
Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống
nghiệm để tạo thành phôi. Noãn là giao tử của nữ, tinh trùng là giao tử của nam, phôi
là sản phẩm của quá trình kết hợp giữa noãn và tinh trùng.
1.1.3 Khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Có nhiều ý kiến định nghĩa mang thai hộ khác nhau nhưng về mặt pháp lý thì
trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 được thông qua ngày 19 tháng 6 năm
2014 và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2015. Định nghĩa mang thai hộ
được quy định tại Khoản 22, Điều 3 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì

“Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì
mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể
mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy
noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm,
sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này
mang thai và sinh con”.
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện
theo như luật quy định là “người phụ nữ tự nguyện mang thai hộ không vì mục đích
thương mại”. Người mang thai hộ sẽ không vì mục đích được hưởng lợi kinh tế hay
một lợi ích nào khác để mang thai hộ cặp vợ chồng mà người vợ không thể có thai
và sinh con được. Điều này là một trong những yếu tố phân biệt mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Quy định “người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản”, như phần trên, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bao gồm thụ tinh
nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm. Nếu như người vợ đã thực hiện một trong
hai kỹ thuật trên nhưng vẫn không thể mang thai được với lý do như: đã bị cắt tử
cung nhưng vẫn có buồng trứng và có nhu cầu sinh con; có những người mắc bệnh

Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

6


Khóa luận tốt nghiệp 2016

tim dẫn tới cơ thể bị suy nhược không đủ sức khỏe mang thai…sẽ thỏa mãn một
điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo phải đảm bảo các điều kiện: có ít nhất một năm kinh nghiệm
thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và tổng số chu kỳ thụ tinh trong ống

nghiệm trong năm tối thiểu là 300 ca; chưa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực khám
bệnh, chữa bệnh liên quan đến thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; đáp
ứng nhu cầu và bảo đảm thuận lợi cho người dân.
Nghị định số 10/2015/NĐ – CP cũng nêu rõ 3 cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
có đủ điều kiện thực hiện ngay kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo gồm:
Bệnh viện Phụ sản Trung ương; Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế; Bệnh viện
Phụ sản Từ Dũ Thành phố Hồ Chí Minh. Theo kế hoạch, sau một năm triển khai
thực hiện Nghị định này, căn cứ các điều kiện, Bộ trưởng Y tế sẽ xem xét bổ sung
các cơ sở khác. Đến nay, đã một năm khi nghị định đưa vào thực tiễn và chưa có
thêm một cơ sở y tế nào được bổ sung.
Trong bài viết “Mang thai hộ - những điều cần biết” của bác sĩ Hồ Mạnh
Tường có ghi nhận mang thai hộ (surrogacy) đã tồn tại từ lâu, nhưng việc mang thai
hộ thật sự chỉ có thể được thực hiện sau khi con người thực hiện thành công kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm. Trước khi kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ra đời, khi
người vợ không thể có con hay mang thai, người chồng có thể giao hợp với một
người phụ nữ khác hoặc bơm tinh trùng vào tử cung của phụ nữ này để có thai và
việc này thời đó cũng được xem là “mang thai hộ”. Người phụ nữ này có thể có thai,
sau đó trao con lại cho cặp vợ chồng có nhu cầu.
Mang thai hộ được hiểu là dùng biện pháp kỹ thuật lấy trứng của vợ và tinh
trùng của chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của một phụ
nữ khác để nhờ người này mang thai hộ.
Theo bà Trần Thị Hương Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh thì mang thai hộ là trường hợp sau khi thụ tinh trong ống nghiệm, nếu người
mẹ vì lý do sức khỏe hay vì điều kiện nào đó không thể mang thai, phải nhờ đến
người phụ nữa khác mang thai và sinh đẻ.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

