KHÓA 2010 2014
GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN SINH VIÊN THỰC HIỆN
THS. N
BỘ MÔN: LUẬT THƢƠNG MẠI MSSV: 5105979
LỚP: LUẬT THƢƠNG MẠI 1
KHÓA 36
, tháng 11/2013
lý l
pháp
lý l
pháp
lý l
pháp
Trang
1
1
2
2
2
3
:
4
4
4
4
6
9
9
9
13
14
1.2.2.
14
15
1.2.2.3.
17
19
19
19
20
21
lý l
pháp
:
23
23
23
23
24
26
2.1.2.1. 26
2.1.2.2. 28
29
2.1.4. 30
30
31
32
35
37
2.2
37
38
2.2.2.1. K 38
39
:
41
41
41
43
43
46
47
lý l
pháp
47
49
50
51
53
………………………………………………………………………………… 53
54
55
55
56
57
pháp
Trang 1
Trọng tài thƣơng mại không phải là một hình thức giải quyết tranh chấp mới xuất hiện
trong nền kinh tế Việt Nam. Từ những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, trọng tài đã
xuất hiện dƣới tên gọi “trọng tài kinh tế”. Tuy nhiên, ở nƣớc ta, khái niệm trọng tài thƣơng
mại vẫn là một khái niệm xa lạ. Số vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra Trung tâm trọng tài thƣơng
mại khá ít. Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Phải thẳng thắn nhìn
nhận rằng, trọng tài thƣơng mại chƣa nhận đƣợc sự đánh giá cao từ giới doanh nhân Việt
Nam. Theo khảo sát của Bộ Tƣ pháp, phƣơng thức giải quyết tranh chấp mà họ ƣu tiên chọn
lựa là thƣơng lƣợng (57,8%), Toà án (46,8%), hoà giải (22,8%) và cuối cùng là trọng tài
(16,9%)
1
. Có một số nguyên nhân nhƣ: doanh nghiệp chƣa tin tƣởng trọng tài, hoặc chƣa
biết đến phƣơng thức này; hệ thống tổ chức trọng tài thƣơng mại hiện nay còn khá thƣa thớt
với chƣa đến mƣời trung tâm trọng tài (cụ thể là 9 trung tâm) và không phải trung tâm nào
cũng hoạt động hiệu quả; đội ngũ trọng tài viên với số lƣợng hạn chế và một số nguyên nhân
khác. Trong đó, không thể không kể đến nguyên nhân xuất phát từ bản chất của trọng tài.
Trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực kinh doanh thƣơng mại. Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nƣớc
nhƣ toà án. Do vậy, khi giải quyết tranh chấp, trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nƣớc
mà nhân danh công bằng, lẽ phải, nhân danh công lý để ra các phán quyết. Hoạt động trọng
tài mang tính “quyền lực tƣ” nhiều hơn. Chính vì vậy, khi giải quyết tranh chấp, nhiều khi
trọng tài gặp khó khăn. Ví dụ, khi phán quyết trọng tài không đƣợc một bên tự nguyện thi
hành thì trung tâm trọng tài không có thẩm quyền cƣỡng chế thi hành phán quyết đó. Do đó,
sự hỗ trợ của các cơ quan tƣ pháp đối với hoạt động trọng tài là hết sức cần thiết. Giải quyết
tranh chấp bằng hình thức trọng tài thƣơng mại đang đƣợc khuyến khích. Bởi lẽ, đây là
phƣơng án vừa tiết kiệm thời gian (do thủ tục đơn giản hơn giải quyết tại tòa án) vừa hiệu
quả, lại bảo đảm đƣợc bí mật kinh doanh và giữ uy tín cho các doanh nghiệp (xuất phát từ
nguyên tắc xét xử không công khai của trọng tài thƣơng mại).
1
Theo trang thông tin điện tử: Trọng tài thƣơng mại: Quá trình hội nhập và phát triển
[ngày truy cập 02-8-2013]
pháp
Trang 2
Nghiên cứu những quy định của pháp luật về trọng tài thƣơng mại nhằm tìm ra những
nhƣợc điểm và đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn thiện là một vấn đề cấp thiết, để hoạt động trọng
tài mang lại hiểu quả tối ƣu nhất, góp phần quan trọng giảm tải công việc cho các tòa án. Vì
những lý do trên, ngƣời viết quyết định chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ
trợ tƣ pháp đối với hoạt động của trọng tài thƣơng mại” để làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn tốt nghiệp của mình.
Do còn nhiều hạn chế về tài liệu cũng nhƣ thời gian làm đề tài, nên ngƣời viết chỉ tập
trung nghiên cứu các quy định của pháp luật xoay quanh vấn đề về sự hỗ trợ của các cơ quan
tƣ pháp đối với hoạt động của trọng tài thƣơng mại trong việc giải quyết tranh chấp.
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật về sự hỗ
trợ của các cơ quan tƣ pháp đối với hoạt động của trọng tài thƣơng mại. Qua việc làm sáng
tỏ các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời chỉ ra những vấn đề bất cập trong luật
cũng nhƣ thực tế khi áp dụng luật về hỗ trợ tƣ pháp đối với hoạt động của trọng tài thƣơng
mại. Từ đó, đƣa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về hỗ trợ tƣ pháp
đối với hoạt động của trọng tài thƣơng mại.
Để hoàn thành đề tài của mình, trong quá trình thực hiện ngƣời viết sử dụng các
phƣơng pháp nhƣ:
Phƣơng pháp lịch sử nhằm khái quát quá trình hình thành và phát triển của trọng tài
thƣơng mại
Phƣơng pháp tổng hợp tài liệu, so sánh, liệt kê, phân tích nhằm trình bày, làm rõ những
quy định của pháp luật về hỗ trợ tƣ pháp đối với hoạt động của trọng tài thƣơng mại.
Phƣơng pháp phân tích luật viết, cụ thể là phƣơng pháp phân tích câu chữ nhằm chỉ ra
những điểm bất cập trong quy định của pháp luật để đề ra phƣơng hƣớng hoàn thiện.
Kết hợp với nghiên cứu và phân tích sách báo, tạp chí luật học, trang thông tin điện tử
để tìm hiểu những quy định của pháp luật về hỗ trợ tƣ pháp đối với hoạt động của trọng tài
thƣơng mại.
pháp
Trang 3
Đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tƣ pháp đối với hoạt động của trọng
tài thƣơng mại” ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục thì gồm
có 3 chƣơng:
-
. Chƣơng này đƣa ra cái
nhìn khái quát về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thƣơng mại và sự cần thiết của hỗ trợ
tƣ pháp đối với hoạt động của trọng tài thƣơng mại.
