Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Hành vi bán hàng đa cấp có dấu hiệu bất chính tại việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

----------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
LKT12- 04

HÀNH VI BÁN HÀNG ĐA CẤP CÓ DẤU HIỆU
BẤT CHÍNH TẠI VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Ngành Luật Kinh tế
Mã số: 12A51010259

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội, 5/2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

----------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
LKT12- 04

HÀNH VI BÁN HÀNG ĐA CẤP CÓ DẤU HIỆU
BẤT CHÍNH TẠI VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP



Ngành Luật Kinh tế
Mã số: 12A51010259

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Người hướng dẫn: TS. Bùi Ngọc Cường

Hà Nội, 5/2016


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo, cán bộ của Khoa
Luật- Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi, giải đáp mọi thắc mắc
của sinh viên, nhờ sự chỉ dẫn tận tình, những kiến thức quý báu trong quá trình học
tập và nghiên cứu mà thầy cô truyền đạt, em mới có thể hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp này!
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc, tình cảm trân trọng tới giáo viên
hướng dẫn- TS. Bùi Ngọc Cường, mặc dù công việc bận rộn nhưng thầy luôn nhiệt
tình hướng dẫn, định hướng việc nghiên cứu, cung cấp cho em nhiều tài liệu bổ ích,
những kinh nghiệm quý báu. Trong quá trình viết bài, bản thân em đôi lúc còn lơ là,
bài viết sơ sài và nhiều thiếu sót, nhưng thầy luôn khích lệ và sẵn sàng chỉ bảo em
tận tình!
Ngoài ra em cũng muốn gửi lời cảm ơn tới tập thể LKT 12-04, các bạn cùng
lớp đã nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian vừa qua!
Khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế về kiến
thức chuyên môn cũng như thực tiễn, nhưng với sự nỗ lực của bản thân, em hy vọng
bài viết sẽ được thầy cô trong Hội đồng công nhận. Em rất mong nhận được lời góp
ý, bổ sung quý báu từ thầy cô!

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5/ 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Hồng Nhung


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “ Hành vi bán hàng đa cấp có dấu
hiệu bất chính tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” là công trình nghiên cứu
của cá nhân em. Các số liệu cũng như ví dụ trong bài viết đều trung thực và chính
xác, những trích dẫn từ các tác giả khác đều được chú thích cẩn thận trong Danh
mục tài liệu tham khảo.
Em xin chân thành cảm ơn!

Giáo viên hướng dẫn

Tác giả khóa luận

TS. Bùi Ngọc Cường

Nguyễn Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài: ................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài: ...............................................................................2

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài: .............................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài: ..........................................................................3
5. Bố cục của đề tài: ................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG .....................................................................................................4
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNH VI BÁN HÀNG ĐA CẤP CÓ DẤU HIỆU BẤT
CHÍNH ........................................................................................................................4
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của bán hàng đa cấp: ............................................4
1.1.1. Khái niệm: .................................................................................................4
1.1.2. Các đặc trưng của bán hàng đa cấp: ..........................................................6
1.1.3. Vai trò của kinh doanh đa cấp:..................................................................9
1.2. Khái niệm và đặc điểm của bán hàng đa cấp bất chính: ................................10
1.2.1. Khái niêm: ...............................................................................................10
1.2.2. Đặc điểm: ................................................................................................11
1.3. Dấu hiệu nhận biết doanh nghiệp bán hàng đa cấp chân chính và doanh
nghiệp có hành vi bán hàng đa cấp bất chính: ......................................................16
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TRẠNG VỀ HÀNH VI
BÁN HÀNG ĐA CẤP CÓ DẤU HIỆU BẤT CHÍNH TẠI VIỆT NAM ................19
2.1. Một số quy định của Pháp luật về hoạt động bán hàng đa cấp có dấu hiệu bất
chính tại Việt Nam: ...............................................................................................19
2.1.1. Văn bản pháp luật quy định về bán hàng đa cấp tại Việt Nam: ..............19
2.1.2. Quy phạm xác định hành vi bán hàng đa cấp có dấu hiệu bất chính: .....20
2.1.3. Trình tự, thủ tục xử lý hành vi bán hàng đa cấp có dấu hiệu bất chính tại
Việt Nam: ..........................................................................................................24
2.1.4. Mức xử phạt hành vi bán hàng đa cấp bất chính: ...................................26
2.1.5. Thẩm quyền xử lý vi phạm bán hàng đa cấp: .........................................28
2.2. Thực trạng bán hàng đa cấp bất chính tại Việt Nam:.....................................29



2.2.1. Thực tiễn về hoạt động bán hàng đa cấp bất chính: ................................29
2.2.2. Lý giải nguyên nhân tồn tại hành vi bán hàng đa cấp bất chính: ............38
2.2.3. Thực tiễn xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chính tại Việt Nam trong
thời gian gần đây: ..............................................................................................41
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM HẠN CHẾ BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT
CHÍNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC XỬ LÝ CÁC HÀNH VI BÁN HÀNG
ĐA CẤP BẤT CHÍNH TẠI VIỆT NAM .................................................................43
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về bán hàng đa cấp bất chính: ....43
3.2. Định hướng của giải pháp: .............................................................................43
3.3. Các giải pháp đề xuất: ....................................................................................44
KẾT LUẬN ...............................................................................................................51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Là sinh viên học luật, bản thân em hiểu rõ tầm quan trọng của hoạt động
nghiên cứu pháp luật, đặc biệt là các chế định liên quan đến đời sống hàng ngày,
những vấn đề có tính thời sự cao. Thời gian gần đây, truyền hình, báo đài liên tục
nhắc đến vụ việc các công ty bán hàng đa cấp lừa đảo, thiệt hại hàng chục tỷ đồng
của nhân dân, gây phẫn nộ mạnh mẽ trong dư luận. Bán hàng đa cấp vốn là một
phương thức kinh doanh sáng tạo và đầy tiềm năng, nhưng lại ẩn chứa nhiều bất ổn.
Đây thực sự là cơ hội phát triển kinh tế đồng thời lại là thời cơ cho nhiều kẻ gian
trục lợi.
Với những ưu thế vượt trội so với kinh doanh truyền thống, kinh doanh đa
cấp đã trở thành trào lưu ngay khi vừa du nhập tới Việt Nam năm 1998, không thể
phủ nhận những tác động tích cực mà phương thức này đem lại như: việc mua bán
hàng hóa trở nên đơn giản hơn, lợi ích kinh tế đem lại cao hơn, chi phí đầu tư tiết
kiệm, nhiều người lao động có việc làm,… Nhưng bên cạnh sự phát triển nhanh

chóng đó là rắc rối trong quản lý, công tác ban hành và áp dụng pháp luật.
Các văn bản pháp luật đã được ban hành để kịp thời điều chỉnh các quan hệ
trong bán hàng đa cấp, từ Luật cạnh tranh 2004 tới các nghị định của Chính phủ,
thông tư của Bộ Công thương và ban ngành liên quan, có quy định các hành vi bị
cấm thực hiện và các chế tài xử phạt cũng được quy định khá chi tiết. Nhưng câu
hỏi đặt ra: tại sao vẫn tồn tại trường hợp công ty đa cấp MB 24 lừa đảo bán 120.000
gian hàng, với số tiền nộp vào hệ thống này lên tới hơn 600 tỷ đồng, tổng cộng 107
người bị hại; Công ty giả danh Bộ Quốc phòng Liên kết Việt với 45.000 người tham
gia, lừa đảo hơn 1.900 tỷ đồng; Tâm mặt trời bán 23.348 gian hàng ảo và thu khoản
tiền khổng lồ lên tới 122 tỷ đồng;…??? Đây chỉ 3 trong số các doanh nghiệp bán
hàng đa cấp bất chính đang hoạt động tại Việt Nam.
Thực trạng nêu trên liệu có do các quy định đưa ra chỉ mang tính chất tình
thế, tồn tại nhiều kẽ hở, chưa giải quyết căn nguyên vấn đề? Hay do năng lức áp
dụng pháp luật của cơ quan chức năng còn yếu kém? Đây không chỉ là vấn đề cần
giải quyết của cơ quan ban hành pháp luật, tổ chức có thẩm quyền, mà đó là mối
quan tâm của toàn xã hội- những người đã, đang và có thể trở thành nạn nhân của
đa cấp lừa đảo. Đặc biệt là sinh viên, những bạn trẻ tuổi mới chập chững vào đời,
kinh nghiệm cuộc sống còn hạn chế nhưng luôn mang trong mình ham muốn làm
1


