Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG BAO bì trong đồ hộp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.3 KB, 40 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC-THỰC PHẨM

TIỂU LUẬN
CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT ĐỒ HỘP
Đề tài:

KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG BAO BÌ

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thanh Bình
LỚP:

ĐHTP7A

Nhóm: 16
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2015


BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC-THỰC PHẨM

TIỂU LUẬN
CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT ĐỒ HỘP
Đề tài:

KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG BAO BÌ
DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT
1


2
3
4

TÊN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ THÚY AN
LÊ THỊ LIÊM
NGUYỄN THỊ THÚY QUỆ
DƯƠNG THỊ THẢO

MSSV
11042271
11049721
11045801
1104

GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thanh Bình
LỚP:

ĐHTP7A

Nhóm: 16
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2014

Nhận xét của GVHD
..............................................................................................................................................


..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................

..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
TP. Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2015


Mục lục


Công nghệ sản xuất đồ hộp


GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

CHƯƠNG 10
KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG VẬT CHỨA ĐỰNG
10.1. GIỚI THIỆU
Có nhiều yếu tố điều chỉnh mà người quản lý và nhân viên cần thực thi để đồ
hộp thực phẩm cơ bản giữ yêu cầu về chất lượng và an toàn của bao bì, vỏ và nguyên
liệu làm hộp được sử dụng trong đồ hộp thực phẩm. Trong thực tế, việc kiểm soát
được chia sẻ cho từng đối tác trong chuỗi sản xuất, từ sản xuất vật liệu đến hộp và nắp,
kể cả thiết bị sản xuất. Mỗi nhân tố đều đóng một vai trò quan trọng, và mỗi nhân tố
đều phụ thuộc vào đối tác trước để sản xuất một sản phẩm có chất lượng phù hợp với
các thông số kỹ thuật và yêu cầu của người dùng cuối. Việc đánh giá và kiểm tra sản
phẩm cuối cùng chỉ có thể giám sát chất lượng và không thể thay thế cho việc kiểm
soát ở từng giai đoạn của quá trình sản xuất .
Ngoài việc thực hiện điều khiển khác nhau, điều mà cần được thực hiện trong
các nhà máy đồ hộp, bao bì cũng nên được hiểu rõ về các thuộc tính bề mặt quan trọng
cái mà chỉ có thể được kiểm soát bằng vật liệu làm bao bì , hộp, nắp. Trước khi thảo
luận về những yếu tố quan trọng khác nhau đối với từng loại hộp, có một số hướng
dẫn chung áp dụng cho tất cả.
Các chương trình đánh giá và lấy mẫu thích hợp đều nên được sử dụng cho sản
xuất vật liệu bao bì cũng như bao bì để đảm bảo rằng hộp và nắp là phù hợp với thông
số kỹ thuật và bất kỳ yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền được sử dụng.
Vật liệu, hộp và nắp bị lỗi không nên được sử dụng. hộp rỗng là đặc biệt dễ bị
hư hại do hoạt động bị lỗi ở phần dỡ hàng không tốt hoặc lỗi trong điều khiển băng tải
để rót hộp và đóng nắp.Việc kiểm soát nên được sử dụng để ngăn chặn sự xuất hàng
hoặc bán các sản phẩm bị lỗi.
Hộp chứa, bao bì, vật liệu bao bì bẩn không nên được sử dụng. Ngay trước khi
rót hộp, các hộp chứa rắn nên được làm sạch tự động bằng các tia nước hoặc không
khí. Đồ hộp thủy tinh cũng có thể được làm sạch bằng máy hút ( ví dụ chân không).
Các bao bì sử dụng trong các dây chuyền rót hộp vô trùng không nên được rửa với

nước, trừ khi chúng được sấy khô hoàn toàn trước khi đến tiệt trùng.

Page 5


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

Trong suốt quá trình vô hộp, ghép mí hoặc dán nhãn cần được giữ sạch sẽ và
khô thoáng để đảm bảo việc đóng nắp đạt yêu cầu.
Đặc biệt chú ý nên quan tâm đến các quá trình hoạt động, bảo dưỡng, kiểm tra
định kỳ và điều chỉnh các thiết bị đóng nắp. Thiết bị ghép mí và đóng nắp nên được
trang bị và điều chỉnh cho mổi loại vật chứa và bao bì sử dụng. Ghép mí và đóng nắp
phải chặt và chắc chắn, và phải đáp ứng các yêu cầu của người sản xuất bao bì, người
sản xuất đồ hộp và các cơ quan có thẩm quyền.
Đối với ghép mí nóng, các hộp nên được đặt song song theo hàng một hoặc
hàng đôi để gia nhiệt. Nhiệt độ hộp phải được duy trì ở một nhiệt độ xác định trên toàn
diện tích hàn. Áp suất nội tại trong hộp phải đủ nhanh và áp suất cuối cùng phải đủ cao
để cho phép sản phẩm vô tình dính nơi hàn có thể được ép ra trướcc khi bắt đầu kết
dính.

10.2. METAL CONTAINERS – BAO BÌ KIM LOẠI
Các nhà máy đồ hộp sản xuất các hộp kim loại và dùng chúng trong một quá
trình phức tạp, liên quan đến rất nhiều quá trình tự động ở tốc độ rất cao ( khoảng 3001000 hộp/ phút). Đối với các sản phẩm thực sự đáng tin cậy, việc điều khiển có thể
thực hiện ở mỗi công đoạn.
Bề mặt của hộp kim loại về cơ bản phụ thuộc vào kim loại và lớp sơn phủ. Mỗi
loại kim loại sử dụng nên chuyên biệt cho mỗi loại bao bì và cách thức mà nó được sử
dụng. Cũng nên có các bản thông số kỹ thuật chính xác cho cả quy trình và nơi sản
xuất, bao gồm việc mô tả quá trình xử lý và hệ thống điều khiển được sử dụng bởi

người sản xuất để đảm bảo việc đáp ững và duy trì các thông số kỹ thuật. Cần có sự
hợp tác giữa nhà sản xuất vật liệu và người sản xuất đồ hộp.
Tiêu chí quản lý chất lượng được thiết lập ở mỗi gia đoạn của quá trình sản xuất
và sử dụng bao bì kim loại. Tất nhiên các thông số này yêu cầu các thiết bị phức tạp và
các kiểm tra tốn thời gian, điều vốn không thích hợp trong quản lý trực tiếp hoặc khi
cần một đánh giá chuyên sâu. Do đó cần có những hỗ trợ riêng cho từng trường hợp,
những kết quả đặc biệt hoặc các yêu cầu chuyên sâu phụ thuộc vào người quản lý
muốn bao bì sử dụng làm gì. Các điều kiện kinh tế cũng được thiết lập giữa khách
hàng và nhà sản xuất và cần có sự đồng thuận giữa hai bên .
10.2.1. QUẢN LÝ NGUYÊN LIỆU THÔ
Page 6