-
Chƣơng này nêu lên những quy định của pháp luật về hỗ trợ tƣ pháp của cơ
quan tƣ pháp (tòa án và cơ quan thi hành án) đối với hoạt động của trọng tài thƣơng mại.
- T
Chƣơng này nêu lên một số thực tiễn
trong viêc áp dụng Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010. Đồng thời, đƣa ra một số giải pháp
nâng cao vai trò của trọng tài thƣơng mại trong việc giải quyết tranh chấp.
pháp
Trang 4
C 1
I
Trọng tài thƣơng mại là hình thức giải quyết tranh chấp đƣợc áp dụng nếu trƣớc
hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài. Trọng tài là bên trung gian
thứ ba đƣợc các bên tranh chấp chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất
đồng giữa họ trên cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt giữa các bên. Cũng có thể hiểu đây
là hình thức tài phán mà quyền lực của nó đƣợc tạo nên bởi chính các bên trong quan hệ
tranh chấp thông qua thỏa thuận trọng tài.
Theo Khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại năm 2003: “Trọng tài là
phƣơng thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thƣơng mại đƣợc các bên
thỏa thuận và đƣợc tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định.”
Còn trong Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010 tại Khoản 1 Điều 3: “Trọng tài
thƣơng mại là phƣơng thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và đƣợc tiến hành
theo quy định của Luật này.”
Nhƣ vậy, theo quy định của Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010 thì khái niệm trọng
tài thƣơng mại đƣợc hiểu theo nghĩa rộng hơn, không chỉ dừng lại ở việc giải quyết “các
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thƣơng mại” nhƣ trong Pháp lệnh trọng tài thƣơng
mại mà trọng tài cũng giải quyết các tranh chấp khác nếu nhƣ các bên có thỏa thuận và
thỏa mãn các điều kiện đƣợc quy định tại Điều 5 Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010.
Tóm lại, có thể nhìn nhận trọng tài thƣơng mại với hai tƣ cách: là phƣơng thức giải
quyết tranh chấp và là cơ quan giải quyết tranh chấp.
Với tƣ cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thƣơng mại, trọng tài có những đặc điểm sau:
, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba,
là một trọng tài viên duy nhất hay Hội đồng trọng tài. Trọng tài do các bên tranh chấp
thỏa thuận lựa chọn trƣớc hoặc sau khi xảy ra tranh chấp sẽ hoàn toàn độc lập với các
bên, đƣa ra phán quyết có tính bắt buộc bảo vệ quyền lợi các bên và đảm bảo sự công
pháp
Trang 5
bằng với tƣ cách là “ngƣời cầm cân nảy mực”, không bên vực hay nghiêng lý lẽ về bên
nào.
, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng
chặt chẽ. Đối với trọng tài thƣờng trực, trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài
viên và các bên tranh chấp phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, điều
lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định. Còn đối với trọng tài vụ việc, các
bên có thể thỏa thuận thủ tục tố tụng riêng. Ngoài ra, các trọng tài viên và các bên cũng
phải tuân thủ đúng thủ tục tố tụng trọng tài mà mình đặt ra.
, kết quả giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên
bố với các bên đƣơng sự của vụ tranh chấp. Phán quyết của trọng tài mang tính chung
thẩm, vừa kết hợp yếu tố thỏa thuận (các bên đƣơng sự có thể thỏa thuận về trình tự thủ
tục giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với các cụ tranh chấp ), vừa kết hợp yếu tố tài
phán (có giá trị bắt buộc với các bên).
Với tƣ cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thƣơng mại, trọng tài có những đặc điểm sau:
, trọng tài là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp do các trọng tài viên tự
thành lập nên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thƣơng mại.
Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nƣớc, không do Nhà nƣớc thành lập,
không hoạt động bằng ngân sách của Nhà nƣớc. Các trọng tài viên không phải là viên
chức Nhà nƣớc, không do Nhà nƣớc bổ nhiệm và cũng không hƣởng lƣơng từ ngân sách
Nhà nƣớc. Do đó, khi xét xử, trọng tài không nhân danh Nhà nƣớc để ra phán quyết, càng
không chịu sự quản lý, giám sát của Nhà nƣớc. Nhà nƣớc không can thiệp sâu vào các
hoạt động của trọng tài, nhƣng sẽ thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua hệ thống
các quy định pháp luật, cũng nhƣ những tác động khác nhƣ tham gia điều ƣớc quốc tế,
đào tạo, hỗ trợ kinh phí và cơ sở vật chất…
quyền lực của trọng tài xuất phát từ sự thỏa thuận của các bên chủ thể
tranh chấp đối với trọng tài. Trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải
quyết vụ tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa thuận lựa chọn giải quyết bằng trọng
tài thƣơng mại. Nếu không có thoả thuận trọng tài trƣớc hoặc sau khi xảy ra tranh chấp
về việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình hoặc có nhƣng thỏa thuận trọng
tài vô hiệu thì trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Chính các chủ thể tranh chấp,
với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình đã trao quyền lực xét xử cho
trọng tài. Nói cách khác, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhân danh ý chí tối cao của
chủ thể tranh chấp chứ không nhân danh quyền lực Nhà nƣớc.
pháp
Trang 6
, phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp ý chí, sự thỏa thuận giữa các bên,
vừa mang tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên, do trọng tài không
phải là cơ quan xét xử của Nhà nƣớc nhƣ tòa án nên phán quyết của trọng tài không mang
tính quyền lực Nhà nƣớc. Phán quyết trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên
tranh chấp mà không có giá trị ràng buộc đối với bên thứ ba. Ngay cả khi có một bên
tranh chấp không tôn trọng phán quyết, không tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài thì
trọng tài cũng không có cơ sở pháp lý nào để căn cứ cƣỡng chế thi hành. Phán quyết
trọng tài đƣợc thi hành trên cơ sở tự nguyện của các bên hoặc nhờ đến sự hỗ trợ của cơ
quan Nhà nƣớc để cƣỡng chế thi hành.
, phán quyết của trọng tài thƣơng mại có giá trị chung thẩm và không thể
kháng cáo trƣớc bất kì cơ quan, tổ chức nào. Trọng tài chỉ xét xử một lần và phán quyết
có giá trị chung thẩm. Nếu không bị hủy thì phán quyết đƣợc chuyển sang ngay cơ quan
thi hành án. Đó chính là lý do doanh nghiệp thƣờng lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài vì tranh chấp đƣợc giải quyết rất nhanh chóng. Hai bên có thể thỏa thuận yêu
cầu trọng tài giải quyết trong một vài tháng, còn nếu đƣa ra tòa án thời gian có thể hơn
nhiều lần.
