MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam có một quá trình lịch sử trên bốn ngàn năm, trong đó thì hình
thức sinh hoạt văn hóa cộng dồng đóng vai trò tích cực và có ý nghĩa rất quan
trọng trong quá trình phát triển văn hóa của dân tộc. Qua các thời đại từ thời
nguyên thủy cho đến ngày nay, dân tộc Việt Nam chúng ta có truyền thống đấu
tranh dựng nước và giữ nước suốt mấy ngàn năm nay. Trải suốt chiều dài lịch sử
đó, dân tộc ta đã tạo nên nhiều sinh hoạt văn chất và tinh thần khá phong phú, đa
dạng và đậm đà bản sắc dân tộc bị thử thách, bị tàn phá. Kẻ thù muốn đồng hóa
nền văn hóa của chúng ta, cho đến nay nền văn hóa của chúng ta không những
không bị đồng hóa mà bản sắc dân tộc càng được khẳng định hơn.
PGS Lê Trọng Vũ trong bài “Lễ hội trong đời sống nhân dân xưa và
nay” đã viết: “Những ai từng lưu ý tới nhu cầu vận động – đều có thể thấy lễ
hội – điểm sáng hội tụ của các hoạt động văn hóa nghệ thuật đặc sắc của nhân
dân đáp ứng được nhiều mặt của nhu cầu văn hóa ấy”.
Trong đó lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hóa sản phẩm
tinh thần của người dân được hình thành và phát triển theo quá trình lịch sử
của người Việt Nam. Lễ hội truyền thống Việt Nam vẫn giữ một vai trò rất
quan trọng trên tất cả các lĩnh vực là sự kiện thể hiện truyền thống quí báu đó
của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng thiêng, gắn với địa danh là những
vị thần, những người có thật trong lịch sử hay huyền thoại. Hình tượng những
vị thần linh đã hội tựu những phẩm chất cao đẹp của con người. Đặc biệt là lễ
hội giữ vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, truyền thống yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, giáo dục truyền
thống vẻ vang trong quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông qua các
thời kì lịch sử. Mặt khác, nội dung của những chủ trương, đường lối, chính
sách, các phong trào thi đua của Đảng và Nhà nước được lồng ghép vào các
hoạt động của lễ hội, trở nên gần gũi với nhân dân. Thông qua các hình thức
1
và hoạt động sáng tạo, sinh động, hấp dẫn của lễ hội, giúp quần chúng hiểu
được, dễ dàng tiếp nhận và thực hiện hiệu quả hơn.
Ngày nay, khi mà Việt Nam mở rộng giao lưu hội nhập với các nền
kinh tế quốc tế, khi mà nền kinh tế thị trường cùng những ảnh hưởng của nó
tác động sâu sắc đến đời sống chính trị xã hội, văn hóa Việt Nam được tiếp
xúc với nhiều nền văn hóa khác tạo nên những luồng gió mới thì con người và
văn hóa cũng có những chuyển biến không ngừng. Tuy nhiên, các lễ hội hiện
nay đang tồn tại nhiều bất cập: như đang dần mất đi nét truyền thống, hoạt
động thương mại hóa lễ hội,… với những tác động tích cực và tiêu cực của
toàn cầu hóa, nguy cơ diễn biến hòa bình hiện nay, để ghóp phần ngăn ngừa
những tác động xấu đến tư tưởng, dư luận trong quần chúng và để củng cố
niềm tin của dân đối với Đảng thì việc nâng cao vai trò của lễ hội trong công
tác tư tưởng là rất cần thiết. Bên cạnh những vai trò của lễ hội Lam Kinh ở
tỉnh Thanh Hóa đã làm được thì nó cũng đang biểu hiện nhưng hạn chế cần
phải khắc phục. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu là “ Vai trò của lễ
hội Lam Kinh trong công tác tư tưởng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay” nhằm
nâng cao vai trò của lễ hội Lam Kinh trong công tác tư tưởng nói riêng, trong
đời sống nhân dân và sự phát triển của tỉnh nói chung.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Việc tìm hiểu về đặc điểm và thực trạng hoạt động của lễ hội Lam
Kinh tại tỉnh Thanh Hóa, giúp bản thân tác giả hiểu rõ hơn về lễ hội văn hóa
trên mảnh đất quê hương mình.
- Đồng thời, với việc nghiên cứu sẽ đưa ra các giải pháp nhằm: Nâng
cao vai trò của lễ hội Lam Kinh trong công tác tư tưởng ở tỉnh Thanh Hóa
hiện nay. Và tác động vào ý thức của người dân địa phương trong việc bảo
tồn và phát triển các giá trị văn hóa lịch sử.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
2
- Tổng quan một số vấn đề lí luận về lễ hội và vai trò của lễ hội trong
đời sống và trong công tác tư tưởng.
- Làm rõ tình hình hoạt động và vai trò của lễ hội Lam Kinh trong công
tác tư tưởng, từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao vai trò của nó trong
công tác tư tưởng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, ghóp phần xây dựng và phát
triển tỉnh Thanh Hóa giàu mạnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của lễ hội Lam Kinh trong công tác tư
tưởng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lí luận
Dưạ trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước về lễ hội và hoạt động quản lí lễ hội và các
tài liệu công trình liên quan đến đề tài nghiên cứu. Làm rõ thực trạng và nâng
cao vai trò của lễ hội Lam Kinh trong công tác tư tưởng ở tỉnh Thanh Hóa
hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, nghiên cứu tài liệu,
phương pháp quan sát để nghiên cứu về tình hình và vai trò của lễ hội Lam
Kinh trong công tác tư tưởng.
5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài làm rõ thực trạng và vai trò của lễ hội Lam Kinh trong công tác
tư tưởng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
khắc phục hạn chế và nâng cao vai trò của lễ hội Lam Kinh trong công tác tư
tưởng ở tỉnh, ghóp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo
thì kết cấu đề tài gồm 3 chương:
3
Chương 1. Một số vấn đề lí luận chung của đề tài
Chương 2. Thực trạng của hoạt động lễ hội Lam Kinh trong công
tác tư tưởng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
Chương 3. Một số biện pháp nhằm nâng cao vai trò của lễ hội Lam
Kinh trong công tác tư tưởng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Lễ hội
Lễ hội là một bộ phận của phong tục: Phong tục, tập quán là một hệ
thống các tập tục, thói quen sinh hoạt của cộng đồng được hình thành và ăn
sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo. Phong tục
gắn với đạo lý uống nước nhớ nguồn là nguồn gốc ra đời của Lễ hội.