7



Khóa luận tốt nghiệp 2016

Phân biệt mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục
đích thương mai
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định thì chúng ta có thể dựa
vào mục đích của việc mang thai hộ để phân loại, mang thai hộ được chia thành hai
loại: mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định thì đây là việc một người
phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng
mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh
trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để
người này mang thai và sinh con. Quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là
việc làm hết sức nhân văn của nhà nước ta, là một cứu cánh dành cho các cặp vợ
chồng vô sinh, hiếm muộn hiện nay. Do hiện nay ở nước ta nhu cầu mang thai hộ
khá nhiều vì tình trạng vô sinh, hiếm muộn cũng khá phổ biến. Mong muốn của các
cặp vợ chồng vô sinh muốn có một đứa con có cùng huyết thống với mình là mong
muốn chính đáng vì đứa con được xem như là cầu nối, là hạnh phúc cảu gia đình.
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là biện pháp cuối cùng giúp vợ chồng vô
sinh, hiếm muộn có được đứa con mà họ hằng mong ước khi họ đã áp dụng các biện
pháp hỗ trợ sinh sản mà người phụ nữ vẫn không thể mang thai và sinh con. Mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo có ý nghĩa hết sức nhân văn đối với các cặp vợ chồng
vô sinh, hiếm muộn.
Mang thai hộ vì mục đích thương mại là hành vi pháp luật không cho phép,
trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chỉ ghi nhận mang thai hộ với mục đích
nhân đạo. Mang thai hộ với mục đích thương mại bị cấm vì nó trái với văn hóa, đạo
đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc ta, không khác gì dùng tiền để mua con. Khi
chưa có quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì việc mang thai hộ đã
diễn ra vì không được pháp luật quy định nó trở thành một dịch vụ ngầm mà nhiều

cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn tìm đến. Nhiều người đã kiếm sống bằng việc
“cho thuê tử cung” và cũng có nhiều huệ lụy, mang thai hộ vì mục đích thương mại
nó kéo theo biết bao hậu quả rắc rối, khó lường. Việc mang thai hộ vì mục đích
thương mại từ lúc trước đó là một bản hợp đồng giữa bên nhờ mang thai hộ và bên
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

8


Khóa luận tốt nghiệp 2016

mang thai hộ không có sự công nhận của cơ quan nhà nước và không được đảm bảo
bởi một cơ chế pháp lý nào cả.
Với việc quy định đưa mang thai hộ vì mục đích nhân đạo vào trong Luật
và cấm việc mang thai hộ vì mục đích thương mại, chúng ta chỉ có thể phân biệt
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với mang thai hộ vì mục đích thương mại chủ
yếu dựa vào yếu tố mục đích để phân biệt hai loại mang thai hộ này. Tuy nhiên trên
thực tế việc phân định đâu là mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, đâu là mang thai
hộ vì mục đích thương mại còn nhiều khó khăn.
1.2.

Ý nghĩa của việc quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Tạo khung pháp lý an toàn trong các trường hợp mang thai hộ và có cơ chế
phân biệt được với trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại như hiện nay.
Mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể kéo theo nhiều hậu quả khó
lường, trước đây khi Luật Hôn nhân và Gia đình chưa ghi nhận mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo, bản hợp đồng giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ không
có sự công nhận của cơ quan nhà nước, là vi phạm pháp luật và không được đảm bảo
bởi một cơ chế pháp lý nào cả. Hiện nay khi mang thai hộ được ghi nhận, giao dịch

mang thai hộ bắt buộc phải được đăng kí và kiểm soát bởi cơ quan nhà nước, vậy,
quyền lợi và nghĩa vụ của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ sẽ được bảo
đảm.
Giúp các cơ quan chức năng có thể kiểm soát được một phần nào đó nhu cầu
mang thai hộ hiện nay.
Muốn thực hiện việc mang thai hộ, trước hết phải đăng ký với trung tâm thực
hiện kỹ thuật (bệnh viện Phụ sản Trung ương, bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí
Minh, bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế) để được xét duyệt, vì thế cơ quan chức
năng có thể nắm được nhu cầu muốn mang thai hộ hiện nay, từ đó tiến hành thực hiện
quản lý nhà nước thông qua đánh giá thực trạng xã hội đất nước như: nếu như số hồ
sơ đăng kí mang thai hộ ngày càng tăng đồng nghĩa với chất lượng sức khỏe sinh sản
của người dân có chiều hướng xấu, tỉ lệ vô sinh ngày càng tăng; các ca mang thai hộ
mà xảy ra nhiều tranh chấp, kiện tụng thì có nên siết chặt hơn quy định pháp luật về
mang thai hộ?

Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

9


Khóa luận tốt nghiệp 2016

Ưu tiên bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em.
Ở Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới, phụ nữ và trẻ em đều là
những đối tượng yếu đuối, cần được bảo vệ và chăm sóc vậy mà: "Mỗi ngày, gần 800
phụ nữ tử vong trong khi sinh con. Thêm vào đó, có tới 18.000 trẻ tử vong hàng
ngày", bà Isabel Ortiz, Giám đốc Ban Bảo trợ Xã hội của Tổ chức Lao động Quốc tế
cho biết. Khi mang thai hộ, tỉ lệ rủi ro sẽ cao hơn so với ca sinh đẻ bình thường, nhất
là đối với những trường hợp “đẻ thuê, đẻ mướn”, họ không có sự ràng buộc chặt chẽ
về mặt pháp luật nên khi xảy ra những rủi ro cho người mang thai hộ hay đứa bé,

quyền lợi của họ sẽ không được đảm bảo. Pháp luật về mang thai hộ ra đời đảm bảo
những quyền lợi nhất định cho bà mẹ mang thai hộ cũng như đứa bé. Quyền lợi cho
người phụ nữ và trẻ em được đảm bảo qua chế độ thai sản đối với người mang thai hộ
và chế độ nuôi con nhỏ cho người nhờ mang thai hộ khi nhận lại con từ người mang
thai hộ (sau khi sinhvà nuôi con).
Đối với nam giới trong việc mang thai hộ, khả năng gặp rủi ro cũng như chịu
thiệt hại so với những người phụ nữa thấp hơn rất nhiều. Nam giới tham gia trong
trường hợp này chỉ có người chồng bên nhờ mang thai hộ, họ không phải mang thai
như người mang thai hộ mà chỉ sử dụng tinh trùng để tạo ra phôi, theo quan niệm từ
trước tới nay, người đàn ông cũng manh mẽ hơn người so với phái yếu nên khi quy
định về mang thai hộ ra đời có lẽ không ảnh hưởng đến quyền lợi của nam giới.
Khi được pháp luật điều chỉnh thì các bên sẽ có cơ sở pháp lý chặt chẽ hơn để
ràng buộc lẫn nhau, tránh tình trạng vi phạm như không chịu trả con hoặc không
chịu nhận con. Khi mang thai hộ, có thể xảy ra rất nhiều khả năng (cả trước và sau
khi sinh con) có thể xảy ra mà không thể lường trước được như: vì quá yêu thích nên
người mang thai hộ không chịu trả con, vì lí do sức khỏe và giới tính mà bên nhờ
mang thai hộ không nhận con…trên thực tế những trường hợp này đã xảy ra. Vậy,
khi chế định về mang thai hộ ra đời, các bên phải thiệt lập thỏa thuận mang thai hộ
theo quy định của pháp luật nên sẽ có ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý.
Giảm thiểu tình trạng ly hôn.
Các cặp vợ chồng hiếm muộn, không có khả năng được làm cha, mẹ nên tỷ lệ
ly hôn do nguyên nhân này có thể được giảm thiểu, đảm bảo được việc duy trì hạnh
phúc gia đình, phát triển các “tế bào” của xã hội và cũng tạo điều kiện tốt hơn để Nhà
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

10


Khóa luận tốt nghiệp 2016


nước quản lý xã hội. Ở nước ta hiện nay, những vụ ly hôn xuất phát từ lí do không thể
có con chiếm xấp xỉ 60% (năm 2009). Vậy, việc pháp luật quy định về mang thai hộ
là giải pháp tốt tránh những vụ ly hôn không đáng có và cũng là liều thuốc cứu vãn
hạnh phúc cảu những cặp vợ chồng này.
Việc pháp luật quy định về mang thai hộ cũng góp phần giảm bớt gánh nặng
về kinh tế cho các cặp vợ chồng hiếm muộn không có khả năng sinh con. Bởi nhiều
khi các cặp vợ chồng này sử dụng các liệu pháp khoa học, cấy ghép… nhưng vẫn
không sinh được con và rất tốn kém.
1.3 Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Với việc ghi nhận quy định mang thai hộ trong Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014 đã tạo cơ hội cho nhiều người có cơ hội được làm cha mẹ. Nhà nước ta cho
phép mag thai hộ nhưng không phải tất cả mọi người muốn đều được phép nhận
mang thai hộ hay nhờ mang thai hộ. Để tránh xảy ra tình trạng mang thai hộ vì mục
đích thương mai, biến tướng mục đích của mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhà
nước đã đặt ra những điều kiện, người nào đáp ứng đủ những điều kiện mà nhà nước
đưa ra mới được phép mang thai hộ. Tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014 quy định về “Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”, trong đó có những
quy định chung đối với người nhờ mang thai hộ và người được nhờ mang thai hộ:
Một là, tại Khoản 1 Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định
“Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện
của các bên và được thành lập thành văn bản”. Đây là điều kiện chung bắt buộc đối
với người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ, họ phải thỏa thuận với nhau xuất
phát từ ý chí tự nguyện từ cả hai bên và thỏa thuận đó phải được lập thành văn bản.
Văn bản quy định trong Khoản 1 Điều 95 là thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo được quy định tại Điều 96 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Khoản 1, Điều 96 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “ Thỏa
thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ (sau
đây gọi là bên nhờ mang thai hộ) và vợ chồng người mang thai hộ (sau đây gọi là
bên nhờ mang thai hộ) phải có các nội dung sau đây: Thông tin đầy đủ về bên nhờ
mang thai hộ và bên mang thia hộ theo các điều kiện có liên quan quy định tại Điều