Nhƣ vậy, với tƣ cách là một cơ quan tài phán, trọng tài tồn tại độc lập, song song
với tòa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi đƣợc các chủ thể tranh chấp
lựa chọn.
Kể cả khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài từ trƣớc hay khi tranh chấp đã phát sinh
và các bên quyết định sẽ đƣa tranh chấp giải quyết tại trọng tài, việc đầu tiên phải thống
nhất là hình thức trọng tài đƣợc lựa chọn. Các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận
sử dụng hình thức trọng tài vụ việc hoặc trọng tài thƣờng trực.
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài đƣơc lập ra theo yêu cầu của các đƣơng sự
để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể. Hình thức trọng tài này chỉ tồn tại và hoạt động
trong thời gian giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên. Trọng tài sẽ tự giải thể khi giải
quyết xong vụ tranh chấp đó.
Trọng tài vụ việc chỉ tồn tại với tính chất lâm thời, không có trụ sở thƣờng trực,
không có bộ máy điều hành cố định và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài
viên đƣợc các bên lựa chọn hoặc chỉ định có thể là ngƣời có tên trong danh sách trọng tài
viên hoặc không nằm trong danh sách trọng tài viên của bất kỳ trung tâm trọng tài nào.
Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng riêng cho mình mà quy tắc tố tụng để
giải quyết vụ tranh chấp đƣợc các bên thỏa thuận xây dựng. Tuy nhiên, nhằm tránh lãng
pháp
Trang 7
phí thời gian và công sức để xây dựng quy tắc tố tụng cho mình, các bên tranh chấp có
thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố tụng nào. Thông thƣờng các doanh nghiệp
thƣờng lựa chọn các quy tắc tố tụng của các Trung tâm trọng tài có uy tín trong nƣớc
cũng nhƣ nƣớc ngoài.
Khi tiến hành xét xử, hội đồng trọng tài không bị lệ thuộc vào bất kì quy tắc tố tụng
nào. Tuy nhiên phải đảm bảo nguyên tắc xét xử khách quan, vô tƣ và đúng pháp luật.
Hoạt động của trọng tài vụ việc rất linh hoạt, phù hợp với những tranh chấp đơn giản.
Trọng tài viên do các đƣơng sự thỏa thuận lựa chọn không bị giới hạn bởi các trọng tài
viên sẵn có. Thông thƣờng trọng tài viên đƣợc chọn có thể là các thƣơng gia có tu nghiệp
pháp lí hoặc các luật sƣ làm việc cho các công ty.
Ƣu điểm của trọng tài vụ việc là giải quyết vụ tranh chấp đƣợc giải quyết trong thời
gian nhanh và chi phí cho tố tụng trọng tài thấp do việc thành lập dễ dàng và quy tắc hoạt
động đơn giản. Trọng tài vụ việc thƣờng đƣợc thành lập khi tranh chấp đã xảy ra cho nên
thƣờng phù hợp với tính chất, điều kiện cụ thể của tranh chấp và quyền tự định đoạt của
các bên cũng lớn hơn. Tuy nhiên, trọng tài vụ việc cũng có những hạn chế nhất định. Hạn
chế lớn nhất là phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên. Nếu một bên không
có thiện chí, quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì hoãn và nhiều khi không thể thành
lập đƣợc Hội đồng Trọng tài bởi vì không có quy tắc tố tụng nào đƣợc áp dụng. Mặt
khác, do tính không ổn định và không có quy chế hoạt động chặt chẽ nên hiệu quả giải
quyết các vụ tranh chấp không cao.
)
Ở các nƣớc trên thế giới, trọng tài quy chế thƣờng đƣợc tổ chức dƣới những hình
thức đa dạng nhƣ: các trung tâm trọng tài (Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông, Trung
tâm trọng tài quốc tế Singapore), các hiệp hội trọng tài (Hiệp hội trọng tài Nhật Bản,
Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ)
2
hay các viện trọng tài (Viện trọng tài Stockholm – Thụy
Điển) nhƣng chủ yếu là đƣợc tổ chức dƣới dạng các trung tâm trọng tài.
Khác với trọng tài vụ việc, trọng tài quy chế luôn tồn tại không phụ thuộc vào vụ
tranh chấp của các bên. Trọng tài thƣờng trực có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoạt động
thƣờng xuyên, có trụ sở cố định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ
riêng.
Với tƣ cách là cơ quan tài phán thƣơng mại trọng tài quy chế có một số đặc trƣng
sau đây:
2
Theo trang thông tin điện tử: Giải quyết tranh chấp thƣơng mại
/>th%C6%B0%C6%A1ng-m%E1%BA%A1i?p=11#.UhTqUZJ7LNI, [ngày truy cập 02-08-2013]
pháp
Trang 8
, trung tâm trọng tài là các tổ chức phi Chính phủ, không nằm trong hệ
thống cơ quan Nhà nƣớc. Các trung tâm trọng tài đƣợc thành lập theo quyết định của các
trọng tài viên sau khi đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cho phép chứ không phải
đƣợc thành lập bởi cơ quan Nhà nƣớc. Do đó, chúng không nằm trong hệ thống cơ quan
quản lí nhà nƣớc cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nƣớc. Hoạt động của
các trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không đƣợc cấp kinh phí từ ngân
sách Nhà nƣớc. Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền
lực nhà nƣớc mà nhân danh ngƣời thứ ba độc lập ra phán quyết. Đây chính là sự khác biệt
cơ bản giữa trung tâm trọng tài với tòa án và trọng tài kinh tế Nhà nƣớc trƣớc đây.
, các trung tâm trọng tài có tƣ cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.
Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên cấp dƣới.
, tổ chức và quản lí ở trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của
trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm. Cụ thể,
trung tâm trọng tài có ban điều hành bao gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch và
có thể có tổng thƣ kí do các chủ tịch trung tâm trọng tài cử ra. Các trọng tài viên trong
danh sách trung tâm trọng tài có thể tham gia vào việc giải quyết tranh chấp khi đƣợc
chọn hoặc chỉ định và hƣởng lƣơng theo vụ việc. Nguồn thu chủ yếu của trung tâm trọng
tài là từ lệ phí trọng tài khi đƣợc yêu cầu giải quyết tranh chấp.
, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và các quy tắc
tố tụng riêng trên cơ sở những quy định của pháp luật trọng tài. Việc xây dựng quy tắc tố
tụng của các trung tâm trọng tài thƣờng dựa trên cơ sở một bản quy tắc tố tụng trọng tài
hay một số công ƣớc quốc tế có liên quan cũng nhƣ bản quy tắc tố tụng của một số trung
tâm trọng tài quốc tế có uy tín.
, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài đƣợc tiến hành bởi các trọng tài
viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp
chỉ đƣợc giới hạn trong danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy, hoạt động xét xử
của trung tâm trọng tài chỉ đƣợc tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm đó.
Nhƣ vậy, so với trọng tài vụ việc, trọng tài quy chế có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có
trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên, Điều lệ hoạt động và quy tắc tố tụng riêng.
Trọng tài quy chế đƣợc điều hành bởi các trọng tài viên là các chuyên gia giàu kinh
nghiệm và vững vàng về chuyên môn. Do đó, có thể hạn chế tối đa các sai sót có thể xảy
ra. Tuy nhiên, trọng tài quy chế cũng có những hạn chế nhất định nhƣ chi phí trọng tài
cao hơn so với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc; quy tắc tố tụng đƣợc quy
định sẵn nên đôi khi không phù hợp với từng vụ tranh chấp cụ thể; trọng tài viên là
những ngƣời đƣợc quy định sẵn trong danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài nên
pháp
Trang 9
các chủ thể tham gia tranh chấp không thể lựa chọn một trọng tài viên ở ngoài. Vì thế đã
phần nào hạn chế quyền tự định đoạt của đƣơng sự.
Tóm lại, trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế là hai hình thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài đƣợc sử dụng phổ biến. Mỗi hình thức đều tồn tại những ƣu điểm và hạn
chế nhất định bắt nguồn từ chính bản chất của nó. Tùy từng vụ tranh chấp cụ thể, các bên
tranh chấp có thể lựa chọn hình thức trọng tài nào là thực sự phù hợp để giải quyết tranh
chấp cho mình.
Giai đoạn trƣớc khi có Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại năm 2003
Trong lịch sử pháp luật dân sự Việt Nam, trọng tài đã đƣợc biết đến nhƣ là một bộ
phận của các thiết chế giải quyết các tranh chấp thƣơng mại bởi sự hiện diện các tòa án
thƣơng mại và các quy tắc trọng tài trong luật tố tụng dân sự ở nƣớc ta vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, do nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau, khái niệm trọng
tài chƣa đƣợc biết đến một cách phổ biến ở Việt Nam
3
. Từ những năm đầu thập niên 60
của thế kỷ XX, trọng tài đƣợc biết đến dƣới tên gọi trọng tài kinh tế.
Trọng tài kinh tế xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời của chế độ hợp đồng
kinh tế. Ngày 14/11/1960, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/TTg về Tổ
chức Trọng tài kinh tế Nhà nƣớc.
Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Trung tâm Trọng tài kinh tế cũng đã đƣợc ban
hành kèm theo Nghị định số 75-CP ngày 14/04/1975.
Tiếp theo đó, Nghị định số 24/HĐBT ngày 10/08/1981 của Hội đồng Bộ trƣởng,
Hội đồng Trọng tài kinh tế đƣợc thống nhất tên gọi là Trọng tài kinh tế, ngạch Trọng tài
viên đƣợc xác lập.
Ngày 17/04/1984, Hội đồng Bộ trƣởng đã ban hành Nghị định số 62/HĐBT quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Trọng tài kinh tế bộ, tỉnh,
huyện.
3
Đào Trí Úc – Những vấn đề cơ bản của Luật trọng tài thƣơng mại, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật Số 1/2010, trang
7
pháp
Trang 10
Ngày 10/01/1990, Hội đồng Nhà nƣớc ban hành Pháp lệnh về Trọng tài kinh tế quy
định tổ chức, phân cấp thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế.
Nhƣ vậy, Trọng tài kinh tế là cơ quan thuộc hệ thống cơ quan chấp hành và điều
hành của Nhà nƣớc (Hội đồng Bộ trƣởng, Uỷ ban nhân dân các cấp), có chức năng quản
lý nhà nƣớc đối với công tác hợp đồng kinh tế. Nét đặc thù của Trọng tài kinh tế thể hiện
ở chỗ, hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế cũng chính là
phƣơng tiện để đạt đƣợc mục đích trực tiếp điều hành, tổ chức các quan hệ kinh tế.
Bên cạnh trọng tài kinh tế nhà nƣớc, vào giai đoạn này ở Việt Nam còn tồn tại trọng
tài phi chính phủ. Năm 1963, Hội đồng trọng tài ngoại thƣơng ra đời. Hội đồng trọng tài
ngoại thƣơng đƣợc thành lập với chức năng xét xử những tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng ngoại thƣơng với một pháp nhân hay thể nhân nƣớc ngoài. Tiếp sau đó là sự ra đời
của Hội đồng trọng tài hàng hải năm 1964. Hội đồng hàng hải có chức năng xét xử những
tranh chấp phát sinh từ vận tải biển quốc tế liên quan đến một bên nƣớc ngoài.
Khi đất nƣớc chuyển sang cơ chế kinh tế mới thì Trọng tài kinh tế với chức năng là
một cơ quan có chức năng quản lý Nhà nƣớc tỏ ra không còn phù hợp. Sự phát triển đa
dạng các loại hình kinh tế cùng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế có hình thức
sở hữu khác nhau dẫn đến sự thay đổi cả về hình thức, tính chất của tranh chấp và đi liền
với nó là nội dung tranh chấp. Do vậy, phƣơng thức giải quyết tranh chấp kinh tế cũng
đòi hỏi phải đổi mới. Chính vì thế, từ ngày 28/12/1993, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế chuyên trách đƣợc hình thành trong
hệ thống Tòa án nhân dân với chức năng giải quyết các vụ tranh chấp kinh tế. Đồng thời,
hệ thống trọng tài kinh tế đƣợc giải thể.
Trƣớc những đòi hỏi khách quan về đa dạng hoá các hình thức và phƣơng thức giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh phù hợp với đặc điểm của cơ chế thị trƣờng, cũng nhƣ
góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế, ngày 05/09/1994, Chính phủ đa ban hành
Nghị định số 116-CP về tổ chức và hoạt động của các Trung tâm Trọng tài kinh tế. Theo
các quy định của Nghị định này, cụ thể tại Điều 1, thì “Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội
- nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh
chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với
nhau, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh chấp liên quan
đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu”. Trọng tài kinh tế hoàn toàn đƣợc tách rời với
chức năng quản lý Nhà nƣớc nhƣ trƣớc đây.
Nhƣ vậy, tính đến thời điểm này tồn tại 2 mô hình trọng tài phi chính phủ, hoạt
động theo 2 văn bản khác nhau. Cụ thể, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài
Ngoại thƣơng và Hội đồng trọng tài hàng hải) hoạt động theo Quyết định số 204/TTg.
pháp
Trang 11
Đồng thời cũng có 5 trung tâm trọng tài đƣợc thành lập theo Nghị định 116/CP. Các
trung tâm này chỉ chịu sự điều chỉnh của Nghị định 116/CP.