- Lễ là những nghi thức được tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm
một sự kiện có ý nghĩa nào đó. Hội là dịp để vui chơi tổ chức cho đông đảo
người dân tham gia, theo phong tục hoặc dịp đặc biệt.
- Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng; diễn ra trên một địa
bàn dân cư; trong một giới hạn không gian và thời gian nhất định; nhằm nhắc
lại một sự kiện nhân vật lịch sử hay huyền thoại, đồng thời để biểu hiện cách
ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên, với thần thành và với con
người trong xã hội…
Như vậy, Lễ hội thực chất là một nét sinh hoạt văn hóa tinh thần của
con người, gắn với con người như một điều tất yếu. Lễ hội cũng đáp ứng
những nhu cầu tinh thần, tâm linh không thể thiếu của con người như trở về
với tự nhiên, cội nguồn, là môi trường để người dân thể hiện sức mạnh cố kết
cộng động. Nó mang giá trị bảo tồn văn hóa và truyền thống, là “bảo tàng
sống” về văn hóa truyền thống của dân tộc.
1.1.2. Tư tưởng
Tư tưởng là quan điểm, ý nghĩ của con người với hiện thực khách quan.
Tư tưởng thuộc phạm trù ý thức, là sản phẩm chủ quan của con người. Vì vậy,
ý thức như thế nào phụ thuộc vào đối tượng, phản ánh môi trường xung quanh
và trình độ nhận thức, tâm sinh lí của mỗi người. Khi quan điểm được khái
5
quát hóa xây dựng thành một hệ thống lí luận, phản ánh được lợi ích của một
giai cấp thì được gọi là hệ tư tưởng của giai cấp đó.
1.1.3. Công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần
chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
1.2. Vai trò và chức năng của lễ hội
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt cộng đồng được tổ chức theo phương
pháp cảnh diễn hóa (sân khấu hóa) với nhiều nội dung, hình thức phong phú
nhằm vừa tôn vinh những giá trị thiêng liêng, vừa thỏa mãn các nhu cầu văn
hóa tinh thần của con người và góp phần thắt chặt các quan hệ xã hội. Là một
hình thức sinh hoạt văn hóa tổng hợp, lễ hội được cấu thành bởi hai yếu tố lễ
và hội, tương ứng với các mặt: tinh thần, tôn giáo -tín ngưỡng, linh thiêng là
yếu tố lễ; vật chất, văn hóa-nghệ thuật, đời thường là yếu tố hội, cả hai yếu tố
gắn bó, hòa quyện với nhau không thể bỏ đi một yếu tố nào mà không làm
mất đi bản thân nó. Lễ và hội hướng con người tới “cái thiêng” và gắn bó con
người lại với nhau, có sức hấp dẫn lôi cuốn các tầng lớp xã hội, trở thành một
nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thế kỷ.
Thứ nhất, lễ hội truyền thống thực hiện chức năng liên kết cộng đồng,
dù dưới hình thức nào lễ hội truyền thống vẫn là một kiểu sinh hoạt tập thể
của nhân dân, là “cuộc vui chơi đông người” được tổ chức sau thời gian lao
động, sản xuất hay nhân dịp kỷ niệm một sự kiện xã hội quan trọng liên quan
đến sự tồn tại của một cộng đồng hoặc để quần chúng tìm đến một cái gì đó.
Người đi hội không cảm thấy mình là người ngoài cuộc, chính điều đó đã đem
lại niềm an ủi, sự xúc động thật sự và là nguồn động viên sâu sắc cho những
thân phận nhỏ bé ngày thường trong xã hội phong kiến xa xưa. Ta thấy hầu
như toàn bộ lễ hội truyền thống nào cũng đều phản ánh chức năng này, từ lễ
hội chùa Hương (Hà Tây), lễ hội Nghinh Ông (Bình Thuận) đến lễ hội Bà
Chúa Xứ (An Giang)…
6
Lễ hội không chỉ đối tượng hóa những giá trị của cộng đồng bằng
những thực hành nghi lễ, mà còn bằng cả những khuân mẫu ứng xử ngoài lễ
cũng rất đặc biệt. Chính những ứng xử ngoài lễ này đã đưa những giá trị của
quá khứ về với hiện tại, những giá trị vốn thiêng liêng, trừu tượng trở thành
đời thường, hiện hữu trong đời sống cộng đồng.
Thứ hai, lễ hội truyền thống có chức năng phản ánh, bảo lưu và truyền
bá các giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện ở sự ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại
truyền thống đã qua (như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Gióng…)
Thứ ba, lễ hội truyền thống còn thể hiện chức năng đáp ứng nhu cầu
đời sống tinh thần, tâm linh, giải quyết những khát khao, những ước mơ của
cộng đồng các dân tộc ở địa phương như lễ hội Dinh Thầy Thím, Cầu Ngư
(Bình Thuận), Chùa Bà (Bình Dương), Núi Bà Đen (Tây Ninh)… Thông qua
đó, lễ hội truyền thống tạo cho con người niềm lạc quan yêu đời, yêu chân lý,
trọng cái thiện và làm cho tâm hồn, nhân cách mỗi con người như được sưởi
ấm tình nhân đạo, nhân văn để rồi thẩm thấu vào cuộc sống đời thường, đáp
ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh về giao lưu, làm cho đời
sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.
Thứ tư, chức năng hưởng thụ và giải trí là chức năng cuối cùng của lễ
hội truyền thống. Đến với lễ hội truyền thống ngoài sự “hòa nhập” hết mình
trong các hoạt động của lễ hội, được “hóa thân” đóng một vai trong hội hay
“nhập thân” vào một trò chơi, tất cả mọi người đều được hưởng những lễ vật
mà mình dâng cúng, đều được tham gia vào các hoạt động vui chơi, giải trí
trong quá trình tổ chức hoạt động lễ hội. Trong lễ hội truyền thống, người dân
không chỉ hưởng thụ mà còn là người sáng tạo văn hóa, là chủ nhân thực sự
trong đời sống văn hóa của chính bản thân mình.