95 của Luật này; Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 và
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

11


Khóa luận tốt nghiệp 2016

Điều 98 của Luật này; Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản
khoa; hỗ trợ để đảm bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian
mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ
của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai
hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan; Trách nhiệm dân sự trong trường hợp
một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận”.
Thỏa thuận mang thai hộ cũng được quy định tại Khoản 2, Điều 96 của Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập
thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy
quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa
thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho
người thứ ba không có giá trị pháp lý. Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ
giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với cơ sở y tế thực
hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận
của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này”.
Việc mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự hình thành trên cơ sở tự nguyện, tự
do ý chí và bình đẳng vì vậy pháp luật công nhận và bảo vệ sự thỏa thuận này. Thỏa
thuận mang thai hộ được xác lập giữa bố mẹ đứa trẻ và người mang thai hộ, đồng
thời làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Vì vậy, những vấn đề pháp lý
liên quan đến thỏa thuận này cũng được quy định cụ thể. Pháp luật quy định thỏa
thuận này phải được lập thành văn bản và cần thiết phải có công chứng hoặc chứng
thực của cơ quan nhà nước. Khi văn bản này, được công chứng hoặc chứng thực thì

đồng nghĩa với việc nhà nước thể hiện ý chí chấp nhận và bảo vệ văn bản này, đảm
bảo việc thực hiện văn bản này của các bên. Bởi nó là cơ sở pháp lý duy nhất làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, trong đó có quyền của người nhờ mang
thai hộ được mặc nhiên công nhận là bố mẹ của đứa trẻ khi đăng ký khai sinh
và các giấy tờ hộ tịch khác, tránh những tranh chấp không cần thiết. Ví dụ trong
trường hợp sau khi sinh người mang thai hộ từ chối việc giao đứa trẻ, hoặc trường
hợp bên nhờ mang thai từ chối nhận đứa trẻ.
Thỏa thuận này cũng quy định cụ thể các điều kiện của bố mẹ (bên nhờ mang
thai) và người mang thai hộ. Các điều kiện của các bên được quy định tại Điều 95
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