Các văn bản pháp luật nêu trên đều có hiệu lực pháp lý thấp, nội dung văn bản còn
có nhiều điểm bất cập, thiếu đồng bộ và chƣa có cơ chế đảm bảo cần thiết để trọng tài
đƣợc vận hành có hiệu quả, khiến các doanh nghiệp không tin tƣởng lựa chọn trọng tài để
giải quyết tranh chấp.
Giai đoạn từ khi Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại năm 2003 có hiệu lực
Sau gần 10 năm thực hiện Nghị định 116-CP, đã có 6 Trung tâm trọng tài đƣợc
thành lập với hơn 130 trọng tài viên. Các trung tâm trọng tài đã thể hiện những vai trò
nhất định trong giải quyết các tranh chấp thƣơng mại. Tuy nhiên, đánh giá một cách
khách quan và khái quát thì trọng tài chƣa thể hiện đƣợc vai trò của mình với chức năng
là một cơ quan tài phán có vai trò hỗ trợ đắc lực cho Toà án trong việc giải quyết tranh
chấp. Đồng thời, qua quá trình hoạt động, các trung tâm này cũng đã thể hiện những bất
cập của pháp luật Việt Nam nhƣ: điều chỉnh không toàn diện, thiếu các quy định cụ thể,
một số nội dung lạc hậu không phù hợp với thực tiễn và các quy định của pháp luật thế
giới. Đặc biệt trong giai đoạn này, hình thức trọng tài vụ việc chƣa đƣợc quy định.
Nhằm khắc phục những hạn chế trên, đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài ngày càng tăng cũng nhƣ phù hợp với xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế, ngày
25/03/2003 Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 08/2003/PL-
UBTVQH về trọng tài thƣơng mại và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2003. Sự ra đời của
pháp lệnh đã đánh dấu một bƣớc phát triển mới của pháp luật nƣớc ta về trọng tài thƣơng
mại. Nếu trƣớc đây hoạt động Trọng tài đƣợc điều chỉnh tản mạn bằng các văn bản của
Chính phủ nhƣ Nghị định 116-CP ngày 5-9-1994, Nghị định số 204-TTG ngày 28-4-
1993, Quyết định 114-TTG ngày 16-2-1996 hoặc trong một số các luật nhƣ Bộ luật hàng
hải Việt nam 1990, Luật thƣơng mại 1997 thì nay Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại đã tạo
ra một nền tảng pháp lý thống nhất, có tính ổn định cao điều chỉnh hoạt động trọng tài.
Pháp lệnh đã khắc phục đƣợc những bất cập của những văn bản pháp luật về trọng
tài trƣớc đây. Đồng thời đƣa ra nhiều quy định mới về cơ bản phù hợp với pháp luật và
thông lệ quốc tế nhƣ hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trở
thành trọng tài viên, ghi nhận trọng tài vụ việc, mở rộng một cách đáng kể thẩm quyền
cho Trọng tài ở nƣớc ta so với thẩm quyền của Trọng tài theo Nghị định 116-CP, quy
định đầy đủ, rõ ràng về thoả thuận trọng tài, góp phần chấm dứt tình trạng “lấn quyền của
Toà án đối với trọng tài”, ghi nhận mối quan hệ giữa trọng tài và tòa án bằng một loạt các
quy định cụ thể nhƣ hỗ trợ thi hành thỏa thuận trọng tài, chỉ định trọng tài viên, giải quyết
khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
giải quyết yêu cầu hủy quyết định trọng tài, lƣu trữ hồ sơ trọng tài…
pháp
Trang 12
Pháp lệnh 2003 có những điểm mới tiến bộ nhƣ:
- : Pháp lệnh đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài thƣơng mại với cả
những hoạt động nhƣ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý
thƣơng mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tƣ vấn, kỹ thuật, li – xăng, đầu
tƣ, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển hàng hóa, hành khách
bằng đƣờng biển, hàng không, đƣờng sắt hoặc đƣờng bộ và các hành vi thƣơng mại
khác
4
.
- : Pháp lệnh đã mở rộng cơ hội để có thể trở thành trọng
tài viên là chỉ cần có bằng đại học và có thời gian công tác liên tục từ 5 năm trở lên
5
.
-
: Pháp lệnh đã có quy định về trọng tài vụ việc hay trọng tài
do các bên thành lập
6
.
- : quy định tại khoản 4 Điều 26 của Pháp lệnh cho
phép các bên lựa chọn trọng tài viên hoặc do tòa án chỉ định có thể nằm trong danh sách
của các trung tâm trọng tài tại Việt Nam và đƣợc lựa chọn cả trọng tài nƣớc ngoài (chỉ áp
dụng trong trọng tài vụ việc). Quy định này của Pháp lệnh đã mở rộng quyền lựa chọn
trọng tài viên cho các bên tranh chấp. Điều này giúp họ có thể lựa chọn trọng tài viên
theo đúng với ý chí của mình.
- : trong Pháp lệnh 2003, trọng tài và tòa án
có mối quan hệ chặt chẽ hơn: tòa án giúp các bên lựa chọn trọng tài viên trong trƣờng
hợp cần thiết; tòa án ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp; tòa án giúp trọng tài lƣu
trữ hồ sơ; tòa án có quyền xem xét lại tính hợp pháp của thỏa thuận trọng tài và tòa án có
quyền hủy quyết định trọng tài theo yêu cầu của bên không đồng ý trong trƣờng hợp vi
phạm thủ tục tố tụng trọng tài
7
. Điều này thể hiện sự quan tâm của Nhà nƣớc đối với của
trọng tài qua việc hỗ trợ trọng tài nhiều hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp.
- : theo Điều 57 của Pháp lệnh thì
bên đƣợc thi hành có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cƣ trú
hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành phán quyết trọng tài. Điều này nhằm
tạo lòng tin cho các bên tranh chấp hơn về tính khả thi của phán quyết trọng tài. Do đó,
góp phần nâng cao chất lƣợng cũng nhƣ số lƣợng vụ việc tranh chấp đƣợc giải quyết.
- : theo Pháp lệnh 2003 thì chỉ những địa
phƣơng do chính phủ quy định mới đƣợc thành lập trung tâm trọng tài và Bộ trƣởng Bộ
4
Điều 1 Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003 và Điều 5 Luật thƣơng mại năm 1997
5
Điều 12 Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003
6
Điều 19 Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003
7
Khoản 1 và khoản 3 Điều 26, Điều 33, Điều 48, Điều 30, Điều 50 và Điều 54 Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003
pháp
Trang 13
Tƣ pháp có quyền quyết định thành lập các trung tâm trọng tài theo sự giới thiệu của Hội
luật gia
8
.