Thứ năm, chức năng bảo tồn và trao truyền văn hóa, là vũ khí sắc bén
trong công tác tưởng. Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hóa
dân tộc, mà còn là môi trườn bảo tôn, làm giàu và phát huy nền văn hóa dân
tộc. Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội
7
mà trong chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi
“xuân thu nhị kỳ” ,”tháng tám giỗ cha tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống vốn tĩnh
lặng , vang dậy tiếng cồng chiêng, vui hội, người người tụ hội nơi đình đền,
chùa mở hội. Nơi đó, con người hóa thân thành văn hóa, văn hóa làm biến đổi
con người, một “bảo tàng sống” về văn hóa dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và
trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu như không có nghi lễ và hội
hè thì các làn điệu dân ca như hát xoan, hát dậm,…; các điệu múa xênh tiền,
múa rồng, múa lân,…; các hình thức sân khấu chèo, hát hội, rối nước, cải
lương,…; các trò chơi, trò diễn: đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật,
đánh phết, trò trám,…ra đời và duy trì trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn
năm nay qua.
Hiện nay do phát huy tốt vai trò, chức năng nêu trên, các lễ hội truyền
thống đã tiếp tục thu hút được hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn quần chúng
nhân dân tham gia, tạo nên một không khí náo nhiệt, hào hứng giữa đời sống
lao động sản xuất của nhân dân. Chiều sâu của tinh thần lễ hội truyền thống là
bảo lưu cội nguồn, là thứ vũ khí tư tưởng rất sắc bén cho mọi thời đại của mỗi
dân tộc; do đó, thực hiện tốt các chức năng của lễ hội truyền thống là góp
phần giáo dục truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm lành mạnh,
phong phú đời sống tinh thần của xã hội và cũng để nhằm góp phần “xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đề ra trong
Nghị quyết lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII).
1.3. Sự cần thiết của việc nâng cao vai trò của lễ hội trong công tác tư
tưởng
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá cộng đồng phổ biến
và đậm đà bản sắc dân tộc, là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa phi
vật thể, là sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển
trong quá trình lịch sử; có giá trị đặc biệt trong sự cố kết cộng đồng ngày càng
bền chặt hơn; đồng thời, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, là hình thức
giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau hiểu được công lao của tổ tiên, tỏ
8
lòng tri ân công đức của các vị anh hùng dân tộc, các bậc tiền bối đã có công
dựng nước, giữ nước và đấu tranh giải phóng dân tộc. Việc tổ chức lễ hội
truyền thống còn góp phần tích cực trong giao lưu với các nền văn hóa thế
giới, tạo nền tảng vững chắc cho văn hoá Việt Nam có sức mạnh chống lại sự
ảnh hưởng tiêu cực của văn hoá ngoại lai.
Lễ hội truyền thống được coi như một bảo tàng sống, tồn tại đồng hành
và tạo nên ký ức văn hoá của dân tộc, có sức sống lâu bền và lan toả trong đời
sống nhân dân, thể hiện nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá
vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư. Lễ hội truyền thống là loại hình
sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát
triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn,
nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng
trong tâm trí mỗi người.
Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn
vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “Thần” - những
người có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần
linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng
chống giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề
nghiệp; những người chống chọi với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa
bệnh cứu người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần
gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc... Lễ hội là sự
kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân
tộc.
Lễ hội là vũ khí sắc bén của Đảng và Nhà nước trong việc chống lại
những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch. Lễ hội giáo dục truyền
thống yêu nước, giáo dục về lịch sử vẻ vang trong quá trình dựng nước và giữ
nước của dân tộc, củng cố lòng tự hào và tự tôn dân tộc trong nhân dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ. Nội dung của quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
9
Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của đất nước được lồng ghép trong các hoạt
động của các lễ hội. Lễ hội tuyên truyền các chủ trương, chính sách đó. Và
thông qua các hình thức biểu hiện đặc sắc, sinh động và hấp dẫn đông đảo
quần chúng tham gia mà những chủ trương, đường lối trở nên gần gũi, dễ
dàng đi sâu vào nhân dân, được thực hiện có hiệu quả. Bên cạnh đó, lễ hội
còn là một phương tiện để Đảng và Nhà nước truyền bá, định hướng tư tưởng
đúng đắn trong nhân dân, để đẩy lùi các hiện tượng mê tín, dị đoan, các tư
tưởng sai trái trong nhân dân. Lễ hội không chỉ là nhu cầu tín ngưỡng, tâm
linh mà còn là hoạt động sáng tạo của nhân dân, thể hiện tâm tư, nguyện vọng
của dân, qua đó Đảng và Nhà nước hiểu được tâm trạng xã hội, tư tưởng trong
dân, là cơ sở để xây dưng, hoạch định chính sách, chủ trương phù hợp và đảm
bảo thực hiện hiệu quả. Lễ hội là một trong những yếu tố gắn kết giữa Đảng
và dân, tạo nên sự đoàn kết trong xã hội ghóp phần thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn
là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt
qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lễ hội liên kết cộng đồng ,
tạo nên sự đoàn kết trong quần chúng, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản
xuất, cùng nhau phát triển kinh tế trong đia phương. Với quan điểm “lấy dân
làm gốc” của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đoàn kết trong quần chúng là yếu tố
quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước, thực hiện các
chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đạt hiệu quả. Đoàn
kết trong dân là vũ khí chống lại những luận điệu sai trái của các thế lực thù
địch, ngăn ngừa diễn biến hòa bình.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật
chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao
cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm
linh và các trò chơi đua tài, giải trí...Lễ hội là dịp con người được giải toả, dãi
10
bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng
vượt qua những thử thách đến với ngày mai tươi sáng hơn.
Hiện nay, ở nước ta, việc bảo tồn lễ hội truyền thống còn mang tính tự
phát và phụ thuộc vào nguồn kinh phí của Nhà nước. Mặt khác, các nhà văn
hóa học và các nhà quản lý chưa nghiên cứu một cách sâu sắc và hệ thống
những lý luận và kinh nghiệm về bảo tồn lễ hội truyền thống. Vì thế, chưa
đưa ra những chính sách phù hợp và kịp thời, nhiều quyết định quản lý trong
lĩnh vực này còn mang tính chủ quan, duy ý chí. Trong thực tế, nhiều lễ hội
truyền thống tổ chức kéo dài quá thời gian quy định, nội dung lễ hội trùng lặp,
không thể hiện bản chất, đặc trưng.