giàu, đây chính là đối tượng dễ bị lôi kéo dụ dỗ tham gia vào mạng lưới đa cấp bất
chính. Để bảo vệ bản thân và những người xung quanh khỏi nguy cơ sa chân vào hệ
thống đa cấp lừa đảo, việc nghiên cứu, nắm rõ bản chất cũng như quy định pháp
luật về bán hàng đa cấp là vô cùng cần thiết.
Vì những lý do trên, em quyết định lựa chọn đề tài: “Hành vi bán hàng đa
cấp có dấu hiệu bất chính tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” làm khóa luận
tốt nghiệp của mình. Tìm hiểu thực trạng của hành vi biến tướng này phần nào giúp
em hiểu rõ hơn các mánh khóe của doanh nghiệp, những bất cập còn tồn tại, từ đó
em hy vọng bản thân có thể góp phần đưa ra nhận xét hữu ích, những đề xuất thích

hợp cho việc hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thanh tra điều tra của
cơ quan có thẩm quyền.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Bán hàng đa cấp chỉ mới được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam từ năm
2004, nhưng bán hàng đa cấp bất chính đã manh mún hình thành từ ngay sau khi
“chân ướt chân ráo” vào nước ta. Trong những năm gần đây, có nhiều bài viết, công
trình nghiên cứu viết về vấn đề này, ví dụ như: Luận văn thạc sĩ của tác giả Ninh
Thị Minh Phương năm 2012, về “Pháp luật về hành vi bán hàng đa cấp ở Việt
Nam”; Bài viết trên Tạp chí khoa học pháp lý, số 3/2006 của tác giả Nguyễn Ngọc
Sơn: “Tính không lành mạnh của hành vi bán hàng đa cấp bất chính theo pháp luật
cạnh tranh”, hay như bài viết “Điều chỉnh pháp luật đối với hành vi bán hàng đa cấp
bất chính” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 9/2006 của
ThS. Lê Anh Tuấn,…Nhưng đa phần các bài viết, nghiên cứu mới chỉ tập trung
phân tích quy định pháp luật mà không quan tâm phân tích thực trạng để tìm ra
nguyên nhân và hướng giải quyết từ chính tồn tại của thực trạng đó.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu thực trạng của hành vi bán hàng
đa cấp bất chính, thực tiễn giải quyết của cơ quan chức năng. Từ nghiên cứu thực
trạng cùng tìm hiểu vấn đề lý luận, pháp luật về hành vi bán hàng đa cấp, em muốn
nâng cao kiến thức về pháp luật cạnh tranh- một lĩnh vực pháp lý em rất quan tâm.
Đồng thời tiếp cận gần hơn với vấn đề đang được xã hội lên án, từ đó đưa ra những
góp ý đề xuất hữu ích nhằm hạn chế tối đa hành vi bán hàng đa cấp bất chính.
Trong phạm vi khóa luận tốt nghiệp, em chỉ tập trung phân tích quy định
pháp luật hiện hành, thực trạng tồn tại những năm gần đây tại Việt Nam, bởi những
2


quy định đang được áp dụng sẽ trực tiếp tác động tới hiệu quả của hoạt động quản
lý, xử lý bán hàng đa cấp, các ví dụ được nêu gần với hiện tại giúp bài viết có tính
thời sự và cập nhật nhất.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận là phương pháp duy vật
biện chứng để nhìn nhận khách quan các khía cạnh của bán bán hàng đa cấp. Ngoài
ra em vận dụng các phương pháp như nghiên cứu lý thuyết: đọc, phân tích và tổng
hợp các quy định luật định. Về nghiên cứu thực tiễn, em sử dụng phương pháp quan
sát, thông kê số liệu vụ việc, qua đó so sánh quy mô tính chất của hành vi vi phạm
qua các năm. Sau quá trình nghiên cứu, quan sát, thống kê, tổng hợp rồi phân tích
tài liệu đã thu thập, cuối cùng em sẽ đưa ra kết luận và hướng giải quyết vấn đề hợp
lý nhất có thể.
5. Bố cục của đề tài:
Đề tài được thiết kế gồm 3 phần:
Phần 1- Mở đầu.
Phần 2- Nội dung gồm 3 chương:
Chương 1- Khái quát chung về hành vi bán hàng đa cấp có dấu hiệu bất
chính.
Chương 2- Quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng của hành vi bán
hàng đa cấp có dấu hiệu bất chính tại Việt Nam.
Chương 3- Một số giải pháp đề xuất nhằm hạn chế bán hàng đa cấp bất chính
và nâng cao hiệu quả việc xử lý các hành vi bán hàng đa cấp bất chính tại Việt
Nam.
Phần 3- Kết luận.

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNH VI BÁN HÀNG ĐA CẤP CÓ DẤU HIỆU
BẤT CHÍNH


1.1. Khái niệm và các đặc điểm của bán hàng đa cấp:
1.1.1. Khái niệm:
“Bán hàng đa cấp” là một phương thức kinh doanh sáng tạo, góp phần quan
trọng với sự phát triển của hoạt động thương mại trên thế giới. Trước khi khái niệm
“bán hàng đa cấp” lần đầu được ghi nhận trong Pháp luật Việt Nam, phương thức
kinh doanh độc đáo ấy được gọi dưới nhiều tên gọi khác nhau như “kinh doanh đa
cấp” (multi- level marketing) hay “kinh doanh theo mạng” (network marketing),
“truyền tiêu đa cấp” hoặc với tên “tiếp thị đa tầng”, nhưng dù được gọi bởi bất kỳ
cái tên nào chúng ta cũng có thể hình dung đây là một phương thức tiếp thị sản
phẩm tồn tại dưới mô hình kinh doanh nhiều cấp độ, hoạt động theo mạng lưới rộng
khắp người tham gia, là hoạt động kinh doanh bán hàng trực tiếp đến tay khách
hàng. Người tiêu dùng có thể trực tiếp đến mua hàng tại công ty mà không phải qua
các đại lý hay cửa hàng bán lẻ. Nhờ vậy, hình thức này còn tiết kiệm rất nhiều chi
phí từ việc quảng cáo, khuyến mại, tiền sân bãi, kho chứa, vận chuyển hàng hóa. Số
tiền này được dùng để trả thưởng cho nhà phân phối và nâng cấp, cải tiến sản phẩm
tiếp tục phục vụ người tiêu dùng.[25]
Trên thế giới phương thức này thường được sử dụng với tên gọi “kinh doanh
đa cấp” (Multi- Level- Marketing), là phương thức tiêu thụ sản phẩm được sáng tạo
bởi nhà hóa học người Mỹ Karl Renborg (1887-1973). Ông là người đầu tiên đã
ứng dụng ý tưởng tiếp thị mạng lưới vào trong cuộc sống, tạo ra một hệ thống kinh
tế, một ngành kinh doanh được coi là có triển vọng nhất trong thế kỷ 21.
Kinh doanh đa cấp được hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1927 đến
1934, thời kỳ Karl Renorg bị bắt giam tại nhà tù Tưởng Giới Thạch tới khi ông sáng
lập ra công ty Vitamins California và nhờ phương pháp phân phối mới này, người
tiêu dùng trở thành người phân phối sản phẩm, công ty của ông đã nhanh chóng đạt
doanh số 7 triệu USD mà không hề mất một đồng quảng cáo nào.
Để đạt được tầm ảnh hưởng như ngày nay, phương thức kinh doanh này đã
trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, kéo dài trong nhiều năm liên tục. Từ khi được
4