Tuy nhiên, bên cạnh những nét ƣu việt nói trên, qua nhiều năm áp dụng, đã có nhiều
quy định của Pháp lệnh bộc lộ những bất cập và không còn phù hợp với tình hình mới
nhƣ: phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, chủ thể của các tranh chấp
đƣợc giải quyết bằng trọng tài, giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài về mặt nội dung và
hình thức, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, việc triệu tập nhân chứng, vấn đề
xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, việc hủy quyết định
trọng tài, vấn đề địa điểm tiến hành trọng tài, cách tính thời hiệu khởi kiện v.v…
Trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thƣơng mại thế giới, đòi hỏi
phải có hệ thống luật pháp tƣơng đồng với các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế. Đặc biệt
là trong lĩnh vực trọng tài thƣơng mại khi Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại năm 2010 đã có
những biểu hiện lỗi thời, không còn phù hợp. Mặt khác, khi kinh tế ngày càng phát triển,
nhu cầu của các chủ thể kinh doanh và các pháp nhân muốn giải quyết vụ việc của mình
một cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả nhằm tiết kiệm tối đa thời gian và tiền
bạc cũng ngày càng tăng trong khi Pháp lệnh năm 2003 chƣa thật sự phát huy hết vai trò
của mình.
Từ những thực trạng trên đã làm nảy sinh nhu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải khắc
phục bằng việc ban hành một đạo luật mới về trọng tài thƣơng mại để thay thế Pháp lệnh
trọng tài thƣơng mại 2003 trên cơ sở kế thừa những chế định tiến bộ, phù hợp với Pháp
lệnh kết hợp với những quy định mới, hoàn chỉnh hơn.
Ngày 17/6/2010, Luật trọng tài thƣơng mại đã đƣợc Quốc hội hội nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua, có hiệu lực ngày 01 tháng 01
năm 2011, thay thế cho Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại năm 2003. Với 13 chƣơng, 82
Điều, Luật trọng tài thƣơng mại đã thể chế hóa một cách đồng bộ cơ chế giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài ở nƣớc ta trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh trọng tài
thƣơng mại năm 2003. Bên cạnh đó, so với Pháp lệnh, Luật trọng tài thƣơng mại có nhiều
quy định mới tiến bộ nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thƣơng mại. Sự ra đời của
Luật trọng tài thƣơng mại đã đánh dấu một bƣớc ngoặc quan trọng trong lịch sử phát triển
của các phƣơng thức giải quyết tranh chấp. Theo đó, những quy định về phƣơng thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thƣơng mại đƣợc nâng lên thành luật với những quy định
8
Điều 14 Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003
pháp
Trang 14
chặt chẽ hơn, phù hợp hơn và có khả năng đƣợc phổ biến hơn. Do đó, cũng phát huy
đƣợc hết vai trò của mình.
Những điểm mới cơ bản của Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010 bao gồm việc mở
rộng thẩm quyền của trọng tài; khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh trọng tài
thƣơng mại năm 2003 về các trƣờng hợp thoả thuận trọng tài; tạo điều kiện để trở thành
trọng tài viên dễ dàng hơn; cho phép các tổ chức trọng tài nƣớc ngoài đƣợc mở chi
nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các
điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên
9
; cho phép Hội đồng trọng tài đƣợc thu thập
chứng cứ
10
, triệu tập nhân chứng
11
, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
12
; hủy bỏ quy
định về quyền của một bên đƣợc gửi đơn lên toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu
“không đồng ý với quyết định trọng tài”
13
, làm hạn chế nguy cơ phán quyết của trọng tài
bị tòa án tuyên hủy.
Đồng thời, Luật cũng đã đƣa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan
hệ pháp lý giữa tòa án và trọng tài thƣơng mại trong quá trình giải quyết tranh chấp. Cụ
thể Điều 7 Luật trọng tài thƣơng mại xác định rõ tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động
trọng tài. Tính xác định và rõ ràng này của Luật sẽ tạo điều kiện để các Toà án và Hội
đồng trọng tài cũng nhƣ các bên tranh chấp tránh đƣợc lúng túng trong các trƣờng hợp cụ
thể. Và đó chính là điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
Tranh chấp thƣơng mại là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy,
giải quyết tranh chấp phát sinh đƣợc coi là đòi hỏi tất yếu trong nền kinh tế. Giải quyết
tranh chấp thƣơng mại chính là việc lựa chọn hình thức, phƣơng pháp hay các hoạt động
để điều chỉnh, giải tỏa những bất đồng, xung đột để khắc phục và loại trừ những mâu
thuẫn phát sinh nhằm tạo lập lại sự cân bằng cũng nhƣ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể kinh doanh.
Trên thế giới nói chung cũng nhƣ ở Việt Nam nói riêng, tồn tại bốn phƣơng thức
giải quyết tranh chấp thƣơng mại, bao gồm: thƣơng lƣợng, hòa giải, tòa án và trọng tài
thƣơng mại. Trong đó, phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thƣơng mại là
9
Khoản 3 Điều 27 Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010
10
Đƣợc quy định tại Điều 47 Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010
11
Đƣợc quy định tại Điều 48 Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010
12
Đƣợc quy định tại Điều 49 Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010
13
Điều 50 Pháp lệnh trọng tài năm 2003
pháp
Trang 15
một phƣơng thức hữu hiệu, đƣợc nhiều doanh nghiệp trên thế giới tin tƣởng lựa chọn và
cũng đang đƣợc Nhà nƣớc ta khuyến khích áp dụng.
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010 thì “Trọng tài thƣơng
mại là phƣơng thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và đƣợc tiến hành theo
quy định của Luật này”. Có thể hiểu, tranh chấp sẽ đƣợc đƣa ra giải quyết tại trọng tài
thƣơng mại nếu trƣớc hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài.
Điều này đồng nghĩa với việc các bên tham gia tranh chấp tự nguyện, gián tiếp trao
quyền lực cho trọng tài để họ làm nhiệm vụ là bên thứ ba trung gian giải quyết mâu thuẫn
trong vụ tranh chấp đó bằng việc đƣa ra một phán quyết có tính chất bắt buộc đối với các
bên tranh chấp.
Nhƣ vậy, giống với phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng thƣơng lƣợng và hòa
giải, trọng tài thƣơng mại cũng không mang ý chí quyền lực Nhà nƣớc. Điều này sẽ làm
cho phƣơng thức này linh hoạt, mềm dẻo về thủ tục và đảm bảo tối đa quyền tự định đoạt
của các bên tranh chấp mà không bị ràng buộc nghiêm ngặt, chặt chẽ nhƣ giải quyết tranh
chấp tại tòa án.