Sự chuyển đổi cơ cấu xã hội cùng với những thay đổi điều kiện kinh tế
- xã hội trong quá trình toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ hội mở rộng giao lưu văn
hoá giữa các cộng đồng trong và ngoài lãnh thổ quốc gia. Đồng thời cũng làm
nảy sinh những mối đe dọa về sự suy thoái, biến dạng các lễ hội truyền thống.
Bên cạnh những nghi thức đã định hình, còn có biểu hiện pha tạp, vay mượn
hoặc cải biên không hợp lý, phong cách biểu diễn không phù hợp với cộng
đồng, gây phản cảm, làm biến dạng nghi thức lễ hội truyền thống. Hiện có xu
hướng đua nhau nâng cấp lễ hội bằng cách tùy tiện thêm vào các thành tố xa
lạ với lễ hội hay tập quán của cộng đồng, vừa tốn kém, vừa làm giảm giá trị
chân thực, trần tục hóa và đơn điệu hóa, thậm chí làm biến dạng lễ hội truyền
thống. Có thể nhận thấy, thách thức trong việc bảo tồn lễ hội truyền thống ở
Việt Nam do nhiều nguyên nhân, trong đó sự hạn chế và bất cập về tổ chức và
quản lý lễ hội truyền thống là một trong những nguyên nhân cơ bản.
Những thách thức và nguyên nhân nêu trên cho thấy, việc bảo tồn, kế
thừa và phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống ở nước ta đang là một
vấn đề có tính cấp bách, trong đời sống xã hội nói chung và trong công tác tư
tưởng của Đảng và Nhà nước nói riêng. Cần có cách thức tổ chức và quản lý
lễ hội truyền thống phù hợp trên cơ sở nghiên cứu điều kiện phát triển kinh tế
- xã hội, đặc điểm văn hoá dân tộc và quá trình xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở ở Việt Nam.
11
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI LAM KINH
TRONG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY
2.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động lễ hội Lam Kinh trong công tác
tư tưởng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Ngày nay, theo số liệu đo đạc hiện đại của cục bản đồ thì Thanh Hóa
nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến
106°05' Đông. Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình; phía
nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn nước Lào với
đường biên giới 192 km; phía đông Thanh Hóa mở ra phần giữa của vịnh Bắc
Bộ thuộc biển Đông với bờ biển dài hơn 102 km. Diện tích tự nhiên của
Thanh Hóa là 11.106 km², chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du,
miền núi. Tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú là điều kiện để phát
triển kinh tế trong Tỉnh nhưng chưa được khai thác hợp lí, chưa phát huy
được hiệu quả.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
* Dân cư
Thanh Hóa có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, chỉ đứng sau thành
phố Hà Nội. Thanh Hóa có 639 đơn vị hành chính cấp xã bao gồm 22
phường, 30 thị trấn và 587 xã. Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, Thanh
Hóa có 3.400.239 người, đứng thứ ba Việt Nam, chỉ sau Thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội.Thanh Hóa là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, nhưng chủ yếu
có 7 dân tộc là Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú.
* Kinh tế:
Thanh Hóa đất rộng, có rừng, có biển, tài nguyên thiên nhiên phong
phú; người đông, nhân dân có truyền thống bất khuất, kiên cường, cần cù,
thông minh, sáng tạo; nằm trên trục giao thông đường bộ, đường sắt, đường
12
biển Bắc-Nam. Đây là những tiềm năng, lợi thế to lớn mà Đảng bộ, nhân dân
Thanh Hóa khai thác, phát huy có hiệu quả nhất theo hướng phát triển theo
chiều sâu, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao, trên cơ sở
ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tỉnh quan tâm đầu tư phát triển theo hướng hình thành các vùng nông
nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, công nghệ cao, có năng suất, hiệu quả cao gắn
với phát triển công nghiệp chế biến và thực hiện tốt chương trình Xây dựng
nông thôn mới theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa X) với cách làm
phù hợp, sáng tạo. Cùng với phát triển kinh tế, Thanh Hóa đã tiếp tục quan
tâm phát triển, nâng cao chất lượng các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, y tế, văn
hóa, xã hội; đẩy mạnh hoạt động xóa đói giảm nghèo, chăm sóc người có
công, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo động lực cho phát triển kinh
tế; ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội; từng bước nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân.
2.1.3. Tình hình tư tưởng của nhân dân tỉnh Thanh Hóa:
Trong thời gian qua nhiều sự kiện đã có tác động đến tưởng, tình cảm,
tâm trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh, đó là Đại hội đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Cuộc bầu cử quốc hội khóa VIII,
HĐND các cấp nhiệm kì 2011 – 2016. Công cuộc đổi mới đất nước, sự
nghiệp CNH – HĐH tiếp tục được đẩy mạnh với những thành tựu quan trọng;
tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ bền vững, đời sống nhân dân
không ngừng được cải thiện; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được
nâng lên rõ rệt, công tác quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được củng
cố, duy trì và phát triển.
Ngày 14/5/2011, Bộ Chính trị tiếp tục ra chỉ thị số 03-CT/TW về tiếp
tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành
nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và quần
13
chúng nhân dân. Thông qua thực hiện cuộc vận động, tiếp tục hình thành các
chuẩn mực đạo đức, lối sống, lẽ sống theo gương đạo đức của Bác, xây dựng
nền tảng đạo đức xã hội, nhiều tập thể cá nhân đã hăng hái đi đầu trong việc
tổ chức thực hiện cuộc vậ động, nhiều nhân tố điển hình xuất hiện trong
phong trào thi đua làm theo lời Bác, tạo động lực mạnh mẽ, thúc đẩy sự
nghiệp cách mạng, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Thời gian qua trên địa bàn tỉnh không có điểm nóng, Đảng
bộ đoàn kết nhất trí, nhân dân đồng thuận; các tầng lớp nhân dân ra sức thi
đua góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
2.2. Giới thiệu vài nét về lễ hội Lam Kinh
Di tích Lam Kinh là di tích đặc biệt của tỉnh Thanh Hóa nói riêng và
của cả nước nói chung, đây chính là quê hương của người Anh hùng dân tộc
Lê Lợi. Lễ hội Lam Kinh được coi là một trong những lễ hội lớn của cả nước.