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

10.2.2.1. Những vật liệu mang tính kim loại
Các thuộc tính kim loại được dùng là độ dày và độ cứng, theo sau bởi các loại
hình và tính thống nhất của thép hoặc hợp kim nhôm và các lớp phủ. Độ dày được điều
khiển bởi nhà sản xuất kim loại và được theo dõi bởi nhà sản xuất hộp. Các sản phẩm
không hợp cách nên được kiểm tra và loại bỏ tại công đoạn sản xuất. Hoạt động sửa
chữa nên được làm để ngăn ngừa vật liệu lỗi đi đến công đoạn tiếp theo khi chúng
không còn dễ bị phát hiện.
Các thành phần và phương pháp sản xuất xác định độ dày được xác định bằng
đo độ cứng bề mặt trên thiết bị tương tự Rockwell thiết bị R 30T. Các thành phần xác
định tính nóng chảy của hợp kim nhôm hoặc thép và có thể được đánh giá dựa trên các
kiểm tra lực kéo tiêu chuẩn.
Hiệu quả, sự đồng đều và độ dày của sơn trên vỏ thép được điều chỉnh bằng
thời gian lắp ghép. Các phép đo thực tế yêu cầu kiểm tra phá mẫu bởi các thiết bị

phòng thí nghiệm tinh vi.
Các lỗi kim loại ( bao gồm trong kim loại hoặc tại bề mặt) có thể ảnh hưởng
xấu đến bề mặt hộp chứa, chúng cần được phát hiện và hạn chế trong quá trình sản
xuất lớp kim loại. Các thiết bị quét điện tử có thể xác định các lỗi có thể nhìn thấy
trong sản xuất hoặc các hoạt động cắt tiếp theo.

10.2.1.2. Keo và sơn hữu cơ
Việc điều chỉnh chất lượng nằm chủ yếu ở người sản xuất. Trong giai đoạn lắp
ghép, độ nhớt, yếu tố quan trọng, thường được kiểm tra để đảm bảo sự phù hợp với
các đặc điểm kỹ thuật định trước để sử dụng, trong một vài trường hợp, là ở thể khô.
Sau khi lắp ghép nên kiểm tra:
-

Độ dày
Độ cứng và độ mịn của bề mặt
Các phản ứng trùng hợp sơn hoặc bảo dưỡng (tức là, giám sát liên tục của
chu kỳ nhiệt).

Trong một số trường hợp kiểm tra lại bằng mô phỏng quá trình đóng hộp nhiệt
được thực hiện và trường hợp khác kiểm nghiệm độ bền dung môi được dùng.
Những điều nói trên không nhằm mục đích xử lý hết các thuộc tính, chất lượng
phải được kiểm soát bởi các nhà sản xuất các nguyên liệu theo yêu cầu của các nhà sản

Page 7


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình


xuất. Nó đã được giới hạn trong những thuộc tính mà có thể trực tiếp ảnh hưởng đến
hiệu quả các bao bì tiếp theo.

Hình 10.1. kích thước chủ yếu của ba mảnh hộp (thân và nắp) (Biton và Petit, 1991).

Hình 10.2. kiểm tra đo đường kính bên ngoài của một vỏ (Biton và Petit, 1991).
10.2.2. SẢN XUẤT HỘP

Việc sản xuất hộp sử dụng một dụng cụ trên dây chuyền kiểm tra và tại phòng
thí nghiệm, và các phép đo đảm bảo rằng sản phẩm cuối sẽ đáp ứng yêu cầu của bao
bì. Nó bắt đầu với việc đảm bảo rằng các nguyên liệu đáp ứng được các thông số kỹ
thuật. Sự tin tưởng vào các nhà cung cấp nguyên vật liệu chắc chắn là một điều kiện
tiên quyết chính trong sự đảm bảo này.

10.2.2.1. Kích thước
Các kích thước vật lý của những khoảng trống cho thân và nắp cũng như các
đĩa dán và hai mảnh hộp rất quan trọng. Các máy cắt phải được thiết lập đúng và kiểm
tra thực hiện định kỳ để đảm bảo rằng các thông số kỹ thuật kích thước được duy trì.
Kích thước của các hộp rỗng và vỏ (hình. 10.1) cũng rất quan trọng và phải được kiểm
soát cẩn thận vì sai lệch có thể ảnh hưởng xấu đến việc đạt được một mối ghép mí kín.
Page 8


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

Mô tả chi tiết các công nghệ sản xuất có thể được tìm thấy trong các tác phẩm của
Morgan (1985).
Một số kích thước có thể được đo trực tiếp bằng các công cụ khi sử dụng, tuy

mất thời gian và công sức đáng kể. Trong trường hợp như vậy, đồng hồ đo "đi" (go)
hay "không đi"(no go) có thể được sử dụng, như thể hiện trong hình 10.2 ở đầu hộp.

10.2.2.2. Đặc tính
Ở các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sản xuất, đặc tính bao bì được đánh giá
trong việc bảo vệ chống ăn mòn, độ kín, và sức bền cơ học của nó.
Ngoài các vỏ thiếc hoặc crom / crom oxit, lớp phủ hữu cơ cũng tăng tính bảo
vệ chống ăn mòn. Lớp phủ hữu cơ được áp dụng cho các bề mặt bên trong của các mối
nối bên, keo dính là rất quan trọng và được đánh giá trước hoặc sau quá trình ghép mí
nhiệt bằng một giấy kiểm tra tính kết dính với một số điểm trước đó. Một yếu tố quan
trọng là tính liên tục hoặc rỗ khí. Điều này có thể được đánh giá trực quan bằng một
phản ứng điện hóa của các hợp chất (ví dụ, đồng sulfate), hoặc bằng cách đo thông qua
một dòng điện áp thấp trong một chất điện dẫn đặc biệt thích hợp cho việc xác định,
trong đó kim loại tráng đóng vai trò là một trong những điện cực. Lớp sơn ở phía bên
mối hàn hoặc thiếc hàn thường phun lên trên thân ống khi nó được tạo thành.
Sức chịu đựng với áp suất (ví dụ, trong nội bộ hay bên ngoài) chủ yếu phụ
thuộc vào độ dày và tính chất của kim loại và được củng cố bởi lớp lót trên thân.