12


Khóa luận tốt nghiệp 2016

của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về điều kiện mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo. Ví dụ đối với người mẹ đứa trẻ, chỉ có thể yêu cầu người khác
mang thai hộ trong trường hợp vì lý do sức khỏe không có khả năng mang thai hoặc
không thể mang thai được và phải có kết luận chính thức của các cơ quan y tế. Quy
định này sẽ loại bỏ quan điểm lệch lạc, lạm dụng việc mang thai hộ đi ngược lại các
giá trị đạo đức truyền thống. Đối với người mang thai hộ cần thiết phải là người hội
đủ điều kiện về độ tuổi, sức khỏe theo kết luận của cơ quan y tế, phải có sự đồng
ý của người chồng trong trường hợp người này trong tình trạng hôn nhân; số lần
mang thai hộ tối đa để bảo vệ sức khỏe và không biến người mang thai hộ thành
những máy đẻ, hay một nghề kiếm sống.
Mặt khác, thỏa thuận này cũng quy định các nghĩa vụ đối với các bên trong việc
thực hiện thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo khi các bên không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng theo thỏa thuận đã cam kết. Các nghĩa vụ được
quy định tại Điều 97 và Điều 98 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Xuất phát từ tính đặc thù của giao dịch, đối tượng của giao dịch không phải là
một loại hàng hóa hoặc dịch vụ mà là một con người. Vì vậy, trong thỏa thuận mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo không thể đặt ra các điều kiện về giới tính (đứa trẻ
phải là trai hay gái), về trọng lượng, màu da, cũng như các điều kiện khác về tình
trạng sức khỏe.
Hai là, Điểm c, Khoản 2, và Điểm đ, Khoản 3, Điều 95 của Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2014 quy định bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ phải được “tư
vấn về y tế, pháp lý, tâm lý”. Bên mang thai hộ cần được tư vấn một số vấn đề như:
Quy trình thực hiện mang thai hộ; Khả năng phải mang đa thai; Khả năng có sự phản
đối, không đồng tình của người trong gia đình hoặc bạn bè trong thời gian thực hiện
mang thai hộ; Các nguy cơ, biến chứng có thể có khi mang thai như sẩy thai, thai
ngoài tử cung, băng huyết sau sinh…; Có thể có mặc cảm tội lỗi và chịu trách nhiệm
với cặp vợ chồng người nhờ mang thai hộ nếu có thai và sẩy thai; Khả năng có thể sẽ
chịu cuộc mổ lấy thai; Khả năng em bé có thể bị dị tật và khả năng bỏ thai; Ảnh
hưởng tâm lý lên con ruột của mình; Có thể có cảm giác mất mát, mặc cảm sau khi
trao lại con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai; Có thể không được bù đắp đầy đủ các
mất mát có thể có; Chỉ nên thực hiện khi động lực chính là mong muốn giúp đỡ cho
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

13


Khóa luận tốt nghiệp 2016

cặp vợ chồng nhờ mang thai. Bên nhờ mang thai hộ cũng cần được tư vấn một số vấn
đề như sau: Các phương án khác ngoài việc mang thai hộ hoặc xin con nuôi; Quy
trình thực hiện mang thai hộ; Các khó khăn có thể có khi thực hiện mang thai hộ; Tỷ
lệ thành công của kỹ thuật có thể rất thấp nếu dự trữ buồng trứng thấp hay trên 35
tuổi; Chí phí điều trị cao; Các vấn đề về tâm lý trước mắt và lâu dài của việc nhờ
mang thai hộ lên cặp vợ chồng, người thân và bản thân đứa trẻ sau này; Khả năng đa

thai; Người mang thai hộ có thể có ý muốn giữ đứa trẻ sau sinh; Khả năng đứa trẻ bị
dị tật bẩm sinh; Nguy cơ các hành vi, thói quen của người mang thai hộ có thể ảnh
hưởng đến sức khỏe đứa trẻ
1.3.1 Điều kiện đối với người mang thai hộ
Điểm a, Khoản 3, Điều 95 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy
định “người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên
vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ”. Theo giải thích tại khoản 19, Điều 3 Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì “Người thân thích là người có quan hệ hôn
nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm
vi ba đời”. Theo các bác sĩ thì hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện được
kỹ thuật y tế liên quan đến mang thai hộ vì kỹ thuật mang thai hộ không khác gì
nhiều so với kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm chỉ có khác đối tượng nhận phôi là
người mang thai hộ, nhưng vấn đề cơ bản là các khía cạnh liên quan đến pháp luật
và đạo đức xã hội. Người ta lo ngại mang thai hộ sẽ bị thương mại hóa, trong khi
nguyên tắc và bản chất của nó phải là nhân đạo. Đã gọi mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo nghĩa là phải giúp cho người khác vì tấm lòng, chứ không lấy tiền.
Đây là nguyên tắc mà Việt Nam quy định khi thực hiện mang thai hộ. Cho nên,
đã là mang thai hộ thì c ó l ẽ chỉ có người thân trong gia đình mới tránh được sự
trục lợi lẫn nhau, hạn chế vấn đề thương mại hóa xảy ra. Theo ông Dương
Đăng Huệ - Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế (Bộ Tư pháp), Tổ trưởng biên
tập Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 nói về
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, ông cho rằng cơ chế thân thích là để đảm bảo
tính hỗ trợ, chia sẻ, tránh bị thương mại hóa. Quy định đối tượng người mang thai
hộ là người thân thích cùng hàng thì nhà nước ta đã giới hạn lại những người
được phép mang thai hộ để tránh việc biến tướng của việc mang thai hộ mất đi
giá trị nhân văn vốn có của quy định này. Một người không quen biết mà họ
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