Lam Kinh từ lâu đã đi vào tiềm thức người dân Việt như một điểm hẹn trở về
với nguồn cội; nơi khởi nguồn của những chiến tích hào hùng, cái nôi của
khởi nghĩa Lam Sơn; nơi phát tích của dòng họ Đế vương đã có công bình
ngô giữ nước.
Lam Kinh – quê hương đất tổ nhà Lê – nơi sinh ra Anh hùng dân tộc Lê
Lợi, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lừng lẫy chiến công ở thế kỷ XV,
nơi tụ họp những anh hùng hào kiệt khắp bốn phương chung sức, chung lòng
đứng lên đánh giặc cứu nước. Sau 10 năm (1418-1428) kháng chiến trường
kỳ gian khổ, đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, đất nước hoàn toàn thắng
lợi, tháng 4-1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Thăng Long – Hà Nội, lấy niên
hiệu là Thuận Thiên, đặt tên nước là Đại Việt, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ
thịnh trị cho đất nước kéo dài gần 360 năm.
14
Thái Miếu trong khu di tích lịch sử Lam Kinh
Lam Kinh không chỉ để lại dấu ấn về một vương triều dài nhất trong
lịch sử dân tộc, đưa Việt Nam đạt tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến;
mà nơi đây còn lưu giữ những huyền tích luôn hấp dẫn và ấn tượng khi về với
Lam Kinh: Chuyện ra đời của vua Lê Thái Tổ, chuyện về cây gươm thần làm
nên sự tích Hồ Hoàn Kiếm giữa lòng thủ đô, Chuyện về lá rau cải in hình quả
Quốc ấn...
Tưởng nhớ, tôn vinh Anh hùng dân tộc Lê Lợi, hằng năm cứ đến ngày
22-8 âm lịch (ngày giỗ vua Lê Thái Tổ), nhân dân huyện Thọ Xuân cũng như
cả tỉnh Thanh Hóa và du khách khắp nơi lại đổ về trảy hội Lam Kinh. Lễ hội
năm nay được tổ chức trong hai ngày 18 và 19-9 (tức ngày 21 và 22-8 âm
lịch), tại Khu di tích lịch sử Lam Kinh, Thọ Xuân, quê hương của người Anh
hùng dân tộc Lê Lợi, vùng "Ðịa linh nhân kiệt", giàu truyền thống lịch sử và
văn hóa. Ðây là sự kiện nhằm giáo dục truyền thống "Uống nước nhớ nguồn",
tri ân công lao sự nghiệp vĩ đại của Anh hùng dân tộc Lê Lợi - Ðức Thái Tổ
Cao Hoàng đế, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược nhà
Minh, giành lại độc lập dân tộc, sáng lập triều nhà Lê, mở ra một thời kỳ phát
triển thịnh vượng của đất nước trong thời kỳ phong kiến tự chủ. Lễ hội Lam
Kinh bắt đầu hình thành và được tổ chức từ sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà
vào ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433) và thi hài được đưa về an táng tại
15
quê hương Lam Sơn. Ðể thuận lợi cho việc cáo yết tại lăng miếu, các triều
vua đã cho dựng điện và các tòa Thái miếu để thờ cúng. Vì vậy Lam Sơn
được gọi là Lam Kinh.
Lễ hội Lam Kinh được tổ chức tại khu
vực Lam Kinh thuộc huyện Thọ Xuân,
Thanh Hoá nơi an táng vua Lê Thái
Tổ. Nơi đây, ngày trước, theo định lệ, cứ
ba năm một lần, vào ngày giỗ vua, các
vua quan nhà Lê ở Ðông Kinh (Thăng
Long) lại về Lam Kinh làm lễ. Còn nhân
dân địa phương hàng năm vẫn mở hội tưởng nhớ, tôn vinh người anh hùng
dân tộc này.
Lễ hội Lam Kinh được tổ chức ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà vào
ngày 22/8 (âm lịch) năm Quý Sửu (1433) và thi hài được đưa về an táng tại
đất Lam Sơn. Vùng đất này còn là nơi an táng của các vua, hoàng hậu triều Lê
Sơ và trở thành sơn lăng của nhà Lê Sơ. Ðể thuận lợi cho việc cáo yết tại lăng
miếu, các triều vua đã cho dựng điện và các tòa Thái miếu để thờ cúng. Vì
vậy, Lam Sơn được gọi là Lam Kinh.
Màn biểu diễn trống đồng Lễ hội Lam Kinh 2010
16
Từ 1995 đến nay, lễ hội Lam Kinh được tổ chức thường xuyên hằng
năm với quy mô hoành tráng. Phần lễ được thực hiện theo đúng nghi thức cổ
truyền, tái hiện nhiều sự kiện trọng đại thời Lê như: Màn trống hội (biểu
diễn đánh trống đồng và trống da các loại), cờ hội, rước kiệu; đặc biệt là
những nghi thức tế lễ từ thời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông,
Lê Thánh Tông truyền lại.
Cảnh vua Lê Lợi trả kiếm
Phần hội sẽ là các chương trình nghệ thuật tái diễn các sự kiện như:
Hội thề Lũng Nhai, Lê Lai cứu chúa, giải phóng thành Đông Quan, Vua Lê
Thái Tổ đăng quang, Phát huy hào khí Lam Sơn…
Trong các ngày diễn ra lễ hội còn có những trò chơi, trò diễn truyền
thống của xứ Thanh như: trò Xuân Phả, trò Chiêng, trò Sanh Ngô, dân ca
Đông Anh, dân ca sông Mã, thi đấu vật, đấu võ dân tộc; hội trại các làng văn
hoá; trưng bày các hiện vật, cổ vật thời Lê; trưng bày giới thiệu tiềm năng du
lịch và sản phẩm ẩm thực của địa phương và nhiều hoạt động nghệ thuật khác
như chiếu phim, biểu diễn chèo, chương trình ca nhạc tân cổ giao duyên…
Lễ hội mang đậm nét văn hóa dân gian truyền thống tạo nên dấu ấn của
một vùng đất anh hùng đồng thời góp phần bảo tồn nền văn hoá của dân tộc.