10.2.2.3. Mối nối cạnh bên
Các mối hàn cạnh bên đang nhanh chóng trở nên ít sử dụng, thảo luận về chất
lượng mối nối bên sẽ được giới hạn phần được hàn.
Việc kiểm tra trực quan vật lý của một số tính chất đặc trưng có thể cung cấp
một đánh giá khá chính xác chất lượng mối hàn, do đó tránh được sự phức tạp hơn và
tốn thời gian của các phương pháp phòng thí nghiệm. Các tính năng:
- Cấu trúc mối hàn
- Sự không chồng chéo của các mối hàn
- Sự chồng chéo với mối hàn trước
- Chất đùn
- Hình dạng chung của mối hàn
- Mặt song song

Page 9


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

- Màu sắc
- Khuyết tật
Cấu trúc hoàn hảo đạt được khi hai nửa chồng chéo và được kết hợp đầy đủ để
tạo thành một cấu trúc thống nhất. Khi dòng điện chạy qua các mối hàn từ các điện
cực và áp suất được tạo ra, kim loại nóng lên, mềm ra, và không tạo tinh thể nhờ vậy
mà mặt chồng lên nhau ban đầu biến mất và một mối hàn tốt được tạo thành. Nhiệt
không đủ không tạo ra được một mối hàn, trong khi quá nhiều nhiệt khiến các mối hàn
giòn. Dưới những điều kiện nhất định, do thiết lập máy không chính xác, khu vực
nóng và lạnh có thể xảy ra trong vòng một khối. Hình 10.5 cho thấy một mặt cắt ngang
được phóng to của một mối hàn có phản ứng tổng hợp tốt. Do tính chất tuần hoàn của
các mối hàn hiện nay, mức độ của sự hợp nhất cũng thay đổi theo chiều dọc xuống trụ
hộp, tạo ra một mô hình gợn sóng đặc trưng từ sự thụt dòng của mối hàn.
Trong khi phản ứng chỉ có thể được xác định một cách chính xác bằng các xét
nghiệm trong phòng thí nghiệm, những đánh giá đáng tin cậy có thể được lấy từ kiểm
tra trên dây chuyền hàn khác nhau. Các thông tin độ bền được thực hiện bằng kiểm tra
độ bền, chẳng hạn như các bài kiểm tra bóng và nén, và được bổ sung bằng cách quan
sát trực quan phản ứng không hàn và hàn chồng.

Trong các thử nghiệm bóng, một quả bóng được gắn vào vật tải trong một rãnh
trục (Hình. 10.3). Chiều cao bóng được điều chỉnh để gây áp lực lên các mối hàn. Các
trục hàn được đặt trên trục gá với các mối hàn trung ương nằm trên khe cắm. Mối hàn
được nhấn mạnh khi bóng được đẩy dọc theo khe của một búa đập khí nén. Bất kỳ bất
thường nào sẽ trở nên rõ ràng bởi mối hàn tách ra. Chiều cao bóng thích hợp và đường

kính chính xác của trục gá hỗ trợ rất quan trọng trong việc thu thập thông tin tối đa từ
thử nghiệm này. Hiệu quả của các thử nghiệm bị giảm khi tăng đường kính hộp vì độ

Page 10


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

căng lớn hơn trong thành thân, làm giảm sức căng tại chỗ. Nó không có nghĩa là các
mối hàn đủ mạnh nếu các mối hàn không bị phá vỡ, và có thể là các thiết bị đòi hỏi cài
đặt lại. Các thử nghiệm bóng như vậy, cho thấy độ bền mối hàn dọc theo phần chính
của thân. Các chế độ của bất kỳ thất bại phải được đánh giá cẩn thận để xác định xem
liệu các mối hàn là nóng hoặc lạnh. Điều này đặc biệt như vậy kể từ khi thế giới
chuyển xu hướng sang hơn trong chế độ cắt ghép hơn là tách thành từng miếng như
hàn.
Hai phần hàn vào chồng lên nhau, đó là dấu hiệu cho thấy nhiệt hàn chưa đủ.
Tuy nhiên, nếu vật liệu tách ra, đó có thể là biểu hiện của mối hàn nóng hoặc sự lắp
vào không khít của thiết bị kiểm tra bóng. Các thử nghiệm bóng nên được sử dụng như
là một phần của việc đánh giá mối hàn thông thường trong sản xuất và các thiết lập
cũng cần được kiểm tra thường xuyên. Tuy rằng nó chỉ có thể xác định các mối hàn
lạnh, nó sẽ không phải luôn luôn phân biệt các mối hàn bên và cho rất ít thông tin về
các mối hàn khác.
Ngoài kiểm tra của độ bền mối hàn, còn có các kiểm tra đánh giá độ dẻo (độ dễ
uốn) của mối hàn. Mặc dù là khó khăn hơn để thực hiện và giải thích, kết quả dễ phần
biệt hơn. Trong thử nghiệm này, ở cuối trục có một khe và nằm giữa mối hàn , thon
dần về phía mối hàn, như thể hiện trong hình 10.4. Phần khe sau đó uốn cong ra phía
ngoài từ mỗi nối để tạo thành một miếng kim loại nhỏ (tab). Các chuyển động liên tục
và tạo một cặp kìm. Khả năng đạt được một đường rách đầy phụ thuộc vào kỹ năng

của người làm. Nói chung việc vỡ hoặc tách trong quá trình bóc tách cho thấy một mối
hàn bị lỗi. Mối hàn được tước sạch không có các cạnh vụn trên đường tách hoặc trên
trục được coi là một mối hàn tốt.
Mối hàn bị tước ra để kiểm tra xác định mức độ phun ra và bắn mạnh. Nó được
uốn cong bằng cách quấn dải hàn quanh chính nó để đánh giá tính dẻo hoặc giòn, đó là
biểu hiện của sự quá nóng của mối hàn. Việc giải thích đòi hỏi kinh nghiệm trong việc
đánh giá sự xuất hiện mối hàn và độ dẻo và đánh giá chặt chẽ bất kỳ thất bại nào.
Các tính chất của vật liệu có thể ảnh hưởng đến khả năng thực hiện một đường
rách hoàn chỉnh. Ví dụ, việc rạn nứt có thể xảy ra tại một điểm nơi các tạp chất sót lại
trong thép qua các mối hàn. Trong trường hợp này, chất lượng mối hàn vẫn chưa đạt
yêu cầu, nhưng điều này chỉ có thể được xác định bằng cách tham khảo các kiểm tra