14



Khóa luận tốt nghiệp 2016

nhận giúp thì rõ ràng không phải vì sự chia sẻ, giúp đỡ, đa phần họ nhận giúp vì lợi
ích kinh tế hoặc một lợi ích khác. Người thân thích cùng hàng ở đây là chị hoặc em
của bên vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ gồm chị ruột, em ruột, chị họ, em họ
trong phạm vi ba đời và kể cả có quan hệ nuôi dưỡng. Đối với quy định “cùng
hàng” với vợ hoặc chồng là tránh việc làm đảo lộn thứ bậc, khó phân biệt thứ bậc
gây khó khăn trong xưng hô giữa các thành viên trong gia đình, họ hàng, quy định
này cũng hạn chế đối tượng được phép thực hiện mang thai hộ.
Điểm b, Khoản 3, Điều 95 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy
định “người được nhờ mang thai hộ đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ
một lần”. Quy định này dành cho người phụ nữ muốn mang thai hộ thì hộ phải đã
từng sinh con, không giới hạn số lần sinh con mà chỉ cần đáp ứng được yêu cầu là
đã từng sinh con là đủ. Việc quy định “người mang thai hộ đã từng sinh con” là
nhằm bảo vệ cho người mang thai hộ và đứa trẻ được mang thai vì ông cha ta nói
là đã từng sinh con thì có kinh nghiệm hơn người chưa mang thai trong việc mang
thai và sinh ra đứa trẻ hạn chế những rũi ro có thể xảy ra trong quá trình mang thai
hộ. Người mang thai hộ này “chỉ được mang thai hộ một lần”, quy định này nhằm
bảo vệ sức khỏe cho người mang thai hộ và đồng thời còn có nhiệm vụ là hạn chế
việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bị biến tướng thành mang thai hộ vì mục
đích thương mại, việc chỉ được mang thai hộ một lần thì tránh người phụ nữ
mang thai hộ có thể sống bằng nghề “cho thuê tử cung”, từ đó vấn đề thương
mại hóa sẽ được ngăn chặn.
Điểm c, Khoản 3, Điều 95 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy
định “người mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế
có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ”. Sau khi thụ tinh trong ống nghiệm tạo
phôi, phôi sẽ được cấy vào tử cung của người mang thai hộ cho nên có thể hiểu
rằng người mang thai hộ là người nhận phôi. Theo Điều 8 của Nghị định
12/2003/NĐ – CP về sinh con theo phương pháp khoa học quy định người nhận

phôi phải ở độ tuổi “từ đủ 20 tuổi đến 45 tuổi và có đủ sức khỏe để thụ thai,
mang thai và sinh đẻ, không mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục,
HIV/AIDS, bệnh tâm thần, bệnh truyền nhiễm hay các bệnh di truyền khác”. Trong
Nghị thay thế cho Nghị định 12/2003/NĐ – CP thì không có quy định độ tuổi dành
cho người nhận phôi. Ở đây độ tuổi phù hợp là độ tuổi mà cơ thể mà người phụ nữ
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

15


Khóa luận tốt nghiệp 2016

mang thai thích hợp nhất, ít nguy hiểm cho người mang thai hộ và phải có giấy xác
nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền đã kiểm tra và xem xét khả năng mang thai
của người này, ví dụ người này không mắc các bệnh lý mà khi mang thai sẽ gặp
nguy hiểm. Quy định này bảo vệ tuyệt đối cho người mang thai hộ, tránh những hậu
quả đáng tiếc khi mà người phụ nữ mang thai hộ mà cơ thể của họ không cho phép
việc này thì người phụ nữ này cũng không được mang thai hộ.
Điểm d, Khoản 3, Điều 95 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy
định “trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng
văn bản của người chồng”. Quy định này nhằm thể hiện sự thống nhất giữa vợ
chồng người mang thai hộ, tránh những rắc rối xảy khi mà người chồng không
cho vợ mình mang thai mà người vợ vẫn mang thai hộ, tránh những rạn nứt trong
tình cảm vợ chồng. Sự đồng ý của người chồng phải được thể hiện bằng văn bản
mới được công nhận là điều kiện hợp pháp.
1.3.2 Điều kiện đối với người nhờ mang thai hộ
Điểm a, Khoản 2, Điều 95 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy
định “có giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không
thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”. Tổ chức
y tế có thẩm quyền xác nhận người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả

khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đó là các cơ sở khám, chữa bệnh đủ điều kiện
thụ tinh trong ống nghiệm. Trong Dự thảo 03 của chính phủ quy định về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ tại Điều 8 thì các cơ sở
có đủ điều kiện thụ tinh trong ống nghiệm là các cơ sở phụ sản, sản - nhi của
Nhà nước từ tuyến tỉnh trở lên; Bệnh viện đa khoa tư nhân có khoa sản, khoa sản nhi; Bệnh viện chuyên khoa phụ sản, chuyên khoa sản-nhi tư nhân; Bệnh viện
chuyên khoa nam học và được Bộ Y tế công nhận đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm. Điều kiện này đặt ra thì việc áp dụng biện pháp mang
thai hộ xảy ra khi người phụ nữ nhờ mang thai hộ không thể mang thai và sinh
con dù họ đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản, đối với họ mang thai hộ là
biện pháp cuối cùng có con. Người này không thể mang thai và sinh con phải do tổ
chức y tế có thẩm quyền đã xác nhận, khi họ không thể mang thai bình thường như
những người phụ nữ khác thì khi đến bệnh viện hay các tổ chức y tế được khám,
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

16


Khóa luận tốt nghiệp 2016

kiểm tra về khả năng mang thai và sinh con của người này và được các tổ chức y tế
này xác nhận biện pháp cuối cùng để có con đối với họ chỉ còn cách mang thai hộ
thì người này mới được nhờ mang thai hộ. Tại Dự thảo 03 của chính phủ cũng đưa
ra hai phương án đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đủ điều kiện thực hiện
mang thai hộ phướng án thứ nhất là “tùy từng thời kỳ, Bộ trưởng Bộ Y tế lựa chọn
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã được Bộ Y tế công nhận đủ điều kiện thực hiện kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm để quyết định cho phép thực hiện mang thai hộ.
Phương án thứ hai “là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã được Bộ Y tế công nhận
đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm”. Mỗi phương án đưa
ra đều có thuận lợi, mặt ưu điểm của nó. Phương án thứ hai có ưu điểm là tạo sự
thuận lợi cho các việc đi lại, giảm chi phí,… Nhưng theo tác giả thì nên chọn

phương án thứ nhất vì tỷ lệ thực hiện mang thai hộ đáp ứng đủ điều kiện mà quy
định của pháp luật đặt ra thì không có nhiều và mang thai hộ là vấn đề mới và
phức tạp ở trong bước đầu triển khai một kỹ thuật tương đối phức tạp về mặt
pháp lý thì chúng ta nên giới hạn ở ba địa điểm bệnh viện Phụ sản trung ương,
bệnh viện Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh, bệnh viện Đa khoa trung
ương Huế trong quá trình triển khai có những bất cập xảy ra thì chúng ta dễ quản lý
và hoàn thiện bất cập sau đó mới triển khai rộng khắp cho các cơ sở nào có đủ điều
kiện thực hiện mang thai hộ trong cả nước.
Điểm b, Khoản 2, Điều 95 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy
định “vợ chồng đang không có con chung”. Con chung được hiểu theo khoản 1,
Điều 88 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 là “con chung trong thời kỳ
hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân là con chung của vợ
chồng”. Quy định đặt ra điều kiện này thì những cặp vợ chồng đã có con chung
với nhau nhưng muốn có thêm đứa con nữa nhưng người vợ không thể mang
thai và sinh con được họ muốn nhờ người mang thai hộ thì nhà nước ta không cho
phép vì việc quy định mang thai hộ vào trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014 là để cho các cặp vợ chồng không có con mà họ có nguyện vọng có con, quy
định mang thai hộ đáp ứng nguyện vọng cho những người không có con để thỏa
khát khao có con của họ chứ không dành cho những cặp vợ chồng đã có con
nhưng lại muốn có thêm đứa con nữa.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

