Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tang truong va phat trien, doi ngheo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.37 KB, 17 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của tiểu luận
Kể từ sau Đại Hội Đảng Đảng toàn quốc năm 1986, Việt Nam đã đạt
được mức tăng trưởng kinh tế nhanh và duy trì trong nhiều năm. Kinh tế tăng
trưởng đã góp phần đáng kể cho việc giải quyết các vấn đề xã hội nói chung và
xóa đói giảm nghèo nói riêng, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 29,8% năm 2002 xuống
còn 5,97%% năm 20141. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế là điều cần, nhưng chưa
đủ để giải quyết vấn đề giảm nghèo bền vững. Đến nay, Việt Nam vẫn là nước
có thu nhập trung bình trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp,
tỷ lệ hộ nghèo còn cao, chênh lệch giàu nghèo còn lớn; đời sống nhân dân còn
nhiều khó khăn.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của nền kinh tế
Việt Nam một mặt đã đem lại nhiều cơ hội thay đổi chất lượng cuộc sống cho
người nghèo, song bên cạnh đó cũng đã gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến
người nghèo như tình trạng bị mất việc làm của một số lao động có trình độ thấp
tại các vùng miền. Và tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng trong phân phối
thu nhập nhằm đạt được các mục tiêu xã hội đã và đang là vấn đề đặt ra đối với
nền kinh tế của Việt Nam hiện nay.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục xác định mô hình
phát triển của Việt Nam là phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Do vậy, phân phối thu nhập ở nước ta vừa phải tuân thủ các nguyên
tắc của kinh tế thị trường, vừa phải góp phần thực hiện định hướng XHCN; tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp với thực hiện công bằng và giảm nghèo.
Khi nói đến chính sách phân phối cho người nghèo và giảm bất bình đẳng
giữa các tầng lớp dân cư thì người ta thường nhắc đến các chính sách phân phối
lại như chính sách thuế, chính sách an sinh, phúc lợi xã hội do sự tăng trưởng
kinh tế mang lại, song những chính sách này mới chỉ có tác dụng giải quyết
phần ngọn của vấn đề nghèo đói, mà nguyên nhân sâu xa của vấn đề nghèo đói
chính là sự phân phối không công bằng các nguồn lực đầu vào cho người nghèo;
họ không thể tiếp cận được các nguồn vốn, không có đất để phát triển sản xuất;
không tiếp cận với giáo dục để cải thiện trí lực, y tế để cải thiện thể lực, thông


tin…, làm cho người nghèo ngày càng nghèo hơn do ngày càng lạc hậu so với
sự phát triển không ngừng của trình độ xã hội.
1

Theo Quyết định số 1294/QĐ-LĐTBXH, ngày 10/9/2015 của Bộ LĐTB&XH.


Như vậy, tăng trưởng kinh tế kết hợp tốt với giải quyết tốt các chính sách
xã hội để cho xã hội tiến bộ và công bằng thì đó là sự phát triển. Trong những
năm qua, ở Việt Nam đã có nhiều nỗ lực, nhưng chính sách phân phối vì người
nghèo vẫn còn không ít bất cập, người nghèo vẫn gặp nhiều khó khăn khi tiếp
cận các nguồn lực, tỷ lệ cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao... Vì thế, việc
nghiên cứu “Mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công tác xóa
đói, giảm nghèo ở Việt Nam” vẫn là vấn đề cần thiết, có ý nghĩa về mặt lý luận
và thực tiễn.
Tiến bộ và công bằng xã hội có nội dung rất rộng, để minh họa mối quan
hệ qua lại giữa tiến bộ và công bằng xã hội với tăng trưởng kinh tế, trong bài
này chỉ xét đến nghèo đói, nguyên nhân và các chính sách giải quyết nghèo đói
ở Việt Nam.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Thực trạng: Trong một đất nước, nếu khai thác, sử dụng có hiệu quả
các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực xã hội sẽ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhanh; tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ có thêm nguồn lực để thực hiện các
chính sách về tiến bộ và công bằng xã hội, trong đó có chính sách cho người
nghèo. Nếu thực hiện tốt chính sách tiến bộ, công bằng xã hội thì người nghèo
có cơ hội tiếp xúc với các điều kiện (về vốn, đất đai, kiến thức, sức khỏe, thông
tin…) để phát triển kinh tế, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế.
1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng:
1.2.1.1. Vào thời kỳ đầu của nền kinh tế thị trường, để giải quyết những
trở ngại về thể chế kinh tế theo kế hoạch, cản trở sự phát triển sản xuất, mục tiêu