Page 11


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

khác như kiểm tra bóng và kiểm tra trực quan. Mặc dù nó khó có thể đạt được kết quả
có ý nghĩa, điều này không làm giảm giá trị của nó trong việc thiết lập tính an toàn của
mối hàn. Các thử nghiệm đường rách nên là một phần của kiểm tra thường xuyên trên
mối hàn hình trụ như là một phần của kiểm tra đảm bảo chất lượng dây chuyền. Nó
cần phải được thực hiện trên cả các đầu và cuối mối hàn để cung cấp thông tin tối đa
về các mối hàn và xác định bất kỳ khu vực không đạt tiêu chuẩn.
Một mối hàn tốt phải có một đầu mắt điểm hàn phẳng vuông và một cái đuôi
nhỏ ở phần cạnh. Khi nhiệt độ mối hàn tăng, hình dạng điểm mắt hàn có xu hướng trở
nên giống như một cái móng ngựa và sự đùn ép được tăng lên.
Khoảng cách giữa các mắt điểm hàn là quan trọng nếu có sự đồng bộ dọc theo
toàn bộ chiều dài của mối hàn. Ở hai đầu của hình trụ kết hợp với sự tiếp liệu chảy ra

từ cuộn hàn, điểm mắt hàn có thể được, hoặc nén lên đến một khoảng cách ngắn hơn
hoặc quét lên để thêm rõ ràng – một mắt điểm hàn dài. Các mối hàn nóng hay giòn có
thể dẫn vì đầu tiếp liệu vào quá nhiều. Ở những nơi khác dọc theo hình trụ hàn rõ ràng
bất thường có thể xảy ra vì nhiều lý do. Tốc độ hàn quá mức nhanh hoặc do lỗi điện có
thể tạo mắt điểm hàn thon dài hoặc kéo dài, mà kết quả tạo một mối hàn lạnh giữa mắt
điểm hàn.
Bề mặt bên trong và bên ngoài của mối hàn nên song song với nhau để đảm bảo
mối hàn và áp lực tiếp xúc với nhau tại điểm trung gian. Điều này chỉ có thể được
kiểm tra đầy đủ bằng việc kiểm tra một mặt cắt chung phóng đại của mối hàn. Bề mặt
mối hàn không song song thường được kết hợp với việc đùn lên cao trên một bề mặt
mối hàn và không hợp nhất với các nhóm khác.
Một khiếm khuyết liên quan đến việc kết thúc của đường nối hàn khi có đuôi
cá. Điều này được định nghĩa như là vật liệu kéo dài theo chiều dọc và vượt quá đầu
còn lại của mối hàn. Nó có thể gây ra vấn đề với tay hộp, mí ghép của hộp và mối hàn
kép. Sự ngắn mạch xảy ra khi dây hàn tiếp xúc với hình trụ tại một điểm xa mối hàn,
tiếp giáp với các cạnh cắt, do đó làm giảm sức mạnh sẵn có cho mối hàn. Nó thường
có thể được nhìn thấy mà không phóng đại, giống như một đường nâu dọc theo mối
hàn cách mép cắt khoảng 0,5 mm. Đây là một khiếm khuyết nghiêm trọng có thể gây
ra hỏng của hộp hàn, đặc biệt là đối với các sản phẩm có áp lực như đồ uống có ga

Page 12


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

hoặc các loại bình phun. Các lỗi có thể được xác định bằng các kiểm tra trực quan,
kiểm tra bóng hay kiểm tra ép xé.


Các mối hàn hình dấu phẩy hoặc hình chuối là các lỗ hổng nhỏ có thể tồn tại
trong mối hàn. Chúng kéo dài từ gần mép cắt về phía trung tâm của mối hàn và từ tâm
của các gợn lại dọc theo điểm mắt hàn. Một số mối hàn hình dấu phẩy nằm hoàn toàn
trong các mối hàn, trong khi số khác có thể được hiển thị như là một lỗ hoặc vết nứt
trên bề mặt mối hàn. Các mối hàn hình dấu phẩy phải tránh bởi vì chúng tạo vị trí cho
việc ăn mòn nhanh và chúng có thể nứt vỡ ra khi tạo thành chuỗi hoặc nằm tại cổ thắt,
dẫn đến rò rỉ.
Các đầu trục hàn trải qua những sức ép khác và biến dạng tại cổ thắt, mép và
mí ghép hộp, vì vậy chúng yêu cầu các kiểm tra đặc biệt. Ngoài ra, điểm cuối mối hàn
có thể biểu hiện các đặc điểm khác nhau và các lỗi đó có yêu cầu đánh giá đặc biệt.
Các thử nghiệm được thiết kế đặc biệt cho việc đánh giá của các đầu và mép là các thí
nghiệm mép, hình nhỏ và hình nón.
Trong các kiểm tra mép, máp thân hình trụ được nén lại, như thể hiện trong
hình 10.6, với các mối hàn xoay ra mặt ra ngoài. Các trụ sau đó được nhẹ nhàng uốn
cong để san bằng nó khoảng 5mm, kết quả. Không có biến dạng vĩnh viễn. Các vật
nặng bổ sung có thể gây ra sự chia tách hoặc chia đôi mối hàn trong mép. Điều này có
thể yêu cầu kiểm tra dưới độ phóng đại.
Các mép bên cạnh mối hàn cũng có thể được ép với một hình nhỏ, do đó, gọi
là, kiểm tra sức bền tại điểm.
Trong các thử nghiệm hình nón, hình nón được buộc vào cuối của trục để ấn
mạnh các mối hàn ở cuối. Do đó độ sâu của sự thâm nhập và mức độ căng trước khi
Page 13