Hiện nay, trọng tài đƣợc xem nhƣ là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp đƣợc ƣa
chuộng nhất. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh thƣơng mại bởi trọng tài không những
khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm của các phƣơng thức giải quyết tranh chấp nhƣ
thƣơng lƣợng, hòa giải, tòa án mà còn có khả năng phát huy tối ƣu những ƣu điểm của
các phƣơng thức đó.
Một số ƣu điểm của phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thƣơng mại
nhƣ sau:
So với tòa án:
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài bảo đảm tối đa quyền tự do thỏa thuận của
các bên. Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên có chuyên môn, nghiệp vụ,
lựa chọn quy tắc tố tụng theo ý chí của mình. Đồng thời, giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thƣơng mại còn cho phép các bên có thể lựa chọn cả về thời gian, địa điểm giải quyết
tranh chấp. Từ đó, doanh nghiệp có thể sắp xếp thời gian hợp lý để vừa đảm bảo việc giải
quyết tranh chấp vừa điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và không bị kháng cáo, kháng nghị
14
trong khi bản án, quyết định của tòa án có thể phải trải qua nhiều thủ tục xem xét khác
14
Khoản 5 Điều 4 Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010
pháp
Trang 16
nhau (sơ thẩm, phúc thẩm, tái thẩm hay giám đốc thẩm). Đồng thời, việc xét xử tại trọng
tài chỉ diễn ra ở một cấp xét xử thay vì hai cấp xét xử nhƣ ở tòa án. Điều này giúp tiết
kiệm chi phí về thời gian cũng nhƣ tiền bạc cho các bên tranh chấp.
- Trọng tài xét xử không công khai
15
bởi tiến trình giải quyết của trọng tài có tính
riêng biệt. Hầu hết các quy định pháp luật về trọng tài của các quốc gia đều thừa nhận
nguyên tắc trọng tài xử kín nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là một ƣu điểm
quan trọng bởi các doanh nghiệp không muốn các chi tiết của vụ tranh chấp bị đem ra
công khai trƣớc tòa án, điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh
doanh của mình. Đặc biệt là những tranh chấp liên quan tới bí mật kinh doanh, các khiếm
khuyết của hàng hóa, sản phẩm kém chất lƣợng… vì điều này sẽ khiến doanh nghiệp mất
uy tín và ảnh hƣởng xấu đến việc kinh doanh của họ. Do đó, xét xử bằng trọng tài giúp
các doanh nghiệp bảo đảm đƣợc bí mật kinh doanh, giữ vững đƣợc uy tín và tránh nguy
cơ làm tổn thƣơng đến các mối quan hệ hợp tác làm ăn. Đó chính là những yếu tố tạo
điều kiện để các bên duy trì đƣợc quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau. Hơn
nữa, sự tự nguyện thi hành quyết định của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tƣởng tốt
hơn trong quan hệ làm ăn có thể diễn ra trong tƣơng lai.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thể hiện tính năng động, linh hoạt và mềm
dẻo. Do đó dễ thích ứng hơn so với giải quyết tranh chấp bằng tòa án. Tòa án khi xét xử
phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy định có tính chất quy trình, trình
tự, thủ tục đƣợc quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và các văn bản hƣớng dẫn
liên quan. Điều này khiến giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trở nên nhanh chóng hơn.
Trong khi đó giải quyết tranh chấp tại tòa án có thể kéo dài mấy năm.
- Hoạt động của trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài xét xử vụ kiện là do
các bên thỏa thuận lựa chọn, hoặc đƣợc chỉ định để giải quyết vụ kiện. Do đó các trọng
tài viên là ngƣời theo vụ kiện từ đầu đến cuối, nên họ có điều kiện để nắm bắt và tìm hiểu
thấu đáo các tình tiết của vụ việc. Chính điều này giúp trọng tài có thể hỗ trợ các bên dễ
dàng đạt tới một thỏa thuận, điều mà ít khi xảy ra ở tòa án.
So với thƣơng lƣợng và hòa giải:
- Việc tham gia thƣơng lƣợng, hòa giải không chỉ đòi hỏi các bên có thiện chí, trung
thực mà còn phải có kiến thức cần thiết về chuyên môn và pháp lý. Điều này không dễ
dàng có đƣợc đối với mỗi bên tranh chấp. Trong khi đó, trọng tài thƣờng là những ngƣời
có chuyên môn, am hiểu pháp luật có thể giúp các bên tranh chấp khắc phục những
khiếm khuyết về pháp lý của mình.
15
Khoản 4 Điều 4 Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010
pháp
Trang 17
- Trọng tài thƣơng mại luôn có hẳn một khung pháp luật điều chỉnh, nên nếu quyết
định trọng tài không đƣợc các bên tự nguyện thi hành sẽ có thể bị cƣỡng chế thi hành.
Mặc dù trọng tài là một tổ chức phi chính phủ nhƣng trọng tài lại đƣợc sự đảm bảo, hỗ
trợ về mặt pháp lý của tòa án và cơ quan tƣ pháp
16
. Trong khi đó, hoạt động thƣơng
lƣợng, hòa giải ở nƣớc ta hiện nay hoàn toàn mang tính tự phát, theo truyền thống, chƣa
có văn bản pháp luật nào điều chỉnh cơ chế giải quyết tranh chấp bằng thƣơng lƣợng và
hòa giải. Do đó, giá trị của kết quả thƣơng lƣợng, hòa giải không đƣợc đảm bảo thi hành
và dễ bị các bên lợi dụng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ. Trên thực tế, việc thực
hiện kết quả thƣơng lƣợng, hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của các bên nên
trong nhiều trƣờng hợp tính khả thi không cao, không đƣợc đảm bảo thi hành.
Ngoài ra, trọng tài còn nhiều ƣu điểm khác nhƣ: trọng tài cho phép các bên đƣợc sử
dụng kinh nghiệm của các chuyên gia và điều này đƣợc thể hiện ở quyền chọn trọng tài
viên của các bên; khi xét xử, trọng tài không chịu sự chi phối bởi một cơ quan nào mà chỉ
chịu sự giám sát của tòa án trong một số mặt về thủ tục tố tụng…
Với những ƣu điểm nhƣ vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã ngày càng
trở thành một phƣơng thức tố tụng kinh doanh - thƣơng mại hữu hiệu và đƣợc các bên lựa
chọn bên ngoài tố tụng bằng tòa án.