lúc ấy được xác định là tập trung giải phóng lực lượng sản xuất. Nhưng nếu tập
trung quá nhiều vào tăng trưởng GDP, coi nhẹ các vấn đề xã hội sẽ cản trở đa số
người hưởng lợi từ tăng trưởng này. Mức thu nhập thấp của số đông công chúng
dẫn tới làm suy yếu dài hạn nhu cầu trong nước, tác động tiêu cực đến sự phát
triển toàn diện của lực lượng lao động. Cho nên, phát triển xã hội là điều kiện
quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế và phải nhanh chóng chuyển từ chủ
trương ưu tiên phát triển kinh tế so với phát triển xã hội, sang thực hiện chủ
trương phát triển hài hòa kinh tế và xã hội.
1.2.2.2. Từ trong bối cảnh nghèo khó và chủ nghĩa bình quân chiếm ưu
thế, cần khuyến khích những người, những vùng có điều kiện làm giàu trước.
Nhưng khi kinh tế thị trường đã phát triển lại xuất hiện những nhóm lợi ích khác


nhau được hưởng lợi khác nhau từ thành quả phát triển. Tăng trưởng kinh tế đạt
được bằng sự tổn thất của một số nhóm xã hội và sự tăng tiến của nhóm xã hội
khác ít hơn, xuất hiện tình trạng phân chia dân cư thành những nhóm có quyền
lực lớn và những nhóm chịu thua thiệt. Mặc dù nhóm dân cư ưu thế có quy mô
nhỏ nhưng lại thu lợi lớn hơn, họ có quyền lực trong tay và sở hữu những nguồn
lực mạnh. Nhóm quyền lực này không chỉ có thể bảo vệ tốt lợi ích riêng của họ,
mà còn phát huy ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách. Sự phân cực giàu nghèo tăng nhanh, khiến cho nhóm người bị thiệt thòi cảm thấy tuyệt vọng, làm
yếu cơ sở của sự ổn định xã hội. Vì thế, cần phải đặt ra mục tiêu bình đẳng hơn,
công bằng hơn.
1.2.2.3. Khi khu vực tư nhân và khu vực kinh tế hỗn hợp tăng lên, khu
vực thuần túy quốc hữu bị thu hẹp lại, thì khoảng cách giàu - nghèo cũng mở
rộng. Sự chênh lệch thu nhập thực sự giữa dân cư đô thị và nông thôn có khoảng
cách lớn. Chính phủ phải sử dụng công cụ phân phối lại như là một đòn bẩy để
điều tiết phân phối thu nhập quốc dân, làm thu hẹp khoảng chênh lệch về thu
nhập giữa các tầng lớp dân cư.
1.2.2.4. Mới đầu cuộc cải cách kinh tế bắt đầu từ nông thôn vì nông thôn
mới là nơi có đất đai và lao động. Càng về sau nông dân lại là đối tượng chịu

nhiều thiệt thòi, quyền về đất đai của họ liên tục bị xâm phạm. Trong thời gian
dài nông dân không được tiếp cận các dịch vụ công. Do đó, việc chuyển đổi hệ
thống thể chế thống nhất giữa nông thôn và thành thị trở nên cấp bách, thúc đẩy
sự thu hẹp khoảng cách nông thôn với thành thị, bảo đảm hài hòa về xã hội.
1.2.2.5. Tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng nếu xuất hiện sự tụt hậu của
văn hóa, chính trị, xã hội sẽ cản trở quá trình cải cách hệ thống kinh tế. Bởi sự
xuống cấp về đạo đức xã hội, sự thiếu vắng lòng tin và hệ thống an sinh xã hội
nghèo nàn tạo ra khó khăn lớn, cản trở phát triển.
Tóm lại, để phát triển bền vững nhất thiết phải tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo điều kiện cho người nghèo tiếp
cận các điều kiện sản xuất (vốn, đất đai), kiến thức (giáo dục), sức khỏe (chăm
sóc y tế), thông tin.
1.2.3 Một số giải pháp
Giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế có mối quan hệ gắn bó, hỗ trợ nhau
trong một nền kinh tế của một xã hội. Với việc phân tích các mối quan hệ của
các vấn đề trên gắn với tổng hợp kinh nghiệm rút ra từ các nước có nền kinh tế
tương tự Việt Nam, Việt Nam đã đưa ra những định hướng cơ bản để phát triển
một nền kinh tế Việt Nam nhanh và bền vững, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội, bảo vệ môi trường.


Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã xác định: Con người là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Phải chăm lo xây dựng con
người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân
cao, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh
thần quốc tế chân chính.
Những năm qua, kinh tế tăng trưởng nhanh, các lĩnh vực văn hóa, xã hội
đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Nhưng, kinh tế phát triển chưa bền
vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh
tế thấp, các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều

vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo
chiều sâu. Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã
hội, môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội.
Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ trương phát triển toàn diện các lĩnh vực
văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. Hoàn thiện hệ thống chính sách,
kết hợp chặt chẽ các mục tiêu chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã
hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát
triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững. Đại hội
XI của Đảng cũng định hướng các chính sách về giáo dục, đào tạo; về y tế; về
lao động và việc làm; về nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân
dân, hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và
thành thị; về hệ thống an sinh xã hội, về xóa đói, giảm nghèo; về cơ chế cung
ứng các dịch vụ công thích ứng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; về mở rộng các hình thức trợ giúp và cứu trợ xã hội, nhất là với các
đối tượng khó khăn; về đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí; về bảo vệ môi trường; về phát triển hài hòa, bền vững các vùng, xây
dựng đô thị và nông thôn mới.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định một trong
ba khâu đột phá là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc
dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ. Thực hiện tốt khâu đột phá này sẽ vừa thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế theo chiều sâu, vừa giải quyết được việc làm, nâng cao thu nhập cho
người lao động.
Phải đặc biệt coi trọng việc phát triển hệ thống chăm sóc sức khỏe, nâng
cao chất lượng dịch vụ y tế, khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện, nhất là
bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh; bảo đảm an sinh xã hội, hoàn thiện hệ
thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ



xã hội đa dạng, linh hoạt. Có thể gọi đây là hai trọng điểm kèm theo khâu đột
phá là giáo dục, đào tạo. Bởi vì nếu lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
cao mà thiếu sức khỏe và cuộc sống không yên bình do gặp nhiều rủi ro thì cũng
không thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống.
Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh không tự động hướng tới tiến bộ và
công bằng xã hội. Chỉ nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước mới
có thể thực hiện được mục tiêu này. Bởi vậy, phải xây dựng bộ máy nhà nước
trong sạch, vững mạnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều tiết kinh tế thị trường
của nhà nước. Thực tiễn những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước
đã có những chính sách, giải pháp tương đối đồng bộ, hiệu quả tập trung giải
quyết vấn đề xoá đói, giảm nghèo và hạn chế phân hoá giàu nghèo mang tầm
quốc gia được quốc tế ủng hộ và đánh giá cao. Thông qua các chương trình xoá
đói giảm nghèo, hàng triệu hộ gia đình, hàng chục triệu người thoát khỏi đói
nghèo, vươn lên làm giàu; góp phần hạn chế phân hoá giàu nghèo, thực hiện
công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội. Sự điều tiết này bao gồm nhiều mặt,
nhưng chủ yếu là:
1.2.3.1. Tăng cường vai trò, quản lý của Nhà nước trong việc khuyến
khích làm giàu, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo.
Tập trung triển khai đồng bộ các chương trình xoá đói, giảm nghèo nhất là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; bảo đảm tính bền vững kể cả trước
mắt và lâu dài trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Song hành với đó, Nhà nước cần đẩy mạnh cải cách hành chính, lành
mạnh hóa bộ máy nhà nước, ngăn ngừa và nghiêm trị các hành vi tiêu cực, nhất
là nạn tham nhũng, đầu cơ, buôn lậu, lừa đảo, hối lộ, móc ngoặc giữa công chức
nhà nước với các đại gia giàu có; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho dân...
Bởi vậy, trọng tâm của khâu đột phá để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải
cách hành chính.
1.2.3.2. Phát huy tối đa nội lực, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trong xoá đói, giảm nghèo và hạn chế phân hoá giàu nghèo. Việc Việt Nam trở

thành các nước có thu nhập trung bình đang đặt ra những thách thức mới, nguồn
hỗ trợ của thế giới cho nước nghèo sẽ không còn, “bẫy trung bình” sẽ ảnh hưởng
đến tốc độ phát triển và khả năng xoá đói, giảm nghèo của đất nước... Do đó,
nguồn lực để chi cho việc xoá đói, giảm nghèo sẽ chủ yếu phụ thuộc vào nội lực,
từ sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của đất nước. Việc phát huy nội lực, tranh
thủ, phát huy tối đa các nguồn lực của từng cá nhân và của cộng đồng là vô cùng