hình thành đến cuối năm 1940 là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của kinh doanh đa cấp,
tiếp sau đó là giai đoạn ổn định và bùng nổ với 3 làn sóng:
Năm 1940 đến 1979 chỉ có khoảng 30 công ty kinh doanh theo mạng ra đời
tại Mỹ, đây là giai đoạn được gọi tên là làn sóng thứ nhất.
Từ 1979-1990 (làn sóng thứ hai) là thời kỳ bùng nổ của kinh doanh theo
mạng, hàng trăm công ty kinh doanh theo mạng tuyên bố thành lập với đủ loại sản
phẩm và mô hình kinh doanh chỉ trong một ngày.
Từ năm 1990, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ và truyền thông, kinh
doanh theo mạng mang màu sắc mới, các nhà phân phối có thể đơn giản hoá công
việc của mình nhờ vào điện thoại, internet... Giai đoạn này được cá chuyên gia gọi
là làn sóng thứ ba - nhà phân phối giỏi không cần phải là một nhà hùng biện và đi
lại như con thoi giữa các mạng lưới. Bất kỳ ai cũng có thể sử dụng thời gian nhàn
rỗi của mình để tham gia công việc và làm việc ở bất cứ đâu. Các công ty bán hàng
truyền thống như Ford, Colgate, Coca-Cola và nhiều công ty nổi tiếng khác đã bắt
đầu áp dụng phương pháp kinh doanh theo mạng để phân phối sản phẩm độc đáo
của mình.
Với đặc tính đơn giản tiện lợi của mình, khoảng đầu thế kỷ 21, bán hàng đa
cấp đã du nhập nhanh chóng vào Việt Nam và đạt được tổng mức doanh thu cao.
Theo pháp luật nhiều nước: “kinh doanh đa cấp là phương thức phân lẻ hàng hóa,
dịch vụ thông qua mạng lưới những cá nhân phân phối gồm nhiều tầng khác nhau”,
[18],trong đó:
Mỗi người đều có trách nhiệm bán lẻ sản phẩm và có quyền tuyển dụng, đào
tạo người mới tham gia vào mạng lưới của mình;
Mỗi phân phối viên được nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc các lợi ích
kinh tế khác từ kết quả tiêu thụ sản phẩm của mình và của mạng lưới do mình trực
tiếp tổ chức và được doanh nghiệp thừa nhận[18,tr6]
Bán hàng đa cấp là một hình thức của bán hàng trực tiếp, trong đó hàng hóa
được bán trực tiếp từ cá nhân đến cá nhân, nghĩa là từ những nhà phân phối độc lập
đến người tiêu dùng mà không nhất thiết phải thông qua địa điểm bán lẻ cố

định.[24,tr56]
Còn ở Việt Nam, quy định về bán hàng đa cấp lần đầu được nhắc tới tại Luật
cạnh tranh 2004, khoản 11- Điều 3:

5


“ Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các
điều kiện sau đây:
a) Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham
gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
b) Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu
dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là
địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia;
c) Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi
ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán
hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được
doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận.”
Như vậy, định nghĩa bán hàng đa cấp đã không được nêu lên trực tiếp mà
thay vào đó là đưa ra các điều kiện để xác định ranh giới “chân chính” hay “bất
chính”, tức là xác định tính hợp pháp hay bất hợp pháp của hoạt động bán hàng
này.[15,tr7]
Định nghĩa về bán hàng đa cấp chỉ được quy định trực tiếp khi Nghị định
42/2014/ NĐ-CP của Chính Phủ được ban hành ngày 14/5/2014 về quản lý hoạt
động bán hàng đa cấp, theo đó:
“Kinh doanh theo phương thức đa cấp là hình thức kinh doanh thông qua
mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau, trong đó, người
tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích kinh tế khác từ hoạt
động kinh doanh của mình và của mạng lưới do mình xây dựng.”
Từ định nghĩa nêu trên, có thể định nghĩa bán hàng đa cấp như sau:

“ Bán hàng đa cấp là phương thức bán hàng trực tiếp, trong đó doanh nghiệp
bán hàng đa cấp thông qua mạng lưới nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau thực hiện
bán hàng hóa; người tham gia mạng lưới sẽ được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng
và lợi ích kinh tế từ hoạt động kinh doanh của mình và hệ thống mình tổ chức ra khi
được doanh nghiệp chấp thuận”.
1.1.2. Các đặc trưng của bán hàng đa cấp:
Bản chất của bán hàng đa cấp là một loại hình kinh doanh, với mục đích tiêu
thụ sản phẩm, khác với lối kinh doanh truyền thống từ thuở sơ khai lâu đời, nhưng
nó lại có sức thu hút mạnh mẽ và nhanh chóng được áp dụng rộng khắp, chắc hẳn
6


bán hàng đa cấp phải mang những đặc trưng riêng biệt có lợi thế mà những loại
hình kinh doanh khác không có.
Thứ nhất, bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị bán lẻ hàng hóa.
Thông qua mạng lưới tiếp thị trực tiếp giữa thành viên tổ chức bán hàng đa
cấp với người tiêu dùng, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được giới thiệu rộng rãi,
mối quan hệ mua bán cũng từ đó được hình thành. Vì là tiếp thị trực tiếp, tức là
thông tin sản phẩm sẽ được khách hàng nắm rõ thông qua lời giới thiệu, chia sẻ của
mạng lưới đa cấp hay còn gọi là mạng lưới phân phối viên hoặc tư vấn viên, không
cần tiêu tốn nhiều tiền vào quảng cáo PR. Từ khi được biết tới sản phẩm đến lúc
mua, cầm sản phẩm trên tay, khách hàng chỉ giao dịch duy nhất với phân phối viên,
không cần qua trung gian là cá nhân hay bất kỳ tổ chức, đại lý phân phối nào, đây là
một yếu tố quan trọng đáng thu hút của bán hàng đa cấp. Không tốn chi phi cho các
cấp trung gian, không cần cửa hàng đại lý mặt tiền thuận lợi, không tiềm ẩn rủi ro
nếu nhập hàng mà khó tiêu thụ,… giản lược được những khâu này là lý do giá thành
sản phẩm được giảm đi đáng kể.
Hệ thống gọn nhẹ chỉ bán lẻ chứ không phân phối số lượng lớn hàng hóa.
Đối tượng khách hàng ban đầu được hướng tới là các mối quan hệ thân quen của
phân phối viên, có thể là bạn bè, gia đình, đồng nghiệp,… từ đó tạo được sự tin