17
2.3. Thực trạng của hoạt động lễ hội Lam Kinh trong công tác tư tưởng ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay
2.3.1. Thành tựu
* Mảnh đất địa linh nhân kiệt:
Qua hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị 27/CT-TƯ ngày 12/1/1998 của Bộ
Chính trị (khóa VIII), Chỉ thị 14/1998/CT-TTg ngày 28/3/1998 và Quyết định
số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, tỉnh Thanh Hóa
đã tăng cường công tác quản lý lễ hội, đưa lễ hội dần dần đi vào ổn định. Các
lễ hội được đầu tư tổ chức công phu, nghi lễ trang trọng theo truyền thống,
nêu bật công đức danh nhân, anh hùng dân tộc, đồng thời khôi phục nhiều trò
chơi dân gian và các hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng.
Lễ hội Lam Kinh đã góp sức quảng bá, hấp dẫn du khách trong nước và
quốc tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, làm giàu nguồn ngân sách địa
phương qua các hoạt động trong lễ hội. Cơ sở vật chất tại lễ hội ngày càng
được đầu tư nâng cấp, qui hoạch tổ chức dịch vụ có tiến bộ. Trình độ tổ chức
và quản lý lễ hội tại địa phương từng bước được nâng lên.
Lễ hội Lam Kinh được tổ chức ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà
vào ngày 22/8 (âm lịch) năm Quý Sửu (1433) và thi hài được đưa về an táng
tại đất Lam Sơn. Các vua, hoàng hậu triều Lê Sơ cũng lần lượt được đưa về
táng tại đây. Đất Lam Sơn trở thành sơn lăng của nhà Lê Sơ. Để thuận lợi cho
việc cáo yết tại lăng miếu, các triều vua đã cho dựng điện và các tòa Thái
miếu để thờ cúng. Vì vậy, Lam Sơn được gọi là Lam Kinh. Các sinh hoạt tế lễ
được chuẩn bị công phu, bài bản.
Trải qua năm tháng chiến tranh, sự hủy hoại của thời gian và con người,
các công trình kiến trúc ở Lam Kinh dần đổ nát, hoang phế. Các sinh hoạt lễ
hội cũng bị mai một. Xác định ý nghĩa, tầm quan trọng của di tích Lam Kinh,
tỉnh Thanh Hoá đã đề nghị Chính phủ cho phục hồi, tu bổ, tôn tạo di tích. Năm
18
1985, hội thảo quốc gia về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn được tổ chức tại
Thanh Hóa. Nhiều công trình nghiên cứu về Lê Lợi, vương triều Hậu Lê
được xuất bản cũng khẳng định rõ vai trò, vị trí của Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn trong lịch sử dân tộc. Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết
định số 609/QĐ-TTg về việc phục hồi, tu bổ, tôn tạo di tích Lam Kinh.
Do phần lớn các kiến trúc bị hủy hoại chỉ còn nền móng nên qua bảy lần
khai quật khảo cổ học một số công trình đã được tu bổ, tôn tạo. Qua 14 năm,
ngân sách Nhà nước và tỉnh Thanh Hoá đã đầu tư hơn 50 tỷ đồng cho các công
trình như xây dựng nhà bia, lăng mộ, đường nội bộ, đền thờ Lê Thái Tổ, đền
thờ Lê Lai, xây dựng cầu Bạch, nạo vét, kè sông Bạch, hồ Tây, giếng Ngọc…
Từ 1995 đến nay, lễ hội Lam Kinh được tổ chức thường xuyên hằng
năm với quy mô hoành tráng. Lễ hội ngày càng có sức cuốn hút, lan tỏa tới
nhiều vùng, miền, thu hút du khách ở trong và ngoài tỉnh về nơi cội nguồn
của vùng đất Lam Sơn lịch sử.
* Lễ và hội trên địa danh lịch sử:
Theo kế hoạch, lễ hội Lam Kinh 2008 mang đậm nét văn hoá du lịch
truyền thống, những hoạt động văn hoá dân gian đã ăn sâu vào tiềm thức của
người dân xứ Thanh, những nét lễ hội xưa được bảo tồn, bổ sung sắc thái mới
của lễ hội hiện đại, tạo ra sức hấp dẫn về văn hoá du lịch cũng như tâm linh.
Đặc biệt lễ hội được tổ chức với quy mô cấp tỉnh nên sẽ long trọng, trang
nghiêm…
Phần lễ được thực hiện theo đúng nghi thức cổ truyền như: Màn trống
hội (biểu diễn đánh trống đồng và trống da các loại), cờ hội, rước kiệu; đặc
biệt là những nghi thức tế lễ từ thời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân
Tông, Lê Thánh Tông truyền lại. Phần hội sẽ là các chương trình nghệ thuật
tái diễn các sự kiện như: Hội thề Lũng Nhai, Lê Lai cứu chúa, giải phóng
thành Đông Quan, Vua Lê Thái Tổ đăng quang, Phát huy hào khí Lam Sơn…
Trong các ngày diễn ra lễ hội, nhân dân và du khách thập phương còn có thể
19
tham dự những trò chơi, trò diễn truyền thống của xứ Thanh như: trò Xuân
Phả, trò Chiêng, trò Sanh Ngô, dân ca Đông Anh, dân ca sông Mã…
Để kịp thời phục vụ lễ hội, lãnh đạo tỉnh Thanh Hoá đã chỉ đạo ngành
văn hóa, thể thao và du lịch cùng các ngành liên quan và chính quyền các
huyện Thọ Xuân, Ngọc Lặc, TP. Thanh Hóa, dồn sức hoàn thành một số hạng
mục cơ bản phục vụ lễ hội như: lát sân rồng bao nền bằng gạch bát, gạch vồ
sản xuất theo phương thức thủ công trên diện tích hơn 3.000m2, lát đá đường
thần đạo trên sân rồng với chiều rộng 5,5m. Đổ nền bê-tông, lát đá đoạn
đường từ nam cầu Bạch ra đến đường 15A (cũ) trước cửa nhà trưng bày; lát
đá, gạch đoạn từ sau các tòa miếu lên trước lăng Lê Thái Tổ và từ trước lăng
Lê Thái Tổ đến đường 15A (cũ). Rải nhựa đoạn đường từ ngã tư đường 15A
(cũ) đến trụ sở xã Xuân Lam; hoàn thành các đồ thờ chính ở ba tòa miếu 4, 5,
6 phục vụ tế lễ, dâng hương trong lễ hội. Điều động các đoàn nghệ thuật trong
tỉnh tham dự lễ hội.