quan trọng cần được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác xoá
đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo trong điều kiện mới.
1.2.3.3. Chủ trương, biện pháp tích cực, đúng đắn, công khai, minh bạch
để giải quyết vấn đề đói nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo với những nội
dung, hình thức mới. Điểm khác biệt là đói nghèo ở nông thôn thường nhận
được sự chia sẽ của người thân, gia đình, dòng họ, cộng đồng làng xóm. Còn ở
đô thị, do đặc điểm đời sống đô thị nên việc nhận dạng, đánh giá về đói nghèo
rất phức tạp; hơn nữa khoảng cách giàu nghèo ở đô thị lại rất lớn, do đó việc
thực hiện các biện pháp trợ giúp có nhiều khó khăn, bài toán giàu - nghèo ở đô
thị sẽ khó giải hơn. Đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng,
linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các
nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời
sống.
Để xoá đói, giảm nghèo bền vững, hạn chế phân hoá giàu nghèo, ngoài sự
quan tâm lãnh đạo của Đảng, Nhà nước còn phải có sự tham gia của cả cộng
đồng, trong đó có sự chia xẻ, đóng góp của người giàu và sự vươn lên của chính
người nghèo, hộ gia đình nghèo. Trong điều kiện hiện nay, làm tốt công tác xoá
đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo là góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
1.2.3.4. Tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người, nhất là người nghèo được
quyền sở hữu hay chiếm hữu và sử dụng những yếu tố sản xuất, hoặc còn gọi là

"các tài sản sinh lời".
Chính sự phân phối không đều về quyền sở hữu các điều kiện sản xuất,
như đất đai, vốn... giữa các tầng lớp dân cư khác nhau đã tạo nên chênh lệch về
thu nhập. Bởi vậy, việc điều tiết thu nhập không chỉ hướng vào việc phân phối
kết quả sản xuất mà còn phải hướng vào thay đổi dần dần mô hình tập trung các
nguồn lực, có lợi cho nhóm người thu nhập thấp. Nhiều nhà nghiên cứu đã dẫn
ra số liệu: sở dĩ 20% số người dân thuộc lớp giàu có ở các nước đang phát triển
nhận được hơn 50% thu nhập quốc dân là vì họ đã sở hữu và kiểm soát trên 70%
các nguồn lực sản xuất, như đất đai, vốn, kể cả vốn nhân lực chất lượng cao...
Nhà nước phải có cơ chế để những người nghèo, nhất là nông dân nghèo
được tiếp cận các yếu tố “đầu vào” của sản xuất (tín dụng, phân bón, hạt giống,
giáo dục đào tạo...) và phương tiện tiếp thị. Cách tốt nhất để giảm nghèo khổ là
giúp người nghèo tìm được việc làm hay tự tạo ra việc làm. Nhằm mục tiêu này,
nhiều nước đã giao quyền chiếm hữu và sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân,
lập ngân hàng phục vụ người nghèo, đào tạo nghề cho người nghèo, mở rộng


khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, miễn giảm học phí, thậm chí mở lớp
riêng cho con em dân nghèo do nhà nước tài trợ. Một bài học quý báu mà nhiều
nước đã rút ra là: cần có chính sách phát triển nông thôn toàn diện, tránh tình
trạng đẩy nhanh quá mức công nghiệp hóa thành thị, coi nhẹ công nghiệp hóa
nông thôn, khiến lao động dôi dư từ nông nghiệp kéo ra thành thị quá đông làm
gia tăng số người thất nghiệp, quá tải về nhà ở và giao thông ở đô thị.
1.2.3.5. Điều tiết giảm thu nhập của tầng lớp dân cư giàu có.
Nhà nước đánh thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
tài sản, kể cả thuế thừa kế... Đây là thuế trực thu, theo lũy tiến. Dĩ nhiên, mức
thuế suất cao nhất cũng chỉ ở một giới hạn sao cho không triệt tiêu động cơ
chính đáng và nỗ lực của những người có khả năng làm giàu hợp pháp. Theo
khảo sát của Michael P.Todaro, tác giả cuốn "Kinh tế học cho thế giới thứ ba", ở
phần lớn các nước đang phát triển sự điều tiết này còn rất hạn chế một phần vì