tưởng nhất định, giúp số lượng sản phẩm được tiêu thụ cao hơn. Bên cạnh đó việc
mua hàng trực tiếp từ nhà sản xuất khiến người tiêu dùng an tâm hơn khi sử dụng,
đặc biệt trong giai đoạn hàng thật hàng giả lẫn lộn như hiện nay.
Tính linh hoạt, không hề gò bó thời gian là đặc trưng của hoạt động mua bán
đặc biệt này, không quy định khung giờ làm việc, hàng hóa được giao dịch tại bất
kỳ thời điểm nào khách hàng mong muốn, việc mua bán cũng được thực hiện tại
nhà ở, nơi làm việc, khu vui chơi,… Trong cuộc sống hiện đại, con người luôn
muốn mọi thứ nhanh và tiện lợi thì phương thức bán hàng đa cấp là lựa chọn đầy
hấp dẫn.
Đối tượng bán hàng đa cấp phục vụ tới người tiêu dùng là “hàng hóa”, theo
quy định của Luật thương mại 2005, khoản 2- Điều 3: “Hàng hóa là tất cả các loại
động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với
đất”,[2] theo đó hàng hóa trong bán hàng đa cấp là sản phẩm hữu hình chứ không
bao gồm dịch vụ, ngoại trừ trường hợp pháp luật cho phép. Nói một cách đơn giản
thì đối tượng được phép lưu thông trong bán hàng đa cấp phải là vật có thể cầm,
nắm, sờ, kiểm tra bằng mắt thường. Một điều kiện quan trọng cần đáp ứng là hàng
hóa đó không thuộc danh mục bị cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, hàng hóa
7


đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp buộc phải thu hồi, cấm lưu thông hoặc tạm
ngừng lưu thông theo quy định của pháp luật; ngoài ra hàng hóa là thuốc; trang thiết
bị y tế; các loại thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật; hóa chất, chế phẩm diệt côn
trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế; các loại hóa chất nguy hiểm
và sản phẩm có hóa chất nguy hiểm theo quy định của pháp luật cũng không được
phép lưu thông trong phương thức kinh doanh này.
Thứ hai, việc tiếp thị bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới
nhiều cấp, nhiều nhánh người tham gia. Việc tham gia hệ thống đơn giản, hệ thống
tuy đông nhưng không khó quản lý.
Đúng với tên gọi của phương thức kinh doanh độc đáo này, bán hàng đa cấp

tồn tại nhờ hệ thống các phân phối viên hoạt động với mô hình đa cấp, tức nhiều
cấp bậc. Mạng lưới đa cấp bao gồm những phân phối viên đảm nhiệm việc tiếp thị
và bán lẻ hàng hóa cho doanh nghiệp.[18,tr10] Công việc chủ yếu là bán sản phẩm
và xây dựng mạng lưới người tham gia. Khi tiếp thị sản phẩm, phân phối viên làm
việc trực tiếp với khách hàng nhân danh cá nhân họ chứ không cho doanh nghiệp
bán hàng đa cấp. Doanh nghiệp không thiết lập mối quan hệ trực tiếp với khách
hàng mà thông qua mạng lưới người tham gia, cũng có quan hệ độc lập với khách
hàng. Do người tham gia không phải thành viên của doanh nghiệp bán hàng đa cấp
nên doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm về hành vi của phân phối viên trong
quá trình tiếp thị, tiêu thụ sản phầm mà chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi chất
lượng sản phẩm và thông tin liên quan đến sản phẩm do họ cung cấp.[18,tr12]
Hàng hóa được người tham gia tiếp thị trực tiếp cho khách hàng tại nơi ở, nơi
làm việc của khách hàng hoặc bất kỳ địa điểm không phải địa điểm bán lẻ thường
xuyên của doanh nghiệp hoặc người tham gia. Họ không hoạt động cố định, cũng
không là các đại lý phân phối, đương nhiên không cần thiết cửa hàng để bày bán
tiêu thụ sản phẩm, họ trực tiếp gặp gỡ khách hàng, giới thiệu bán sản phẩm và giao
hàng cho người tiêu dùng tại bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào. Do đó người tham gia
không cần phải đăng ký kinh doanh khi thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa, theo
đó họ không chịu các ràng buộc pháp lý liên quan mà hoạt động một cách tự do, cái
họ phải tuân theo là các quy định mà doanh nghiệp bán hàng đa cấp đưa ra, như về
cách trả thưởng, cách tính lương, cách xây dựng mạng lưới.
Bên cạnh bán hàng hóa thì xây dựng một hệ thống người tham gia đông đảo
và vững mạnh là yếu tố quan trọng. Việc tuyển dụng không giới hạn giúp mạng lưới
nhanh chóng gia tăng số lượng cả chiều ngang và chiều dọc. Mỗi người tham gia có
quyền tuyển dụng thêm nhiều người khác khi được doanh nghiệp cho phép, tạo
8


thành một đội nhóm của riêng mình, hệ thống khi đó sẽ phát triển theo mô hình
tháp, to và rộng dần về phía đáy. Họ trở thành nhóm trưởng đồng thời trực tiếp đào

tạo, hướng dẫn cho tuyến dưới của mình. Mặc dù lượng người tham gia đông đảo
do điều kiện truyển dụng đơn giản, không yêu cầu chuyên môn, nhưng không gây
khó khăn cho hoạt động quản lý, đây là điểm khác biệt giữa kinh doanh đa cấp và
kinh doanh truyền thống. Phân phối viên dễ dàng tham gia hệ thống nhưng cũng có
thể từ bỏ công việc mà không hề gặp rắc rối hay vấn đề gì, bởi họ hoạt động dựa
trên một mã số được đăng ký vào hệ thống bán hàng, mã được kích hoạt khi họ trở
thành thành viên, duy trì hoạt động kể cả khi họ không bán được sản phẩm, khi
dừng hoạt động thì mã số vẫn còn đó. Không cần bộ phận quản lý nhân sự để kiểm
tra giờ giấc làm việc, không cần bộ phận kế toán tính và trả lương hàng tháng, tất cả
được tiến hành trên phần mềm và gửi trực tiếp vào tài khoản lương. Duy chỉ có hoạt
động quản lý nội bộ duy nhất là giữa người tham gia cấp trên có vai trò tổ chức và
điều hành hoạt động của những người trong mạng lưới của mình.
Thứ ba, người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền
thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người
tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức.
Đặc điểm này là lý do của hoạt động tích cực xây dựng mạng lưới phân phối
viên, bởi càng nhiều người cấp dưới thì doanh số bán hàng càng được nâng cao,
doanh thu từ đó cững tăng đáng kể. Không còn tình trạng bất công, không làm mà
được hưởng, có bán hàng, có tích cực tuyển dụng và đào tạo tuyến dưới bán được
hàng thì phân phối viên mới nhận được càng nhiều lợi ích. Điều này có ý nghĩa thúc
đẩy mạnh mẽ mỗi cá nhân tham gia tự giác hành động, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp
tới cái họ được nhận. Tiền hoa hồng họ được nhận nhiều hay ít phụ thuộc lượng
hàng hóa họ và đội nhóm của họ tiêu thụ. Không giống như các loại hình kinh
doanh khác, ai bán người đó hưởng, ít có sự giao lưu kinh nghiệm, luôn cạnh tranh
gay gắt nếu không muốn bị đào thải, với bán hàng đa cấp, sự sẻ chia luôn được đưa
lên hàng đầu, không giấu giếm kinh nghiệm, sẵn sàng giúp đỡ thành viên mới, tinh
thần đoàn kết tương trợ chính là chìa khóa thành công. Việc tuyến trên được hưởng
tiền hoa hồng từ kết quả bán hàng của tuyến dưới như một sự tri ân khi đã dẫn dắt,
hướng dẫn tư vấn viên mới, lợi ích họ được nhận đó không hề ảnh hưởng tới lợi ích
tuyến dưới của họ