Chuẩn bị tốt nội dung kịch bản lễ hội nêu bật ba sự kiện lịch sử quan
trọng nêu trên và gắn với nội dung Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân
tộc Thanh Hóa phát huy hào khí Lam Sơn trong thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. Tổ chức các
chương trình biểu diễn của các đoàn văn công, văn nghệ quần chúng, hội trại
các làng văn hóa huyện Thọ Xuân và các hoạt động trưng bày bảo tàng, triển
lãm, thư viện, du lịch phục vụ lễ hội.
Tổ chức Lễ hội Lam Kinh năm 2008 thành công sẽ góp phần giáo dục
truyền thống yêu nước, giáo dục lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của
ông cha, tinh thần tự hào và tự tôn dân tộc cho quần chúng nhân dân và đặc
biệt là thế hệ trẻ. Nâng cao nhận thức của nhân dân và du khách về ý nghĩa
của lễ hội Lam Kinh. Đồng thời quảng bá truyền thống lịch sử, văn hóa, hình
ảnh về con người, thiên nhiên xứ Thanh ở trong nước và nước ngoài, thu hút
đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích từ nguồn lực của nhiều cấp, nhiều ngành, các tổ
20
chức xã hội, tầng lớp nhân dân để di tích ngày càng khang trang, là điểm hành
hương của du khách trở về cội nguồn lịch sử dân tộc.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Lễ hội truyền thống ở Việt Nam, dù ở quy mô nào (vùng, miền, quốc gia)
đều diễn ra ở những không gian nhất định, trong đó chủ thể văn hoá là những
người dân cụ thể ở những cộng đồng làng/ xã xác định.
Tuy nhiên, nhiều năm qua do mong muốn nâng cao quy mô và chất
lượng các lễ hội truyền thống (đặc biệt là các lễ hội cấp Quốc Gia và cấp
Tỉnh) nên nhiều lễ hội truyền thống đã được các nhà quản lý xã hội và các
chuyên gia nghệ thuật can thiệp (đầu tư nhiều kinh phí và chuyên gia). Điều
này dẫn đến một hệ quả là: Người dân các cộng đồng sở tại đã bị tước mất vai
trò chủ thể của lễ hội và họ trở thành người khán giả đơn thuần, bởi mọi nghi
thức và diễn xướng quan trọng đều đã được “nâng cao”(theo kiểu sân khấu
hoá và theo những quan niệm về chất lượng nghệ thuật kiểu chuyên nghiệp).
Theo quan niệm này, thì người dân không đảm nhiệm được một số tiết mục
và các đạo diễn đã thay vào đó là lực lượng chuyên nghiệp. Những lễ hội kiểu
này, khi nó ở tầm cỡ quốc gia (như lễ hội đền Hùng chẳng hạn) thì đều được
đưa lên truyền hình trực tiếp và trở thành một chuẩn mới để ngành văn hoá
thông tin các tỉnh noi theo.
Cách tổ chức và quản lý lễ hội theo kiểu “nâng cao” như thế này đã
khiến người dân dần dần “quên” đi vai trò chủ thể sáng tạo văn hoá của mình,
đồng thời ỷ lại sự tài trợ của nhà nước (tâm lý chung là: Nếu họ phải tham gia
một phần nào đó trong lễ hội thì nhà nước phải chi tiền, bởi họ coi lễ hội đó
không phải của chính mình nữa). Đây là một hệ quả đi ngược lại với đường
lối và chủ trương xã hội hoá văn hoá của Đảng và Nhà Nước ta.
Trước đây, trong các lễ hội làng cổ truyền, người dân địa phương thực
sự là chủ thể của lễ hội. Cộng đồng người dân địa phương đều háo hức tập
21
luyện hàng tháng trời để mong được tham gia gánh vác một việc nào đó, hoặc
sắm một vai nào đó trong nhiệm vụ tổ chức lễ hội. Nhưng hiện nay, hầu hết
các hoạt động của lễ hội đều do chính quyền các cấp chỉ đạo sát sao, làm thay
cộng đồng hay can thiệp quá sâu vào các công việc của lễ hội mà đáng ra phải
là công việc thực sự của cộng đồng. Người dân, chủ thể của lễ hội vô hình
chung chỉ đóng vai trò hoạt động như du khách.
Trong lễ hội Lam Kinh cũng đang còn bộc lộ một số tồn tại như trên.
Chẳng hạn, lượng du khách đang tăng nhanh làm nảy sinh nhiều bất cập trong
công tác tổ chức, quản lý; một số lễ hội dân gian tổ chức có hiện tượng pha
tạp, vay mượn hoặc cải biên làm biến dạng nghi lễ, lễ hội truyền thống; tình
trạng lập nhiều ban thờ đặt nhiều hòm công đức... làm suy giảm yếu tố tâm
linh, coi nặng giá trị vật chất, gây phản cảm trong sinh hoạt xã hội. Loại hình
văn hóa thể thao du lịch đã được phát triển mạnh ở nhiều địa phương với quy
mô lớn nhưng lại do một sồ công ty tổ chức sự kiện nhận khoán, thầu, dàn
dựng kịnh bản và vật dụng, biểu diễn gần giống nhau nên gây sự nhàm chán,
làm mất đi sự sáng tạo văn hóa của địa phương, đặc biệt nó không phát huy
được vai trò, vị trí của ngành văn hóa thể thao và du lịch trong tổ chức hoạt
động loại hình lễ hội này…
- Đơn điệu hóa lễ hội: Văn hóa nói chung cũng như lễ hội nói riêng
mang tính đa dạng. Cùng là lễ hội, nhưng mỗi vùng miền, mỗi làng có nét
riêng, theo kiểu người xưa nói “chiêng làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào
làng ấy thờ”. Mỗi lễ hội đều có cốt cách, sắc thái riêng, cuốn hút khách thập
phương đến với lễ hội địa phương mình. Tuy nhiên, ngày nay lễ hội đang
đứng trước nguy cơ nhất thể hóa, đơn điệu hóa, lễ hội tổ chức gần như là
giống nhau, làm thui chột tính đa dạng của lễ hội, du khách thập phương sau
một vài lần dự hội đã cảm thấy nhàm chán và không còn hứng thú đi chơi hội
nữa.