thu nhập của dân cư và các doanh nghiệp chưa cao, còn lại chủ yếu là do thất thu
lớn, vì nhiều nguyên nhân, như: 1) Các doanh nghiệp giàu thường tài trợ hào
phóng cho những người thu thuế, nên họ đã cấu kết với nhau để giảm thuế. 2)
Trình độ kiểm toán kém. 3) Các công ty xuyên quốc gia thực hiện cái gọi là
"định giá chuyển nhượng", tức là khi mua, bán hàng hóa giữa các chi nhánh
trong nội bộ công ty đặt ở những nước khác nhau, họ tìm cách tăng giá mua và
hạ thấp giá bán một cách giả tạo ghi trên hóa đơn để giảm bớt lợi nhuận tại nước
có mức thuế thu nhập doanh nghiệp cao. Ưu đãi quá mức cho các nhà tư bản để
thu hút đầu tư, như giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế quá nhiều năm...
1.2.3.6. Điều tiết tăng thu nhập cho tầng lớp người nghèo, yếu thế.
Nhà nước dùng ngân sách để hỗ trợ cho người nghèo, những người
khuyết tật... thông qua các chương trình kinh tế - xã hội, các quỹ trợ cấp, trợ giá,
tín dụng ưu đãi... Ngoài ra còn vận động nhân dân góp quỹ xóa đói, giảm nghèo,
giúp đỡ vùng gặp thiên tai.
Nhà nước tăng các dịch vụ công và hỗ trợ chi phí như các dự án về y tế
công cộng, bệnh viện, trường học, chương trình nước sạch, chương trình dinh
dưỡng cho trẻ nghèo trước tuổi đến trường, chăm sóc người già cô đơn không
nơi nương tựa, trẻ mồ côi…. Vì phần lớn người nghèo ở các nước đang phát
triển là nông dân, nên phải coi trọng chương trình phát triển toàn diện nông
thôn.
1.2.3.7. Điều tiết giá cả, quan hệ cung cầu trên thị trường, nhằm bảo đảm
ổn định sản xuất và mức sống của những người có thu nhập thấp. Đặc biệt, giữ
ổn định giá cả các mặt hàng thiết yếu (lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng


thông thường...), đánh thuế tiêu thụ cao vào những mặt hàng cao cấp (ô-tô, tủ
lạnh, điều hòa không khí, rượu ngoại...).
1.2.3.8. Mở rộng và đa dạng hóa hệ thống bảo hiểm. Kinh tế thị trường
xảy ra nhiều rủi ro, cộng với thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng đến sản xuất và đời
sống của dân cư. Bởi vậy, nhà nước cần khuyến khích mở rộng và đa dạng hóa

các loại hình bảo hiểm của cả nhà nước và tư nhân, nhằm ổn định kinh tế - xã
hội. Dịch vụ này ở nước ta còn rất kém phát triển. Đến nay mới thí điểm bảo
hiểm nông nghiệp là quá chậm.
1.2.3.9. Tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận thông tin, cơ hội để
họ nâng cao kiến thức trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nhằm tạo điều kiện
cho người nghèo tự đưa ra những quyết định phù hợp khả năng, điều kiện cụ thể
của họ để có một xu hướng phát triển bền vững.
Có thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, Nhà nước mới phát huy được mặt
tích cực, hạn chế và ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường, tạo ra những tiền
đề để nền kinh tế phát triển bền vững, hài hòa với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, trong đó có vấn đề xóa đói, giảm nghèo theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.

PHẦN 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
Đã từ lâu, đặc biệt là từ sau chiến tranh thế giới thứ lần thứ hai, các quốc gia có
độc lập chủ quyền đều đưa ra những mục tiêu phấn đấu cho sự sự tiến bộ của quốc
gia mình. Tuy còn có những khía cạnh khác nhau trong quan niệm, nhưng nói
chung sự tiến bộ của đất nước trong một giai đoạn nào đó thường được đánh giá
trên hai mặt: sự tăng trưởng kinh tế và sự tiến bộ về xã hội. Trên thực tế, tăng
trưởng và phát triển là hai thuật ngữ dùng để phản ánh hai mặt của sự tiến bộ đó.
Tăng trưởng và phát triển đôi khi được dùng để thay thế lẫn nhau, nhưng giữa
chúng có sự khác biệt căn bản.
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm.