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

hư hỏng có thể được đánh giá. Rất khó khăn để thiết lập các đặc tính có thể chấp nhận
được trên các mối hàn nóng với bài kiểm tra này và giá trị của nó là ở phần cuối của

mối hàn lạnh. Kiểm nghiệm này ít được sử dụng vì những vấn đề của thiết lập các giới
hạn đặc tính.
Mối hàn nóng có tạo lỗi dễ gãy lộn xộn, không còn dấu hiệu tại bề mặt chung
ban đầu ban đầu. Mối hàn lạnh thường sẽ thể hiện phần chia tách hai bề mặt tấm trên
bề mặt chung. Công tác phòng chống sự chia tách hoặc chia đôi mép là điều quan
trọng để ngăn chặn các lỗ rỉ siêu nhỏ tại mí ghép của hộp và việc kiểm tra thường
xuyên về chất lượng sản xuất là cần thiết.
10.2.3 SỰ HÀN KÍN HOÀN TOÀN
Mỗi hộp được sản xuất phải chịu một thử nghiệm rò rỉ áp suất, với những hộp
không thể giữ một áp suất không khí quy định bị loại bỏ. Các hộp bị loại bỏ được đưa
ra kiểm tra thêm để xác định nguyên nhân của sự thất bại và việc khắc phục được thực
hiện, nếu có yêu cầu. Ngoài ra, việc các mối nối đôi và hai đầu có tính năng dễ dàng
mở được, được đặc biệt quan tâm.

10.2.3.1. Mối nối đôi
Các mối nối đôi được dùng bởi các nhà sản xuất hộp và các hộp phải chịu sự
kiểm tra, đánh giá 1 cách thường xuyên.
Trong suốt thời gian sản xuất, kiểm tra không hủy mẫu cần được thường xuyên
thực hiện để phát hiện các khuyết tật bên ngoài bao bì. Vào các khoảng thời gian thích
hợp đủ để đảm bảo việc đóng nắp, các nhà điều hành, giám sát việc đóng nắp, hoặc
những người khác có thẩm quyền kiểm tra trực quan việc đóng nắp nên kiểm tra các
mối hàn đôi được lựa chọn ngẫu nhiên từ mỗi đầu mí ghép của hộp. Các quan sát phải
được ghi lại. Kiểm tra thị giác việc đóng nắp nên được thực hiện ngay lập tức sau một
vụ kẹt trong một máy đóng nắp, sau khi điều chỉnh của máy đóng nắp, hoặc sau khi
khởi động máy sau một thời gian dài tắt máy. Sự xuất hiện của các khuyết tật mối may
đôi là một dấu hiệu của mí ghép có vấn đề.

Page 14



Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

Việc kiểm tra trực quan bao gồm các phép đo chiều cao mối hàn đôi, độ dày và
đầu lỗ hàn. Các kết quả của các phép đo phải được ghi lại, tốt hơn dựa trên một tiêu
chuẩn kiểm soát chất lượng được xây dựng đúng cách (QC),mẫu biểu đồ đó có cả giới
hạn chấp nhận được và không chấp nhận được ghi. Các mối hàn đôi được sử dụng
trong các ý sau đây được minh họa trong hình 10.7. tất cả các phép đo phải được thực
hiện tới 0,1 mm gần nhất (0,001 in) bằng cách sử dụng một micromet hoặc thước chia
thang. Micromet đặc biệt thích hợp cho các phép đo mối hàn có sẵn.
Độ dài mối hàn đôi (tức là, chiều rộng, chiều cao), được chỉ định bởi W hình
10.7 là dấu hiệu của một sự giảm chồng chéo lên. Độ dài mối hàn là một phần phụ
thuộc vào tính chất cuộn rãnh và mức độ ghép mí hộp.
Độ dày mối hàn đôi , S trong hình 10.7, là một chỉ số của hai mối hàn kín và
không được vượt quá mức được đưa ra trong các thông số kỹ thuật. Như một quy luật
chung, độ dày mối nối đôi không nên vượt quá hơn 33% độ dày của năm lớp kim loại
trong hình của chúng ,cho phép ghép mí hộp.
Mũi khoan là khoảng cách từ mép trên của mối nối đôi đến đáy, A trong hình
10.7.
Các điểm mà tại đó các phép đo được thực hiện nên được đánh dấu trên hộp để
chúng có thể được xác định ngay cả sau khi mối nối bị xé xuống. Đo đạc bổ sung có
thể được thực hiện tại điểm mà một khiếm khuyết mối nối đôi, như mối nối nhọn, chúc
xuống, tạo hình chữ V hay độ dày quá nhiều, được tìm thấy.

Page 15


Công nghệ sản xuất đồ hộp


GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

Các phép đo lường mối nối trên hộp tròn nên được thực hiện tại ba điểm xung
quanh chu vi, khoảng 1200 ngoài và ít nhất 1 cm (0,5 in) đi từ phía chéo bên mối nối
của một ba- mảnh hộp.
Các kích thước mối hàn bên ngoài của hộp không tròn được đo bằng cách sử
dụng phương pháp tương tự như đối với hộp tròn, tuy nhiên, do hình dạng khác biệt
của hộp không tròn, phép đo phải được thực hiện tại các điểm bổ sung, như được chỉ
ra trong hình 10.8.
Các khuyết tật bên trong mối hàn không phải ngay lập tức có thể gây ra một độ
dày tăng lên một cách rõ ràng tại các điểm khiếm khuyết. Thông tin bổ sung có thể tìm
thấy bằng cách dùng micromet đo quanh mối hàn đôi để phát hiện sự khác biệt trong
độ dày, ghi nhận và đánh dấu lại bất kỳ sự tăng lên đáng kể nào. Đó có thể là đối
tượng để kiểm tra kỹ hơn.
Các nhà sản xuất bao bì đã phát triển các kỹ thuật để đo các kích thước mối hàn
phụ thuộc vào loại kim loại, độ dày và tính chất của cả thân và vỏ, cũng như kích
thước và hình dạng hộp. Người sử dụng hộp nên áp dụng các thông số kỹ thuật để
kiểm soát các hoạt động ghép mí hộp, theo chỉ dẫn của nhà sản xuất hộp.

Page 16


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

Phá hủy vết rách – các cuộc kiểm tra nên được thực hiện bởi một cá nhân có
thẩm quyền trong khoảng thời gian vừa đủ tại mỗi trạm ghép mí hộp để đảm bảo duy
trì tính toàn vẹn mối hàn. Tất cả kết quả và đo lường và xu hướng của chúng là rất
quan trọng trong việc đánh giá chất lượng mối nối cho mục đích kiểm soát.