1.1.3. Vai trò của kinh doanh đa cấp:
Qua nhiều năm hình thành và phát triển, bán hàng đa cấp đã chứng tỏ được
sức thu hút mạnh mẽ và sự tác động tích cực tới nền kinh tế xã hội không chỉ với
9


Việt Nam mà trên toàn thế giới. Với người tiêu dùng, nhờ phương thức mua hàng
trực tiếp từ nhà sản xuất, họ được tự do thoải mái lựa chọn sản phẩm, được tư vấn
nhiệt tình, đặc biệt với đặc trưng của bán hàng đa cấp là không qua nhiều khâu
trung gian, đại lý phân phối bán lẻ, khách hàng sẽ được sử dụng sản phẩm với mức
gía phải chăng, giảm thiểu tối đa tình trạng hàng giả, hàng nhái, kém chất lượng,
việc linh hoạt thời gian địa điểm giao dịch giúp việc mua bán cũng trở nên đơn giản
và nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Doanh nghiệp cũng tiết kiệm được nhiều chi phí vận
chuyển, kho bãi, nhân công, thuê mặt bằng,… mà tập trung vào nâng cao chất lượng
sản phẩm tốt hơn. Doanh nghiệp luôn tìm mọi cách giảm tối đa các chi phí bởi cái
họ hướng tới là lợi nhuận, và bán hàng đa cấp là giải pháp thông minh giải quyết
vấn đề này. Đối với sự phát triển xã hội, bán hàng đa cấp cũng góp phần tạo việc
làm cho nhiều cá nhân, bởi cơ chế hoạt động không giới hạn số lượng, điều kiện trở
thành thành viên đơn giản, không yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ. Người lao động
có việc làm, hàng hóa lưu thông chất lượng khiến đời sống con người an toàn ổn
định hơn, quan trọng là giá trị thặng dư nó đem lại giúp phát triển nền kinh tế. Đây
đều là những lợi ích đáng tôn vinh mà bán hàng đa cấp mang tới, chúng ta có thể
khẳng định rằng: loại hình kinh doanh sáng tạo này là một làn gió mới hứa hẹn sẽ
tạo nhiều đột phá trong tương lai.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của bán hàng đa cấp bất chính:
1.2.1. Khái niệm:
Như đã phân tích trên đây, bán hàng đa cấp là loại hình kinh doanh đầy tính
hấp dẫn, thu hút nhiều đối tượng tham gia, tuy mang lại nhiều lợi ích nhưng nó cũng
kèm theo nhiều bất cập còn tồn tại, lợi dụng những kẽ hở của pháp luật cũng như
hiểu biết của người dân còn hạn chế, những kẻ trục lợi đã bóp méo bản chất bán

hàng đa cấp chân chính, một phương thức kinh doanh theo kiểu bán hàng đa cấp bất
chính (hay còn gọi là mô hình kinh doanh kim tự tháp) dần xuất hiện. Khác với kinh
doanh chân chính, mục đích của loại kinh doanh này không là mua bán hàng hóa để
kiếm tiền hoa hồng, cái được hướng tới ở đây là lôi kéo thật nhiều người và thu lợi
bất chính từ tiền đóng của người mới tham gia.
Theo quy định tại Điều 48- Luật cạnh tranh 2004 về bán hàng đa cấp bất
chính như sau:
“Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ
việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:

10


1. Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban
đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp;
2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho
người tham gia để bán lại;
3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu
từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác
tham gia.”
Pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm cụ thể về bán hàng đa cấp bất
chính mà chỉ liệt kê các hành vi bị coi là bán hàng đa cấp bất chính. Những quy
định trên cho thấy, bán hàng đa cấp được coi là bất chính khi nó đáp ứng hai điều
kiện: Một là, thực hiện một trong các hành vi mà luật kiệt kê; hai là, nhằm thu lợi
bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới.[18,tr15]
Để cấu thành nên hành vi vi phạm, cần phải đáp ứng đủ cả hai dấu hiệu
khách quan và chủ quan. Dấu hiệu khách quan hay dấu hiệu vật chất của hành vi

bán hàng đa cấp bất chính là việc thực hiện một trong bốn hành vi trên, dấu hiệu
chủ quan là mục đích thu lợi bất chính mà doanh nghiệp bán hàng đa cấp nhắm tới.
Khi đáp ứng đủ hai điều kiện kể trên, hành vi bán hàng đa cấp sẽ trở thành một loại
hành vi cạnh tranh không lành mạnh và là đối tượng của pháp luật cạnh tranh.
Từ những nhận định nêu trên có thể rút ra khái niệm cho bán hàng đa cấp bất
chính như sau:
Bán hàng đa cấp bất chính là phương thức kinh doanh mà doanh nghiệp và
những người ở tuyến trên trong mạng lưới chỉ tập trung lôi kéo dụ dỗ người tham
gia và chủ yếu được hưởng lợi từ khoản đóng góp của thành viên mới, trái ngược
với bản chất xây dựng hệ thống và nhận lợi ích kinh tế từ việc bán lẻ hàng hóa cho
người tiêu dùng của bán hàng đa cấp chân chính.
1.2.2. Đặc điểm:
Theo như Điều 39- Luật cạnh tranh 2004 thì bán hàng đa cấp bất chính là
một loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh
được hiểu là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái
với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể

11


gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
khác hoặc người tiêu dùng. [1]
Như vậy bán hàng đa cấp bất chính sẽ mang những dấu hiệu của sự lừa dối,
không trung thực, không tuân thủ các quy tắc cơ bản của nền kinh tế, trái ngược với
bản chất thật của kinh doanh, và mục đích tiềm ẩn là thu lợi bất chính.
Thứ nhất, bán hàng đa cấp bất chính mang bản chất của sự chiếm dụng vốn
Xét về bản chất bán hàng đa cấp bất chính là một mô hình gây quỹ trong một
nhóm người được tổ chức thành nhiều cấp, theo đó thành viên cấp dưới với số
lượng đông hơn sẽ góp tài chính cho các thành viên cấp trên. Những người tại cấp
dưới cũng là những thành viên mới tham gia nhóm thực chất sẽ phải gánh chịu toàn

bộ khoản lợi mà cấp trên được hưởng. Để thu lại khoản tiền đã mất và thu được lợi
nhuận, những người này buộc phải tìm kiếm, lôi kéo thêm người mới trở thành
thành viên cấp dưới đóng tiền cho họ. Tức là lúc này, doanh nghiệp không hề chú
trọng đến việc bán lẻ sản phẩm và hoa hồng mà người tham gia được hưởng cũng
không phải từ bán lẻ hàng hóa mà là từ tuyển dụng thêm người vào mạng lưới. Sự
chiếm dụng vốn thể hiện qua việc doanh nghiệp yêu cầu người tham gia phải đặt
cọc hoặc phải trả một số tiền để được hưởng quyền tham gia mạng lưới.
Tuy các doanh nghiệp bán hàng đa cấp cũng đưa ra lý do biện minh, rằng đó
là các biện pháp đảm bảo an toàn, uy tín trong kinh doanh, là sự ràng buộc vật chất
để đảm bảo người tham gia phải tôn trọng uy tín của doanh nghiệp và sản phẩm,
nhưng dưới góc độ lý thuyết cạnh tranh thì hành vi đó vẫn thể hiện bản chất chiếm
dụng vốn bởi các lập luận sau:
- Người tham gia mạng lưới không phải thành viên của doanh nghiệp, họ chỉ
là người tiếp thị giới thiệu bán lẻ sản phẩm, doanh nghiệp không ký gửi hàng hóa để
bán giùm. Người tham gia thực hiện bán lẻ sản phẩm và ăn chênh lệch nhờ việc
mua đi bán lại hàng hóa. Vì vậy nghĩa vụ đặt cọc là không cần thiết;
- Mối liên hệ lợi ích giữa doanh nghiệp và người tham gia chỉ phát sinh khi
phân phối viên bán được hàng hóa, được hưởng phần chênh lệch giá sản phẩm, vì
vậy khi bắt đầu trở thành thành viên của mạng lưới đa cấp, chưa có sự đảm bảo
chắc chắn nào rằng họ sẽ nhận được tiền hay bất kỳ lợi ích nào, do đó sự ràng buộc
vật chất là điều kiện gây bất lợi với họ.
- Về bản chất, đặt cọc trong các giao dịch phát sinh trên thị trường là biện
pháp bảo đảm vật chất mà các chủ thể phải thực hiện với nhau nhằm đảm bảo cho
việc thực hiện một nghĩa vụ; việc trả tiền là nghĩa vụ thanh toán của một chủ thể
cho việc được hưởng một lợi ích ngang giá. Vì vậy, việc doanh nghiệp bán hàng đa
12