2.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tiến bộ, mở rộng qui mô về mặt số lượng của các yếu tố của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định nhưng trong
khuôn khổ giữ nguyên về mặt cơ cấu và chất lượng.
Tăng trưởng kinh tế thực chất là sự lớn mạnh của nền kinh tế chỉ đơn
thuần về mặt số lượng; đây là sự biến đổi có ý nghĩa tích cực, mặc dù nó cũng



giúp cho xã hội có thêm các điều kiện vật chất cụ thể để đáp ứng các nhu cầu đặt
ra của xã hội.
Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng
sản lượng nền kinh tế của thời kì sau so với thời kì trước:
Yo: Tổng sản lượng thời kì trước
Y1: Tổng sản lượng thời kì sau
Mức tăng trưởng tuyệt đối: delta = Y1 - Yo.
Mức Tăng trưởng tương đối: = Y1/ Yo.
2.1.1.2. Phát triển kinh tế
Là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tích cực dựa trên sự biến đổi cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế.
Như vậy, đã có phát triển kinh tế là bao hàm nội dung của sự tăng trưởng
kinh tế, nhưng nó được tăng trưởng theo một cách vượt trội so sự đổi mới về
khoa học công nghệ, do năng suất xã hội cao hơn hẳn và có cơ cấu kinh tế hợp lí
và hiệu quả hơn hẳn. Do đó, khái niệm phát triển kinh tế bao gồm :
- Trước hết là sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự
tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
- Tăng thêm qui mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội là hai
mặt vừa phụ thuộc lại vừa độc lập tương đối của lượng và chất.
- Sự phát triển là một quá trình tiến hóa theo thời gian do những nhân tố
nội tại của nền kinh tế quyết định. Có nghĩa là người dân của quốc gia đó phải là
những thành viên chủ yếu tác động đến sự biến đổi kinh tế của đất nước.
- Kết quả của sự phát triển kinh tế - xã hội là kết quả của một quá trình
vận động khách quan, còn mục tiêu kinh tế xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận
tới các kết quả đó.
Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế gắn liền với quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa của mỗi quốc gia, là bước đi tất yếu của mọi sự biến
đổi kinh tế từ thấp đến cao, theo xu hướng biến đổi không ngừng.
Ngoài ra, hiện nay các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới còn dùng khái

niệm về Phát triển kinh tế bền vững: Đây là khái niệm đang còn có nhiều ý kiến
khác nhau; tuy nhiên, theo Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển thì:
Phát triển kinh tế bền vững là phát triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà
không làm tổn thương đến các nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Về mặt nội dung, phát triển kinh tế bền vững là sự phát triển kinh tế phải
đáp ứng yêu cầu: Kinh tế phải phát triển liên tục; Kinh tế phải phát triển với tốc


độ cao; Đáp ứng các nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn thương đến các thế
hệ tương lai.
2.1.1.3. Đói nghèo
Là một hiện tượng kinh tế- xã hội mang tính chất toàn cầu. Nó không chỉ tồn tại
ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, mà nó còn tồn tại ngay tại các quốc
gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, thể
chế chính trị xã hội và điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà tính chất, mức độ
nghèo đói của từng quốc gia có khác nhau. Nhìn chung, mỗi quốc gia đều sử
dụng một khái niệm để xác định mức độ nghèo đói và đưa ra các chỉ số nghèo
đói để xác định giới hạn nghèo đói. Giới hạn nghèo đói của các quốc gia được
xác định bằng mức thu nhập tối thiểu để người dân có thể tồn tại được, đó là
mức thu nhập mà một hộ gia đình có thể mua sắm được những vật dụng cơ bản
phục vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết yếu khác theo mức giá hiện
hành.
Tại hội nghị ban về xóa đói giảm nghèo do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc
Thái Lan tháng 9.1993 đã đưa ra khái niệm về nghèo đói như sau: Đói nghèo là
tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu
cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh
tế xã hội và phong tục tập quán của các địa phương. Theo định nghĩa này thì
mức độ nghèo đói ở các nước khác nhau là khác nhau.
Ở Việt Nam: Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của
nhân dân trong những năm qua thì khái niệm đói nghèo được xác định như sau:

Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả mãn những
nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức
sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Một cách hiểu khác: Nghèo là
một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng
ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng
thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ thể của từng địa
phương hay từng quốc gia. Ở Việt Nam thì nghèo được chia thành các mức khác
nhau: nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối, nghèo có nhu cầu tối thiểu.
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo
không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở, đi lại...
- Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có
mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa phương đang xét.
- Nghèo có nhu cầu tối thiểu: Đây là tình trạng một bộ phận dân cư có
những đảm bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số
sinh hoạt hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu.