17


Khóa luận tốt nghiệp 2016

1.3.3 Điều kiện cơ sở y tế được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích đạo
Điều kiện cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo là:
Có ít nhất 01 (một) năm kinh nghiệm thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm và tổng số chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm trong năm tối thiểu là 300 ca;
Chưa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh liên quan đến
thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm;
Đáp ứng nhu cầu và bảo đảm thuận lợi cho người dân.
Hiện nay, chỉ có 03 cơ sở y tế đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo quy định tại Nghị định 10 năm 2015 quy định về sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
đó là: bệnh viện Phụ sản trung ương; bệnh viện Đa khoa trung ương Huế; bệnh viện
Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, các cơ sở y tế phải đáp ứng yêu cầu sau theo quy định tại Thông tư
57/2015 – TT/BYT quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP
về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và nhân sự của cơ sở y tế.
Thứ nhất, quy định về cơ sở vật chất của cơ sở được thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm như sau: “Có bộ phận chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng, hồi sức
cấp cứu, xét nghiệm nội tiết sinh sản có thể cung cấp kết quả trong ngày. Có đơn
nguyên riêng cho việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm diện tích tối
thiểu là 500m2 (kể cả lối đi) và các phòng sau đây: Tiếp đón bệnh nhân; Khám nam,
nữ; Chọc hút noãn; Lấy tinh trùng; Lab nuôi cấy; Siêu âm; Xét nghiệm và lọc rửa
tinh trùng đáp ứng các tiêu chuẩn theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới”.
Thứ hai, quy định về trang thiết bị y tế của cơ sở được thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm, phải có đủ các trang thiết bị y tế tối thiểu sau đây: Tủ cấy
CO2 (02 cái); Tủ ấm (03 cái); Bình trữ tinh trùng (01 cái); Máy ly tâm (01 cái); Tủ
lạnh (01 cái); Tủ sấy (01 cái); Bình trữ phôi đông lạnh (01 cái); Máy siêu âm có đầu
dò âm đạo (02 cái); Kính hiển vi đảo ngược (01 cái); Kính hiển vi soi nổi (02 cái);
Bộ tủ thao tác (02 bộ).
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái


18


Khóa luận tốt nghiệp 2016

Cuối cùng là quy định về nhân sự của cơ sở được thực hiện kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm. Người trực tiếp thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm phải
đáp ứng các yêu cầu sau đây: “ Có văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận đã được đào tạo
về kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (công nhận chứng nhận, chứng chỉ của cán bộ
thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm nếu được đào tạo ở nước ngoài, tại các
cơ sở đủ tiêu chuẩn, được tổ chức đào tạo như điều kiện ở Việt Nam trở lên); Có xác
nhận đã trực tiếp thực hiện ít nhất 20 (hai mươi) chu kỳ điều trị vô sinh bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm; Có chứng chỉ hành nghề theo quy định của Luật khám
bệnh, chữa bệnh”.
1.3.4 Trình tự, thủ tục của việc mang thai hộ
Theo Nghị định 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28 tháng 01 năm 2015
quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo thì quy định về hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo có nội dung như sau:
Cặp vợ chồng vô sinh gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật
này, gồm:
Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu số 04 ban hành
kèm theo Nghị định này;
Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 05
ban hành kèm theo Nghị định này;
Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào;
Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận;
Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ

tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy
cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể
mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

19


Khóa luận tốt nghiệp 2016

quy định đối với người nhận phôi và đã từng sinh con;
Bản xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người mang thai hộ, người
nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở
các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực
của các giấy tờ này;
Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang
thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ.
Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa;
Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên
khoa tâm lý trở lên;
Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc
người trợ giúp pháp lý;
Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ
mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định tại Mẫu số 06 ban hành kèm theo
Nghị định này.
1.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo
Khi cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, trong điều kiện mang thai

hộ có điều kiện là giữa các bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ sẽ có thỏa
thuận mang thai hộ với nhau. Thỏa thuận ấy thì có một nội dung không thể thiếu đó
là quyền và nghĩa vụ của các bên khi thực hiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
1.4.1 Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ
Quyền của bên mang thai hộ
Việc thực hiện mang thai hộ về bản chất là phục vụ chủ yếu cho nhu cầu và
quyền lợi của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Do đó, luật pháp nước ta có xu hướng
quan tâm và bảo vệ quyền lợi cho người mang thai hộ và đứa trẻ sinh ra.
Quyền của bên mang thai hộ trong quá trình mang thai
Khoản 1, Điều 97 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định “người
mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền như cha, mẹ cho đến khi giao
Sinh viên: Nguyễn Minh Thái

20


×