Tài liệu tham khảo mô tả các phương pháp kéo rách một mối hàn đôi được đưa
ra trong các tài liệu tham khảo.
Các điều kiện tiên quyết để đạt được mối hàn đôi toàn vẹn là:
Hộp và nắp đúng hình thành và không bị hư hại, đặc biệt là các mép bên,

Khống có các vật liệu khác trong khu vực ghép mí hộp (ví dụ, sản phẩm,hợp
chất hàn hoặc niêm phong dư thừa, nguyên liệu khác).
Chế độ nén ép của các khóa mép bên và mép uốn để tạo thành các móc thân
(BH) và móc vỏ (CH).
Các móc BH và CH được trùng lắp đủ để đảm bảo rằng các hợp chất niêm
phong được giữ đúng theo sự nén lại các mối hàn kín. Sự chồng chéo tối thiểu chấp
nhận đối với các loại hình dạng và kích thước hộp được chỉ ra trong bảng 10.1. Nếu sự
chồng chéo dưới mức tối thiểu là không thể chấp nhận và các hành động khắc phục
cần được thực hiện, nhưng nó không có nghĩa rằng các hộp bị khiếm khuyết. Một hộp
Page 17


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

không có sự trùng lặp ở bất kỳ điểm nào trong các mối hàn đôi mới được coi là khiếm
khuyết.
Các mối hàn đôi phải đủ chặt chẽ để giữ hợp chất bịt kín chịu nén, nhưng
không quá chặt khiến tấm kim loại bị biến dạng cấu trúc.

10.2.3.2. Thử nghiệm độ rò rỉ
Ngoài việc 100% kiểm tra áp lực rò rỉ trên dây chuyền được thực hiện bởi các
nhà sản xuất bao bì, các thử nghiệm độ rò rỉ của bao bì thường được giới hạn trong các
tình huống mà trong đó có nghi ngờ về sự rò rỉ hoặc sự có mặt các khuyết tật, mà có

thể ảnh hưởng xấu đến tính toàn vẹn. Những xét nghiệm này đòi hỏi cần ứng dụng
trình độ chuyên môn và thiết bị phòng thí nghiệm để đưa các kết quả. Các bài kiểm tra
rò rỉ thường hướng tới các mối nối, nơi dễ rò rỉ nhất. Các thử nghiệm được coi là đáng
tin cậy là những mô phỏng các điều kiện hiện nay đối với quá trình nhiễm vi sinh vật,
từ môi trường vào hộp. Hai phương pháp – là những thử nghiệm rò rỉ chân không siêu
nhỏ (NFPA, 1972; HPB, 1987) và các thử nghiệm hydrogen sulfide (AFNOR, 1992) thường được sử dụng, sau này ngày càng phổ biến ở châu Âu.
Phần nhãn cần được loại bỏ và thân hộp được xác định là thích hợp. Một hình
tròn được khoan, sử dụng một máy cắt đĩa- Bacti hoặc thiết bị khác phù hợp, được cắt
trong vòng khoảng 7 mm (1/4 in) từ mối nối vào một đầu của can. Đối với hai nắp
hộp, việc mở được cắt ở đáy dưới, nơi kết thúc các mối nối đôi. Các thành phần bên
trong được lấy ra, hộp được rửa sạch bằng nước nóng, sau đó ngâm bằng một dung
dịch chất tẩy rửa đang sôi trong ít nhất một giờ rồi rửa lại trong nước nóng. Các bồn
siêu âm cho thấy là rất hiệu quả để làm sạch hộp. Các hộp sau đó được sấy khô ở 35 400C (95 - 1040F) trong 12 giờ. Không nên dùng nhiệt độ cao hơn hoặc các dung môi
để tăng tốc quá trình sấy, vì phương pháp như vậy có thể ảnh hưởng xấu đến chất bịt
kín trong mối nối.
Trong các thử nghiệm rò rỉ chân không siêu nhỏ, chân không được kéo vào một
hộp mở có thể chứa một lượng nhỏ nước; độ rò rỉ được biểu thị bằng sự có mặt của
một dòng bong bóng liên tục. Một tấm thủy tinh mica kết hợp với miếng đệm có kích
thước thích hợp (NSPA, 1972) có thể được dùng niêm phong hộp để chân không có
thể được rút ra và các bề mặt bên trong được kiểm tra nhờ sự trợ giúp của một nguồn
ánh sáng bên ngoài. Khoảng chân không từ 15 – 25 inch (104 mm) thủy ngân có thể
Page 18


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

được sử dụng cho hộp tròn có đường kính dưới 4 1/16 trong (118mm). Nếu khoảng
chân không lớn hơn 20 inch thủy ngân có thể gây ra sự biến dạng của các hộp lớn

hơn.
Lớp niêm phong giữa hộp, miếng đệm và tấm thủy tinh được tạo ra bởi chân
không, mặc dù trong một số trường hợp cần làm ướt cả hai bề mặt của miếng đệm để
niêm phong. Bề mặt lớp niêm phong phải tương đối bằng phẳng, nhẵn nều không lớp
niêm phong sẽ không được tạo thành. Các hộp bị phồng không thích hợp dùng vì lý do
này.
Các nguồn sáng bên ngoài thông qua tấm mi-ca để chiếu sáng phần phía trong,
trong khi hộp đang dần nghiêng và xoay để nhúng các bề mặt bên trong lần lượt vào
nước. Lỗ rò rỉ xuất hiện dưới dạng một chuỗi các bong bóng khí rất nhỏ bắt nguồn từ
một địa điểm. Nước cần được loại khí trước khi được đặt vào trong hộp chứa bằng
cách đuổi khí hoặc nấu sôi. Việc bổ sung một chất hoạt động bề mặt làm giảm sức
căng bề mặt của nước giúp tạo điều kiện hình thành bong bóng. Tuy nhiên, tránh dùng
các chất tạo nhiều bọt. Ban đầu, chân không mới đưa vào, bong bóng có thể xuất hiện
từ không khí bị mắc kẹt trong mối nối, nhưng điều này không phải là biểu hiện của sự
rò rỉ trừ khi các bong bóng tiếp tục xuất hiện hoặc có sự tăng kích thước khi độ chân
không được tăng lên. Một biến thể của thử nghiệm rò rỉ chân không siêu nhỏ là sử
dụng một dung dịch nhuộm thâm nhập vào hoặc thuốc nhuộm huỳnh quang để xác
định các lỗ hổng tiềm năng. Đối với điều này, các thuốc nhuộm hoặc dung dịch
fluorescein được dùng một cách cẩn thận để làm ướt mối nối, nhưng không quá mức
nhanh, mà sẽ nhỏ giọt hoặc lây lan sang các bề mặt khác. Các chỗ giao nhau của các
mối nối lên gấp đôi trên thân là điểm mà các dung dịch nhuộm cần được hướng vào .
Cần đủ thời gian cho sự thâm nhập và tạo chân không và các bề mặt bên trong của hộp
được quan sát để tìm bằng chứng về màu sắc hoặc huỳnh quang. Cần nói rằng một thử
nghiệm dùng thuốc nhuộm có thể phát hiện lỗ rò rỉ 10-7 cm.