Hiện nay, theo Điều 1 của Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg, ngày
19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa
chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 thì Việt Nam có các tiêu chí và chuẩn
sau:
- Các tiêu chí về thu nhập
+ Chuẩn nghèo: 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và
900.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
+ Chuẩn cận nghèo: 1.000.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và
1.300.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
- Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản
+ Các dịch vụ xã hội cơ bản (05 dịch vụ): y tế; giáo dục; nhà ở; nước sạch
và vệ sinh; thông tin;
+ Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (10 chỉ

số): tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn;
tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu
người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn
thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
2.1.2. Yếu tố ảnh hưởng

2.1.2.1. Các đại lượng đo lường sự tăng trưởng, phát triển kinh tế và đói
nghèo
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện ở sự tăng lên về sản lượng hằng năm do nền
kinh tế tạo ra. Do vậy thước đo của sự tăng trưởng là các đại lượng sau: Tổng
sản phẩm trong nước (GDP); tổng sản phẩm quốc dân (GNP); sản phẩm quốc
dân thuần tuý (NNP); thu nhập quốc dân sản xuất (NI) và thu nhập quốc dân sử
dụng (NDI).
2.1.2.1.1. Tổng sản phẩm trong nước (Tổng sản phẩm quốc nội - GDP)

GDP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra trong năm bằng các
yếu tố sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Đại lượng này thường được
tiếp cận theo các cách khác nhau:
- Về phương diện sản xuất: Tổng giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực
sản xuất và dịch vụ trong cả nước GDP =Giá trị tăng (Y)= Giá trị sản lượng
(GO)- Chi phí các yếu tố trung gian (IC).
- Về phương diện tiêu dùng: GDP = C + I + G + (X - M).
Trong đó: C: Tiêu dùng các hộ gia đình
G: Các khoản chi tiêu của Chính phủ
I: Tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp


(X - M): Xuất khẩu ròng trong năm
- Về phương diện thu nhập: GDP là toàn bộ giá trị mà các hộ gia đình,
các doanh nghiệp và các tổ chức Nhà nước thu được từ giá trị gia tăng đem lại.

GDP = Cp + Ip + T
Trong đó: Cp: các khoản chi tiêu mà các hộ gia đình được quyền tiêu dùng
Ip: Các khoản mà doanh nghiệp tiết kiệm được dùng để đầu tư
GDP theo cách xác định trên đã thể hiện một thước đo cho sự tăng trưởng
kinh tế do các hoạt động kinh tế trong nước tạo ra, không phân biệt sở hữu trong
hay ngoài nước với kết quả đó. Do vậy, GDP phản ánh chủ yếu khả năng sản
xuất của nền kinh tế một nước.
2.1.2.1.2. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)

GNP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một
nước tạo ra và có thể thu nhập trong một năm, không phân biệt sản xuất được
thực hiện trong nước hay ngoài nước. Như vậy, GNP là thước đo sản lượng gia
tăng mà nhân dân của một nước thực sự thu nhập được.
GNP = GDP + Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài
Với ý nghĩa là thước đo tổng thu nhập của nền kinh tế, sự gia tăng thêm
GNP thực tế đó chính là sự gia tăng tăng trưởng kinh tế, nó nói lên hiệu quả của
các hoạt động kinh tế đem lại.
GNP thực tế là GNP được tính theo giá trị cố định nhằm phản ảnh đúng
sản lượng gia tăng hàng năm loại trừ những sai lệch do sự biến động giá cả (lạm
phát) tạo ra, khi tính GNP theo giá thị trường thì đó là GNP danh nghĩa.
Hệ số giảm phát là tỷ lệ GNP danh nghĩa và GNP thực tế ở cùng một thời
điểm. Dùng hệ số giảm phát để điều chỉnh GNP danh nghĩa ở thời điểm gốc, để
xác định mức tăng trưởng thực tế và tốc độ tăng trưởng qua các thời điểm.
* GDP khác với tổng sản phẩm quốc dân (GNP) ở chỗ loại bỏ việc
chuyển đổi thu nhập giữa các quốc gia, nó được quy theo lãnh thổ mà sản phẩm
được sản xuất ở đó hơn là thu nhập nhận được ở đó.
Để dễ hiểu hơn, ta có thể lấy ví dụ như sau: Một nhà máy sản xuất đồ ăn
nhanh đặt tại Việt Nam do công dân Mỹ đầu tư để tiêu thụ nội địa. Khi đó mọi
thu nhập từ nhà máy này sau khi bán hàng được tính vào GDP của Việt Nam,
tuy nhiên lợi nhuận ròng thu được (sau khi khấu trừ thuế phải nộp và trích nộp

các quỹ phúc lợi) cũng như lương của các công nhân Mỹ đang làm việc trong
nhà máy được tính là một bộ phận trong GNP của Mỹ.
Những gì người công nhân ở Việt Nam làm ra thì được tính vào GDP của
Việt Nam. Nhưng nếu người đó đi xuất ngoại lao động thì số tiền người đó dành