cấp buộc người tham gia phải thực hiện nghĩa vụ nói trên như một điều kiện để xem
xét việc có được tham gia mạng lưới hay không là trái với bản chất của việc đặt cọc

hay của nghĩa vụ trả tiền trong các thương vụ.
Tính bất hợp pháp của bán hàng đa cấp bất chính ở chỗ nguồn tiền phải đóng
góp với lý do không hề thỏa đáng, số tiền đó không được lưu thông đúng với
nguyên lý hoạt động vốn có, mà nó bị chiếm dụng lọt vào tay những kẻ mưu mô,
muốn hưởng lợi dễ dàng.
Thứ hai, bán hàng đa cấp bất chính phản ánh chiến lược dồn hàng cho
người tham gia.
Theo Luật cạnh tranh 2004, việc dồn hàng cho người tham gia thể hiện qua
hành vi doanh nghiệp bán hàng đa cấp yêu cầu người tham gia phải mua một số
lượng hàng hóa ban đầu để được hưởng quyền tham gia mạng lưới; hoặc không cam
kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để
bán lại.
Mua lại hàng hóa là việc người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp khi
chấm dứt hợp đồng có thể được trả lại hàng hóa đã mua từ doanh nghiệp và được
nhận lại số tiền tối thiểu bằng 90% số tiền đã bỏ ra mua hàng hóa sau khi đã trừ các
chi phí hợp lý. Các hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh không có giá trị thực
hoặc có giá trị thấp hơn nhiều so với giá bán hàng. Khi mới đăng ký vào hệ thống,
người tham gia chưa hiểu rõ về tính năng, công dụng của sản phẩm, chưa biết sản
phẩm đó có thuộc nhu cầu của phân phối viên hay không? Việc bắt ép mua sản
phẩm như vậy là chiến lược dồn hàng bất hợp pháp, việc mua bán không dựa vào
nguyên tắc cung cầu. Ngoài ra, việc không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là
90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại cũng đi ngược lại với đặc
trưng của bán hàng đa cấp chân chính. Phân phối viên chỉ là người tiếp thị bán lẻ
sản phẩm, bán lẻ chứ không phải đại lý bao tiêu phân phối hàng hóa cho doanh
nghiệp, kiếm lời qua việc mua đi bán lại và hưởng mức chênh lệch giá cả, nếu
lượng hàng họ đã mua không bán được hoặc bán không hết thì doanh nghiệp phải
mua lại với mức giá hợp lý không gây thiệt hại quá lớn cho người tham gia. Mức
giá hợp lý là 90% giá người tham gia mua vào, 10% giá đã mua là phần giá trị bị
thất thoát nếu họ không tiêu thụ được sản phẩm, đây là mức giá phù hợp có ý nghĩa
thúc đẩy phân phối viên tích cực mở rộng các mối quan hệ và tiếp thị bán sản phẩm.

Việc thực hiện hành vi đi ngược lại tính chất bán hàng đa cấp lành mạnh khiến
người tham gia vô tình trở thành những con buôn ôm hàng hoặc không họ sẽ trở
thành người tiêu dùng bất đắc dĩ.
13


Thứ ba, bán hàng đa cấp bất chính tập trung vào việc lôi kéo, dụ dỗ người
tham gia.
Đây chính là hệ quả của tính chất chiếm dụng vốn, tuyến trên trong mạng
lưới không nhận tiền hoa hồng từ kết quả tiếp thị bán lẻ sản phẩm của họ và của
người tham gia bán hàng cấp dưới trong mạng lưới họ xây dựng mà hưởng lợi qua
việc đóng góp của người mới tham gia. Vì vậy để được hưởng càng nhiều tiền đồng
nghĩa việc họ phải tích cực dụ dỗ nhiều người đăng ký vào hệ thống.
Khi việc tuyển dụng xây dựng mạng lưới không phục vụ việc bán hàng hóa
thì hệ thống bán hàng đa cấp đó bị coi là không bình thường. Tuyển dụng không
đào tạo bán hàng mà chỉ hướng dẫn tuyến dưới làm sao lôi kéo thật nhiều người
mới không thể hiện toàn diện các mặt của phương thức kinh doanh này, hoạt động
chỉ nghiêng về một bên sẽ dẫn tới tình trạng tiêu cực. Hệ thống càng lớn thì chi phí
duy trì nó càng cao, cùng với đó là việc không tập trung bán hàng sẽ dẫn tới tình
trạng khủng hoảng tài chính cho doanh nghiệp bán hàng đa cấp, đe dọa lợi ích
người tham gia. Số tiền doanh nghiệp phải trả cho người tham gia sẽ tăng dần theo
cấp số gia tăng của số lượng người mới tham gia. Lấy tiền của người này trả cho
người kia là thực chất hoạt động của bán hàng đa cấp bất chính, nguồn thu duy nhất
của họ bây giờ không phải từ sản phẩm họ kinh doanh mà từ những người được họ
tuyển dụng, lòng tham muốn được hưởng lợi ích lớn khiến họ dùng mọi cách lôi
kéo bạn bè, người thân cùng họ tham gia công việc bất hợp pháp đó, do nhận thức
hạn chế của nhân dân nên khi thấy công việc đơn giản mà thu nhập lại cao, họ càng
hào hứng và tích cực mời gọi nhiều người khác, vô hình chung mạng lưới được hình
thành nhanh nhưng mô hình hoạt động chỉ là hình tháp ảo.
Bên cạnh việc lấy tiền của thành viên tuyến dưới trả cho tuyến trên, doanh

nghiệp cũng tìm cách để sản phẩm của mình được tiêu thụ, nhưng không tiếp thị
hay nâng cao chất lượng hàng hóa, mà bằng cách đặt ra điều kiện về mức hàng hóa
tối thiểu phải mua với người muốn gia nhập, mức giá của sản phẩm thì cao ngất và
không tương xứng với giá trị mà sản phẩm mang lại hoặc nâng cao mức phí gia
nhập với thành viên mới.
Thứ tư, bán hàng đa cấp bất chính mang tính lừa dối.
Nói bán hàng đa cấp bất chính mang tính lừa dối bởi cách thức hoạt động của
loại kinh doanh biến tướng này chỉ nhằm lôi kéo người tham gia, để dụ dỗ được
nhiều thành viên mới đương nhiên họ phải đưa ra nhiều lợi ích béo bở, nhưng vấn
đề ở ở đây chính là những lợi ích đó không tồn tại thực tế và lâu bền. Bán hàng đa
cấp lành mạnh và bất chính đều sử dụng sức mạnh của cấp số nhân, nghĩa là mạng
14