22
- Quan phương hóa lễ hội: Văn hóa nói chung, trong đó có sinh hoạt lễ
hội là sáng tạo của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là cách thức mà
người dân nói lên những ước mơ, khát vọng tâm linh, thỏa mãn nhu cầu sáng
tạo và hưởng thụ văn hóa của mình. Do vậy, từ bao dời nay, người dân bỏ
công sức, tiền của, tâm sức của mình để sáng tạo ra và duy trì sinh hoạt lễ hội.
Đó chính là tính nhân bản, khát vọng dân chủ chủ của người dân, nó khác với
các nghi thức, lễ lạt của triều đình phong kiến trước kia và chừng nào cả lễ
hội mới hiện nay.
Trong việc phục hồi và phát huy lễ hội, dưới danh nghĩa là đổi mới lễ
hội, gắn lễ hội với giáo dục truyền thống, giáo dục lịch sử,…và ở những mức
độ khác nhau đang diễn ra xu hướng quan phương hóa, áp đặt một số mô hình
định sẵn, làm cho tính chủ động sáng tạo của người dân bị suy giảm, thậm chí
họ chỉ như là du khách đi xem hội, bị gạt ra ngoài sinh hoạt văn hóa mà vốn
xưa là của họ, do họ và vì họ. Chính xu hướng này khiến cho lễ hội mang
nặng tính hình thức, phô trương,” giả tạo”, mà hệ quả là vừa tác động tiêu cực
tới chủ thể văn hóa, vừa khiến cho du khách hiểu sai lệch về vấn đề văn hóa
dân tộc.
- Thương mại hóa lễ hội: Cần phân biệt giữa hoạt động mua bán trong
lễ hội và việc thương mại hóa lễ hội. Từ xa xưa, trong lễ hội không thể thiếu
việc mua bán các sản phẩm độc đáo của địa phương, các món ăn đặc sản.
Chính những hoạt động mua bán đó vừa mang ý nghĩa văn hóa, phong tục
“mua may bán rủi”, vừa quảng bá các sản phẩm địa phương, mang lại nhưng
thu nhập đáng kể cho một số ngành nghề ở địa phương. Đó là các hoạt động
rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, hiện nay lễ hội đã cho thuê nhuengx gian
hàng bán đồ, những trò chơi hiện đại ngày càng nhiều. Sự tăng giá các sản
phẩm trong lễ hội đang là vấn đề quan tâm.
23
Gần đây, ban tổ chức lễ hội đã đổi mới cải tiến trong tổ chức lễ hội,
hạn chế tệ nạn, lập lại văn minh trong lễ hội. Công tác giữ gìn an ninh, an
toàn cho nhân dân, du khách cũng đã được chú trọng. Nhưng để bảo đảm an
toàn lễ hội, tạo điều kiện tốt nhất cho du khách, cần có sự phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan chức năng để xây dựng kế hoạch, phương án tổ chức, xử lý
kịp thời các tình huống phát sinh, nhất là những biểu hiện lợi dụng để ép
khách, ép giá, thu lời bất chính, gây mất trật tự công cộng. Cùng với tăng
cường quản lý, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm các vi phạm và tệ nạn xã
hội, cần tăng cường tuyên truyền, cảnh báo để người dân, du khách nâng cao
ý thức, văn hóa ứng xử, giữ gìn vệ sinh môi trường, góp phần bảo đảm trật tự
văn minh, an toàn cho chính mình và mọi người trong lễ hội.
* Nguyên nhân
Một là, nhận thức của các cấp lãnh đạo, các cơ quan quản lý văn hóa về
tính chất, đặc điểm, vai trò và vị trí của lễ hội Lam Kinh chưa toàn diện, chưa
đầy đủ và thấu đáo.
Hai là, mặt trái của cơ chế thị trường có tác động không nhỏ đến việc
phục hồi và tổ chức các lễ hội, với các hiện tượng tiêu cực xảy ra trong lễ hội
như tệ nạn mê tín dị đoan, đầu cơ trục lợi, buôn thần bán thánh, cờ bạc, trộm
cắp…
Ba là, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực lễ hội chưa theo kịp
tình hình thực tiễn, chậm xây dựng và điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp
luật, việc thực thi các văn bản của nhà nước về tổ chức và quản lý lễ hội chưa
nghiêm.
Bốn là, sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan chưa chặt chẽ, chưa tạo
nên sự thống nhất cao trong công tác tổ chức và quản lý lễ hội.
24
Năm là, do chính quyền địa phương còn buông lỏng quản lý nên một số
tệ nạn “vẫn còn đất sống” nhất là vào các dịp cuối của các lễ hội tổ chức dài
ngày; không gian tổ chức lễ hội có giới hạn nhưng lượng du khách tham gia
quá lớn, dẫn đến tình trang quá tải, lộn xộn, ùn tắc giao thông, tư thương nâng
giá dịch vụ …
Sáu là, công tác tuyên truyền chưa đạt hiệu quả tối ưu nên người dân
chưa hiểu thật rõ ràng giá trị, ý nghĩa của lễ hội, công đức danh nhân để từ đó
tự giác bảo vệ nơi thờ tự, bảo vệ môi trường cảnh quan. Chính vì thế, đổi mới
cách tổ chức và quản lý lễ hội là nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc phù hợp với nhu cầu phát triển của tỉnh Thanh Hóa nói riêng và của
đất nước trong thời kỳ mới là vấn đề ngày càng trở nên bức thiết.
Để tăng cường công tác tổ chức quản lý lễ hội Lam Kinh trong thời
gian tới, Sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Thanh Hóa đã có yêu cầu đối với
một số đơn vị cũng như phòng văn hóa thông tin ở huyện Thọ Xuân đẩy mạnh
tuyên truyền về ý nghĩa của lễ hội gắn với việc giới thiệu, tôn vinh công trạng
của danh nhân được thờ tại các di tích và khu vực tổ chức lễ hội; chấn chỉnh
việc thu tiền công đức; xã hội hóa rộng rãi nhưng không buông lỏng công tác
quản lý, khai thác nguồn lực của toàn xã hội cho việc giữ gìn và phát huy giá
trị của lễ hội và di tích Lam Kinh.
25