Page 19


Công nghệ sản xuất đồ hộp


GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

Kiểm tra hydrogen sulfide được điều chế theo cách mô tả trước đó. Một hình
chữ nhật giấy lọc ( cắt theo kích thước thân trong hộp) ngâm tẩm với một dung dịch
5% chì acetate và sấy khô được đặt vào hộp đảm bảo các bề mặt bên trong hộp được
bao phủ hoàn toàn. Điều quan trọng là giấy lọc phải dính chặt với các mối giao trên
thân. Các hộp sau đó được đóng lại bằng cách dán một đĩa thép không gỉ lên lỗ
mởbằng Epoxy - loại keo được coi là phù hợp nhất. Các hộp đóng lại sau đó được đặt
vào một buồng (hình. 10.12) hoặc hút chân không. Chúng được tiếp xúc với hydrogen
sulfide ở 2-7 psig (0,1-0,5 bar) trong một thời gian định trước. Vào cuối của kiểm tra,
sunfua hydro được loại bỏ bằng cách dùng chân không. Hydrogen sulfide chất là độc
hại, ăn mòn; Vì vậy, cần dùng máy bơm chân không nước và tiến hành lọc tẩy trong tủ
hút.
Hộp được mở ra và giấy lọc được kiểm tra. Đốm đen của chì sunphua trên giấy
chỉ ra vị trí của bất kỳ lỗ rò rỉ nào và kích thước của các lỗ rò rỉ đó.

10.3. BAO BÌ THỦY TINH VÀ NẮP CHÚNG
10.3.1. BAO BÌ THỦY TINH RỖNG

Ngoài tuân thủ nghiêm ngặt thiết lập cho các loại thủy tinh đặc biệt và các quy
định của quy trình sản xuất, các nhà sản xuất thủy tinh thành bao bì cần hoàn thành
một loạt các kiểm tra thị giác, điện tử, và cơ khí.
Page 20


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

10.3.1.1. Kiểm tra liên tục 100% dây chuyền

Để mô phỏng tác động đối kháng, áp suất được đẩy thông qua cao su hoặc nhựa
ép cuộn vào các bức tường dọc bao bì. Áp lực được thiết lập để bằng hoặc vượt quá
sức chị của chai.
Đường kính và độ đồng đều của lỗ mở được kiểm tra bằng máy đo nhựa. Chai
không phù hợp được tự động loại bỏ.
Ánh sáng phản xạ được sử dụng để xác định vị trí và loại bỏ mảnh vụn hoặc
kiểm tra trên các chai, đặc biệt là trên các cổ chai, vai, gót chai, và đáy.
Độ dày thành liên tục được đo và những chai không đáp ứng các thông số kỹ
thuật bị loại bỏ.
Chiều cao là một kích thước quan trọng và cần được kiểm soát. Chai không đáp
ứng các đặc điểm kỹ thuật cao sẽ được tự động bị loại bỏ.

10.3.1.2. Mẫu kiểm tra
Các lớp ủ được xác định phù hợp với tiêu chuẩn ASTM (1969, 1971a, 1971).
Các chất kháng sốc nhiệt được xác định bằng cách phơi bày để ngâm nước
nóng và lạnh như quy định trong các tiêu chuẩn ASTM (1971).
Các mẫu được kiểm tra áp suất bởi một máy tính với các thùng chứa đầy nước.
Áp suốt đang dùng lên một điểm nhất định hoặc để phá hủy mẫu.
Sức chứa được xác định trong mẫu.
Tính trực giao được đo từ dưới đấy - lên cạnh thành.
Kiểm tra bổ sung được thực hiện để đảm bảo rằng bề mặt niêm phong và quai
thủy tinh không có khiếm khuyết.
10.3.2. VỎ KIM LOẠI (NẮP)

Các chi tiết bảo dưỡng kim loại bao gồm các chi tiết kỹ thuật được thiết kế phụ
thuộc vào các thiết lập máy tính và đảm bảo rằng đạt được các kích thước quan trọng .
Việc áp dụng mài đồng nhất trên cả hai bề mặt, mài chính xác là mối quan tâm hàng
đầu đối với hộp. Trong khi công ty đóng hộp có thể thực hiện lấy mẫu kiểm tra và thử
nghiệm nắp, họ cũng phụ thuộc vào các nhà cung cấp để cho ra chất lượng phù hợp.
10.3.3. NẮP ĐÓNG


Page 21


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

Một số cuộc kiểm tra không phá hủy mẫu và hủy mẫu thường xảy ra, đã cho
thấy sự hữu ích trong việc đánh giá chất lượng nắp đóng, và được liệt kê trong bảng
10.2. Các kết quả của tất cả các kiểm tra và xét nghiệm đều được ghi lại.