lưới càng về sau càng rộng ra. Cả hai đều có dòng tiền từ dưới lên và dòng giá trị
khác từ trên xuống. Điểm khác nhau cơ bản chính là ở chỗ: nếu như trong kinh
doanh chân chính giá trị đi xuống là sản phẩm hoặc dịch vụ có chất lượng cao,
mang lại giá trị đích thực tương xứng với đồng tiền bỏ ra thì trong hình tháp ảo, giá
trị đi xuống là một giá trị ảo, chỉ có giá trị tạm thời trong nội bộ hình tháp hoặc
không có giá trị gì. Cũng có thể là một giá trị có tác dụng nhỏ hơn, không tương
xứng với đồng tiền bỏ ra. Trong hình tháp ảo, mọi người tham gia chỉ với mục đích
có mã số hoạt động để từ đó có quyền giới thiệu (lôi kéo) người khác mà không
quan tâm đến sản phẩm có hiệu quả hay không, giá cả có phù hợp hay không. Chính
vì thế thu nhập của người vào trước chỉ có thể dựa trên đóng góp của người vào sau.
Đây là hình thức lừa người lân cận và đến một lúc nào đó thì tan vỡ. Trong phương
thức kinh doanh hợp pháp, người ta thường nói nhiều về luân lý, nhân cách, ý chí,
còn trong hình tháp ảo người ta thường đưa ra những lời hứa hẹn làm giàu nhanh
chóng và dễ dàng.[19]
Việc đưa ra thông tin gian dối nhằm mục đích dụ dỗ lôi kéo người khác tham
gia bằng cách tác động vào bản tính hám lợi của con người, muốn được lợi nhiều

nhưng không muốn bỏ ra nhiều công sức; Ngoài ra thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm khi
đưa ra những thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa cũng là mục
đích của hành vi lừa đảo nêu trên. Thường sản phẩm sẽ được giới thiệu rất thần kỳ,
nâng cao giá trị thực để người mua sẵn sàng bỏ ra số tiền không đáng, mua về sử
dụng và đa số là thất vọng về sản phẩm đó. Đối tượng hướng tới của bán hàng đa
cấp bất chính nghiêng về những người thiếu hiểu biết xã hội, vì thiếu hiểu biết nên
họ dễ dàng tham gia hệ thống mặc dù dấu hiệu bất hợp lý thể hiện rõ ràng. Đến khi
phát hiệu ra sự bất ổn trong phương thức hoạt động, có người từ bỏ hệ thống, nhưng
có người vẫn cố tình tiếp tục dụ dỗ lôi kéo thành viên mới, họ lợi dụng lòng tin của
bạn bè người thân để trục lợi cá nhân, đạo đức lối sống cũng trở thành một vấn đề
cần được quan tâm hơn nữa.
Các thông tin gian dối được truyền bá bằng nhiều cách thức, chủ yếu là rỉ tai
truyền miệng, cách thức đơn giản hiệu quả, không tốn chi phí và đặc biết khó kiểm
soát, quản lý hơn cả. Sức mạnh của hệ thống, tầm ảnh hưởng của tuyến trên, sự thần
kỳ của sản phẩm là những thứ họ dùng để lôi kéo, càng thuyết phục, càng hấp dẫn
càng tốt. Sự lừa dối này không chỉ làm giảm uy tín của người tham gia trước, nguy
hiểm hơn nó đe dọa đến lợi ích chính đáng của người tiêu dùng, đặc biệt khi hàng
hóa là thực phẩm, thuốc chữa bệnh, những sản phẩm liên quan sức khỏe con người,
hậu quả gây ra có thể vô cùng nghiêm trọng.
15


Không chỉ lừa dối về phương thức tham gia, lừa dối về sản phẩm, lừa dối về
mức lợi ích trong tương lai, nhiều doanh nghiệp còn lừa dối người tham gia về
nguồn gốc, về hệ thống nhân sự, về tầm vóc cũng như sức ảnh hưởng rộng khắp của
mình. Điển hình là vụ việc công ty bán hàng đa cấp Liên kết Việt lấy danh nghĩa Bộ
Quốc phòng, cùng đội ngũ quản lý cấp cao mạo danh cấp tướng trong quân đội, tất
cả thông tin về tổ chức đều là lừa đảo, quy mô hoành tráng, rất khó để nghi ngờ. Kế
hoạch lừa đảo vô cùng tinh vi này đã khiến hàng nghìn người dân tin theo và trở
thành “con mồi” của họ.

1.3. Dấu hiệu nhận biết doanh nghiệp bán hàng đa cấp chân chính và doanh
nghiệp có hành vi bán hàng đa cấp bất chính:
Một doanh nghiệp bán hàng đa cấp đáng tin cậy trước hết phải là doanh
nghiệp thực hiện việc bán hàng một cách thực chất. Tức là hoạt động cơ bản của
doanh nghiệp đó phải là hoạt động tiêu thụ hàng hóa chứ không phải các hoạt động
tuyển dụng, thu hút đầu tư... Một doanh nghiệp bán hàng đa cấp chân chính, thực
hiện đúng chức năng bán hàng, cần phải đáp ứng các tiêu chí cơ bản sau đây:
- Có sản phẩm tốt: Nguồn gốc ra đời của hoạt động bán hàng đa cấp xuất phát từ
việc một người có một sản phẩm tốt, người đó tìm cách chia sẻ về sản phẩm tốt của
mình và qua đó bán sản phẩm đó cho mọi người trong xã hội để mọi người cùng
được sử dụng sản phẩm tốt đó. Chỉ khi có sản phẩm tốt thì doanh nghiệp bán hàng
đa cấp mới có cơ sở để giới thiệu đến người tiêu dùng và người tiêu dùng mới tin
tưởng mua sản phẩm đó.
- Đào tạo nhà phân phối tốt: Nhà phân phối là những người giúp doanh nghiệp
giới thiệu và bán hàng cho người tiêu dùng. Do đó, muốn thực hiện chức năng bán
hàng của mình một cách tốt nhất, doanh nghiệp bán hàng đa cấp cần phải đào tạo kỹ
càng cho nhà phân phối của mình để họ hiểu về sản phẩm và có kỹ năng bán hàng
tốt nhất.
- Chủ yếu tập trung bán hàng, không tập trung tuyển dụng: Hoạt động bán hàng
đa cấp được thực hiện qua hệ thống nhà phân phối. Do đó, song song với việc bán
hàng, doanh nghiệp cũng phải tuyển dụng và xây dựng hệ thống nhà phân phối. Tuy
nhiên, việc bán hàng phải được chú trọng hàng đầu. Việc tuyển dụng cũng chỉ nhằm
phục vụ cho mục tiêu bán hàng. Doanh nghiệp bán hàng đa cấp chân chính phải tồn
tại dựa trên doanh thu từ hoạt động bán hàng. Khi hàng hóa được tiêu thụ, doanh
nghiệp có doanh thu để duy trì hoạt động đồng thời có tiền để chi trả hoa hồng cho
nhà phân phối.
16


Dấu hiệu nhận biết doanh nghiệp bán hàng đa cấp không đáng tin cậy:

- Chủ yếu tập trung tuyển dụng: Khi bạn được giới thiệu về một doanh nghiệp bán
hàng đa cấp, bạn cần quan sát các hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp đó.
Nếu doanh nghiệp đó chỉ chú trọng tổ chức các buổi tuyển dụng mà không tổ chức
đào tạo bán hàng cho nhà phân phối thì bạn cần cẩn trọng. Đối với một doanh
nghiệp bán hàng đa cấp chân chính, việc tuyển dụng sẽ không có ý nghĩa gì, không
mang lại lợi ích gì nếu những người được tuyển dụng không bán hàng. Bởi vì chỉ có
bán hàng mới giúp hàng hóa được tiêu thụ, mang về doanh thu cho doanh nghiệp,
và từ đó nhà phân phối được trả hoa hồng.
- Khi tuyển dụng, doanh nghiệp bằng các cách khác nhau khiến người tham gia
mua hàng hoặc đóng tiền: Khi bạn được mời tham gia một doanh nghiệp bán hàng
đa cấp, bạn cần lưu ý nếu bạn phải bỏ ra một khoản tiền để mua hàng hoặc để đặt
cọc. Bạn tham gia để có cơ hội sử dụng sản phẩm phù hợp với bản thân hoặc trở
thành nhà phân phối để đi bán hàng cho doanh nghiệp. Việc tiêu dùng hoặc bán
hàng hóa của doanh nghiệp là tùy thuộc nhu cầu, khả năng của bản thân bạn, doanh
nghiệp không được tìm cách làm cho bạn phải bỏ tiền ra mua để được tham gia.
Nhiều doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính chỉ tồn tại nhờ số tiền những
người mới gia nhập bỏ ra mua hàng. Công ty thu lợi nhuận từ khoản tiền này và
cũng dùng khoản này để chia hoa hồng cho những người có công tuyển dụng.
Những doanh nghiệp như vậy sẽ không tồn tại được khi không tuyển thêm được
người hoặc khi người được tuyển không mua hàng, vì họ không chú trọng bán hàng,
không có nguồn doanh thu từ việc tiêu thụ hàng hóa.
- Hứa hẹn những khoản lợi nhuận hấp dẫn: bán hàng đa cấp chỉ là một hình thức
bán hàng, phân phối hàng hóa, không phải là một hình thức đầu tư, do đó bạn cần
cân nhắc khi nghe những lời hứa hẹn hấp dẫn về lợi nhuận. Bạn chỉ thực sự có thu
nhập nếu bạn thực sự bán được hàng hóa và những người do bán giới thiệu bán
được hàng hóa.
- Sản phẩm không tốt: Bản chất của hoạt động bán hàng đa cấp là giới thiệu, chia
sẻ về các sản phẩm chất lượng tốt để bán các sản phẩm đó cho người tiêu dùng.
Như vậy, nếu sản phẩm không tốt thì bạn không có gì để giới thiệu, chia sẻ và do đó
bạn sẽ khó bán được hàng, khó có thể kiếm được tiền hoa hồng.

- Không chú trọng bán hàng, tiêu thụ sản phẩm: Bán hàng đa cấp là một hình
thức bán hàng. Do đó, một doanh nghiệp được gọi là doanh nghiệp bán hàng đa cấp
nhưng không chú trọng bán hàng, tiêu thụ sản phẩm thì bạn cần suy nghĩ doanh
17


nghiệp đó có tồn tại được lâu dài hay không, và tồn tại dựa trên nguồn doanh thu
nào.
Những dấu hiệu nhận biết trên đều được đúc kết từ thực tiễn tồn tại, hoạt
động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp lành mạnh và doanh nghiệp bán hàng đa
cấp bất chính. Đây đều là những dấu hiệu có thể thấy rõ qua quan sát thực tế, là yếu
tố quan trọng giúp người tiêu dùng, người sắp trở thành thành viên của một mạng
lưới đa cấp bất kỳ không bị “sập bẫy” của những đối tượng luôn mong muốn trục
lợi bất chính.
Tiểu kết chương 1.
Như đã phân tích trên đây, bán hàng đa cấp quả thực là một phương thức
kinh doanh đầy tiềm năng nhưng cũng ẩn chứa nhiều cám dỗ, cạm bẫy bên trong.
Vốn là cơ hội để phát triển, nhưng bán hàng đa cấp lành mạnh đã bị biến tướng
nhiều so với bản chất thực mà người sáng tạo ra nó mong muốn. Gía trị ảo của đa
cấp bất chính đem lại như một tấm gương làm tăng kích thước, phản ánh những thứ
không tồn tại, hậu quả mà phương thức kinh doanh biến tướng này gây ra ngày càng
nghiêm trọng cả về quy mô và tính chất. Trước mối nguy hại đang đe dọa nền kinh
tế và xã hội này, chúng ta rất cần một hệ thống quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng; đồng thời ngăn chặn, trừng trị hành vi vi phạm.

18


CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TRẠNG VỀ HÀNH

VI BÁN HÀNG ĐA CẤP CÓ DẤU HIỆU BẤT CHÍNH TẠI VIỆT NAM

2.1. Một số quy định của Pháp luật về hoạt động bán hàng đa cấp có dấu hiệu
bất chính tại Việt Nam:
2.1.1. Văn bản pháp luật quy định về bán hàng đa cấp tại Việt Nam:
Bán hàng đa cấp du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ 21, chỉ qua
vài năm đầu hoạt động, phương thức kinh doanh này đã phát triển nhanh chóng và
không còn xa lạ với thị trường kinh tế nước ta. Tuy chứa nhiều ưu thế để phát triển
nhưng mô hình bán hàng đa cấp lại dễ dàng phát sinh những biến tướng, vi phạm,
gây mất ổn định môi trường kinh doanh và thiệt hại cho người tiêu dùng. Từ thực
tiễn nêu trên, các nhà làm luật nhận thấy sự cần thiết cho ra đời một cơ chế pháp
luật nhằm điều chỉnh hoạt động của phương thức kinh doanh này, tạo ra một hành
lang pháp lý thích hợp bảo vệ người tiêu dùng và duy trì mục đích tốt đẹp ban đầu
cảu nó. Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều được đưa ra khi thảo luận ban hành các
đạo luật nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn là hướng tới một cơ chế dân chủ, tự do và
hợp Hiến.
Trước ngày 01 tháng 7 năm 2014, bên cạnh Luật Cạnh tranh 2004, bán hàng
đa cấp được điều chỉnh bởi Nghị định số 110/2005/NĐ-CP về quản lý hoạt động
bán hàng đa cấp, Nghị định số 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực cạnh tranh, Thông tư số 19/2005/TT-BTM hướng dẫn một số nội dung quy
định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP và Thông tư số 35/2011/TT-BCT sửa đổi bổ
sung Thông tư số 19/2005/TT-BTM.
Mặc dù là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên và cao nhất điều chỉnh đối
với hoạt động bán hàng đa cấp nhưng Luật Cạnh tranh chỉ đưa ra khái niệm về bán
hàng đa cấp và quy định cấm một số hành vi bán hàng đa cấp bất chính bị cấm mà
chưa đưa ra cơ chế quản lý đối với hoạt động này.
Sau gần 10 năm thực hiện, các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý bán
hàng đa cấp đã bộc lộ một số bất cập, hoạt động bán hàng đa cấp xuất hiện nhiều
biến tướng theo chiều hướng tiêu cực, nhiều chủ thể lợi dụng các khe hở của pháp
luật để thực hiện các hành vi bất chính khiến cho hoạt động bán hàng đa cấp ngày

càng trở nên xấu đi trong mắt cộng đồng xã hội và gây khó khăn cho công tác quản
lý nhà nước đối với hoạt động này. Từ thực tiễn đó, năm 2014, Chính phủ đã ban
19


×