Trên thế giới, hình thức giải quyết tranh chấp qua trọng tài thƣơng mại đang ngày
càng chiếm ƣu thế vì đây là phƣơng thức phù hợp hơn cả so với giải quyết tranh chấp
bằng thƣơng lƣợng, hòa giải hay tòa án. Thế nhƣng, ở Việt Nam, số lƣợng vụ tranh chấp
đƣợc giải quyết bằng trọng tài thƣơng mại vẫn còn khá khiêm tốn trong khi hệ thống toà
án luôn trở nên quá tải, dẫn đến làm ảnh hƣởng chất lƣợng vụ việc xét xử sơ thẩm, tăng
vụ việc xét xử phúc thẩm, kéo dài thời gian xử lý, tăng lƣợng vụ tồn đọng, không kịp giải
quyết. Nguyên nhân một phần do nhiều doanh nghiệp cho rằng các phán quyết của trọng
tài thƣơng mại sẽ không có giá trị thực thi, do chƣa hiểu hết đƣợc ƣu điểm và chƣa thật
sự đánh giá đúng vai trò của phƣơng thức này nên còn e dè và chƣa lựa chọn sử dụng
trọng tài nhƣ một phƣơng thức giải quyết tranh chấp hữu hiệu. Theo thống kê của Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, tổng số vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra giải quyết trong 17
năm tính từ năm 1993 đến năm 2012 chỉ có 639 vụ. Trong đó thấp nhất là năm 1993 chỉ
16
Điều 7 và Điều 66 Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010
pháp
Trang 18
với 6 vụ và cao nhất là năm 2011 với 83 vụ
17
. Đây là những con số rất nhỏ so với trọng
tài các nƣớc khác.
Nhƣ vậy, việc phân tích những vai trò của phƣơng thức trọng tài thƣơng mại cho các
doanh nghiệp hiểu rõ sẽ góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy sự phát triển của trọng tài
cũng nhƣ tháo gỡ những khó khăn trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thƣơng mại.
Có thể kể đến một số vai trò quan trọng của trọng tài thƣơng mại nhƣ sau:
Đối với Tòa án:
Hoạt động trọng tài có hiệu quả góp phần làm giảm tải số vụ tranh chấp ở tòa án.
Do đó, nâng cao chất lƣợng xét xử (cho cả trọng tài và tòa án) vì số vụ tranh chấp đƣợc
chia đều ra, áp lực công việc hạ xuống nên các cán bộ chuyên môn cũng có thể đảm bảo
chất lƣợng kết quả làm việc, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng kéo dài thời gian xét
xử và giảm số vụ tranh chấp tồn đọng.
Đối với các doanh nghiệp:
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài giúp tiết kiệm thời gian và tiền bạc do cơ chế
hoạt động hết sức đơn giản và linh hoạt. Tại tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ
thuộc vào sự chỉ đạo của toà án về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử… đƣợc
quy định trƣớc đó. Trong khi đó, với trọng tài, các bên thông thƣờng đƣợc tự do lựa chọn
thủ tục, thời gian, địa điểm phƣơng thức giải quyết tranh chấp theo phƣơng thức tiện lợi,
nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này
có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, trọng tài chỉ có một cấp xét xử và phán quyết trọng tài có giá trị chung
thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị bởi bất kỳ cơ quan tổ chức nào. Trong khi tòa án
phải trải qua nhiều giai đoạn tố tụng, nhiều cấp xét xử và phán quyết của tòa án thƣờng bị
kháng cáo, kháng nghị hay khiếu nại. Quyết định trọng tài đƣợc thực hiện ngay, đáp ứng
yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thƣơng mại.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài bảo đảm bí mật cho doanh nghiệp (bởi
nguyên tắc xét xử không công khai). Tính bí mật đƣợc thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp
và danh tính của các bên đƣợc giữ kín. Điều này giúp các doanh nghiệp giữ vững uy tín
của mình, không bị mất cơ hội cạnh tranh lành mạnh sau khi vụ tranh chấp kết thúc.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài giúp duy trì quan hệ đối tác làm ăn giữa các
doanh nghiệp. Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ đƣợc mối hoà
khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác
17
Theo trang thông tin điện tử của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam: Số vụ tranh chấp tại VIAC trong 17 năm
từ 1993 đến 2012, />nam-tu.aspx, [ngày truy cập 10-8-2013]
pháp
Trang 19
kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện. Xét xử bằng trọng
tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những bất đồng trên cơ sở những câu
hỏi gợi mở, trong một không gian kín đáo, nhẹ nhàng… Đó là những yếu tố tạo điều kiện
để các bên duy trì đƣợc quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau.
Nhƣ vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng con đƣờng trọng tài có vai trò hết sức
quan trọng trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thƣơng mại. Điều này cũng mang lại ý
nghĩa to lớn cho sự phát triển kinh tế nƣớc ta. Hiểu rõ vai trò đó, cần phát huy và hoàn
thiện những quy định pháp luật trong Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010 nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của trọng tài trong nƣớc cũng nhƣ thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế
của nƣớc ta.
Tƣ pháp là bảo vệ luật pháp, thực thi công lý, đảm bảo cho pháp luật đƣợc thực hiện
và chống lại các hành vi vi phạm pháp luật
18
.
Theo từ điển tiếng Việt thì hỗ trợ có nghĩa là giúp đỡ nhau, giúp thêm vào.
Vậy có thể hiểu hỗ trợ tƣ pháp có nghĩa là giúp đỡ, tiếp sức để việc bảo vệ luật
pháp, thực thi công lý, đảm bảo cho pháp luật đƣợc thực hiện và chống lại các hành vi vi
phạm pháp luật đƣợc tiến hành thuận lợi, nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả.
Nhƣ vậy, hỗ trợ tƣ pháp đối với hoạt động của trọng tài thƣơng mại có thể hiểu là
việc giúp đỡ, tiếp sức cho các trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực thƣơng mại đƣợc tiến hành nhanh chóng, dễ dàng, hiệu quả và phù hợp với
những quy định của pháp luật về trọng tài thƣơng mại cũng nhƣ pháp luật về tố tụng. Các
hoạt động hỗ trợ có thể diễn ra từ giai đoạn xử lý hồ sơ vụ việc, giải quyết vụ việc đến
lúc thi hành phán quyết trọng tài hay đăng ký phán quyết trọng tài (đối với trọng tài vụ
việc).
Việc hỗ trợ tƣ pháp đối với hoạt động của trọng tài mang lại những ý nghĩa nhất
định trong việc giải quyết tranh chấp. Các hoạt động tƣ pháp hỗ trợ bao gồm:
- Hỗ trợ trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Hỗ trợ chỉ định và thay đổi trọng tài viên;
- Hỗ trợ đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc;
18
Theo trang thông tin điện tử: Quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp là gì?,
[ngày truy cập 10-8-2013]