10.3.3.1. Kiểm tra không trực tiếp phá hủy mẫu
Nắp nên về cơ bản nâng cấp và cũng hạ xuống khi hoàn thiện; nó không nên
được nghiêng lên hoặc nghiêng xuống (Fig. 10.13). Điều này có thể được xác định
bằng mối quan hệ giữa các hạt chuyển động với dẫu niêm phong. Nắp PT có bề ngang
không vượt 3/32 inch. Quai của chai có quai nằm dưới cổ thủy tinh.
Các bản nắp nên được nén xuống và chỉ còn sự hiện diện của chân không.
Khoảng kéo lên (pull-up) được định nghĩa là khoảng cách giữa các vạch trên
quai nắp và vạch (khuôn nối) trên cổ chai. . Nó được đo bằng gia số 1/16 inch theo
chiều kim đồng hồ từ khuôn nối là dương (+), ngược lại là âm (-). Giới hạn bình
thường cho một quai hoặc nắp vặn là 0 đến 8/16 inch. Loại nắp thức ăn trẻ em có một
miếng đệm plastisol là -1/16/16 - +6/16, thêm các miếng đệm cao su là -3/16. - +8/16
inch. Giá trị âm cho thấy sự quá vạch trên nắp. Rõ ràng, một nắp nghiêng lên, kết quả
của một quai nắp mà không bám dưới cổ thủy tinh (Hình. 10.13). một lug lệch cũng sẽ
được biểu hiện khi kiểm tra bên ngoài nhưng không phải là rõ ràng là nó có nghiêng
không. Nó được gây ra bởi ép quai xuống cổ thủy tinh bằng các vạch niêm phong lên
nắp.

Page 22



Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

10.3.3.2. Kiểm nghiệm hủy mẫu
Khoảng không nội tại trên đầu chai, được đo bằng một thiết bị chân không
thâm nhập, phải nằm trong phạm vi chỉ định. Chân không là một yếu tố quan trọng
trong niêm phong hoàn toàn nắp PT.
Nhiệt độ sản phẩm nội tại nên được xác định. While dial - loại nhiệt kế thường
được sử dụng cho mục đích này, có thể kiểm tra lỗi nếu không thường xuyên hiệu
chỉnh. Nhiệt kế kỹ thuật số có các loại cặp nhiệt điện hoặc điện trở bạch kim là nhạy
cảm hơn, cân bằng nhanh hơn và chính xác hơn và đáng tin cậy hơn. Nhiệt độ sản
phẩm là một yếu tố quan trọng đối với khoảng không trên đầu chai, đặc biệt là trong
trường hợp của nắp PT, cũng như trong quá trình xử lý nhiệt.
Trong hầu hết các trường hợp, khoảng không đầu chai nên không ít hơn 6% thể
tích chai ở nhiệt độ niêm phong. Mối quan hệ của thể tích không gian đầu chai được
thiết lập từ sản phẩm rót và nhiệt độ, nó có thể được xác định bằng cách đo độ sâu.

Page 23


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

Khi nắp được lấy ra để kiểm tra các miếng đệm và đánh giá dẫu vết các thành
phần, nó thường được tiến hành sau khi kiểm tra độ an toàn và loại bỏ phần vỏ xoắn.
Các miếng đệm nên bó chặt và bằng phẳng, nó không nên quá kéo, thắt, hoặc bị phá

vỡ bất cứ lúc nào. Có dấu vết có thể nhìn thấy trên thủy tinh thể nhìn thấy. Đối với các
loại quai hoặc vặn nắp, dấu vết sau khi chế biến và làm mát phải sâu hơn ngay sau khi
đóng nắp, nhưng không quá sâu. Nhìn chung không có dấu vết có thể nhìn thấy trên
lớp cao su và chỉ có thể nhìn thấy dấu vết các miếng đệm cao su trên nắp, tuy nhiên,
sau khi chế biến và làm mát, dấu vết đồng đều có thể nhìn thấy nên có mặt. Đối với
các miếng đệm plastisol trong nắp quai cho thức ăn trẻ em, cần có một dẫu vết xung
quanh nắp ở cả phía trên và phía của khu vực niêm phong nơi nối thủy tinh và các
miếng đệm.
Trị số an toàn chỉ áp dụng cho các nắp quai hoặc vặn nắp và nên được thực hiện
bởi các nhân viên được đào tạo và kinh nghiệm theo định kỳ trong từng giai đoạn sản
xuất trước và sau khi làm lạnh. Một vạch thẳng đứng trên nắp và một vạch tương ứng
trên chai được thực hiện như minh họa trong hình 10.14. nắp bật chiều kim đồng hồ
cho đến khi chân không bị phá vỡ và sau đó bổ sung lại cho đến khi các lớp đệm chạm
cổ thủy tinh và nắp đóng có quai chạm đến thủy tinh hoặc cho đến khi nắp đóng chỉ là
vào vạch chặt chẽ. Trị số an toàn là khoảng cách giữa hai vạch thẳng đứng đo trong gia
số 1/16 inch (fig.10.13). nếu vạch trên nắp nằm bên phải vạch trên chai, giá trị là
dương và âm nếu các vạch trên nắp nằm bên trái của vạch trên chai.

Page 24


Công nghệ sản xuất đồ hộp

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Bình

Đối với kết quả tốt, các giá trị an toàn nắp bốn quai nên 3,16-6,16 inch và 2/16
-. 5/16 cho nắp sáu quai. Giá trị cao hơn cho thấy một bao bì an toàn với một mức độ
trên yêu cầu và cần được đưa trở lại trong phạm vi để hiệu suất tổng thể là tốt nhất.
Các giá trị dưới yêu cầu, và các hành động khắc phục cần được thực hiện. Sau khi chế
biến và làm mát, phạm vi nắp 4 quai thay đổi 1/16 -3/16 inch và 0/16 - 2/16 cho nắp 6

quai do hợp chất rửa trong xử lý nhiệt. Do sức nóng và áp lực, nắp sẽ được đẩy sát vào
cổ thủy tinh, làm thay đổi sức căng quai trên thủy tinh.

10.3.2.3. Thiết bị phụ trợ
Miếng đệm đầu có thể được lắp để thiết lập không gian đầu tự động. Cần cài đặt
hợp lý để đảm bảo rằng chúng không làm hỏng cổ chai sản phẩm và có thể ảnh hưởng
xấu đến sự toàn vẹn nắp.
Thiết bị dò độ nghiêng nắp có thể được lắp đặt tại các máy đóng nắp để loại bỏ
các bao bì lỗi. chúng có thể là in dấu hiệu cả các nhà vận hành máy và nhân viên kiểm
tra chất lượng.
Máy dò được sử dụng để xác định mức độ ép của các tấm nắp sau khi đóng nắp,
đẩy ra bất kỳ bao bì có chỗ lõm dưới mức tối thiểu quy định.

10.3.2.4. Tần suất kiểm tra và cỡ mẫu
Bất kỳ kế hoạch lấy mẫu nào đều phải được dựa trên cơ sở thực tế về mặt thống
kê. Nó yêu cầu số lượng mẫu và khoảng thời gian phải phù hợp với tất cả các tình
Page 25


×