dụm được gửi về cho gia đình sẽ được tính vào GNP chứ không vào GDP vì đó
là số tiền làm ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Số tiền các Việt kiều gửi về nước
được tính vào GNP hay các viện trợ cho không, không phải hoàn lại của các
nước cho Việt Nam được tính vào GNP, mà không tính vào GDP.
- Sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP): NNP là giá trị còn lại của GNP, sau
khi đã trừ đi giá trị khấu hao tài sản cố định (Dp)
NNP = GNP - Dp
NNP phản ánh phần của cải thực sự mới được tạo ra hàng năm.
- Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI): NDI là phần mà người dân nhận được và
có thể tiêu dùng, là phần thu nhập ròng sau khi trừ đi thuế (trực thu và thuế gián
thu) (Ti+Td) cộng với trợ cấp (Sd):
NDI = NNP - (Ti+Td) + Sd
Mục đích đưa ra các thước đo là để tiếp cận tới các trạng thái phát triển
của nền kinh tế, mỗi thước đo đều có ý nghĩa nhất định và được sử dụng tuỳ
thuộc vào mục đích nghiên cứu. Mặc dù đó là các thước đo phổ biến hiện nay,
nhưng đó chỉ là những con số xấp xỉ về các trạng thái và tốc độ biến đối trong
phát triển kinh tế, vì bản thân các thước đo đó chưa thể phản ánh hết được các
sự kiện phát triển cả mặt tốt lẫn mặt chưa tốt. Chẳng hạn như các sản phẩm tự
túc, công việc nội trợ gia đình, thời gian nghỉ ngơi, sự tự do, thoải mái trong đời
sống sinh hoạt, sự tổn hại do bị ô nhiễm môi trường thì được tính bằng cách nào.
1.1.3. Thu nhập bình quân đầu người và nghèo, đói:
1.1.3.1. Thu nhập bình quân đầu người:
GNP bình quân đầu người của một quốc gia hay lãnh thổ tại một thời điểm nhất
định là giá trị nhận được khi lấy GNP của quốc gia hay lãnh thổ này tại thời

điểm đó chia cho dân số của nó cũng tại thời điểm đó.
Điều gì sẽ thể hiện khi so sánh GNP của các nước có dân số tương tự nhau như
ở bảng sau:
Bảng: Thu nhập của một số nước năm 1997


Nguồn: Báo cáo về tình hình phát triển thế giới của Ngân hàng thế giới - 1998.
Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy những nước có dân số ngang nhau (trừ
Việt Nam) nhưng những nước giàu như Anh, Pháp, thì có GNP và GNP/người
lớn hơn rất nhiều so với các nước nghèo. Điều này nói lên rằng người dân Anh,
Pháp có nhiều khả năng sống sung sướng hơn những người dân ở các nước có
mức thu nhập thấp như Ai cập, Êtiopia và Việt Nam.
Mối liên hệ GNP và dân số nói lên rằng muốn nâng cao phúc lợi vật chất
cho nhân dân của một số nước, không chỉ là tăng sản lượng của nền kinh tế mà
còn phải kìm hãm tốc độ tăng dân số. Do vậy, thu nhập bình quân đầu người là
một chỉ số thích hợp hơn để phản ánh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, nó vẫn chưa thể hiện mặt chất của sự tăng trưởng, như là sự tự do hạnh
phúc của mọi người, sự văn minh của xã hội, tức là sự phát triển của xã hội. Cho
nên để nói lên sự phát triển người ta dùng hệ thống các chỉ số.
.
2.2. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN (13-20 trang)
3.1. Khái quát diễn biến giá cao su của Việt Nam trong thời gian qua
3.2. Yếu tố ảnh hưởng đến biến động giảm giá cao su của Việt Nam trong thời
gian qua
3.2.1. Cung cao su
3.2.2. Cầu về sản phẩm cao su
3.2.3. Sản phẩm thay thế............................
3.3.Giải pháp nhằm...........

3.3.1. Quan điểm và định hướng
3.3.2. Giải pháp
3.3.2.1. Ổn định quy hoạch sản xuất cao su
3.3.2.2. Kích cầu tiêu dùng
3.3.2.3. Mở rộng và đa dạng thị trường xuất khẩu ......................


PHẦN 4: KẾT LUẬN
(viết ngắn gọn 1-1,5 trang)
Tóm tắt ngắn gọn các kết quả nghiên cứu (không viết chung chung, không bàn luận
thêm)

TÀI LIỆU THAM KHẢO (trang mới)

(Xem hướng dẫn ở trang phía dưới)
Lưu ý: Các tài liệu được liệt kê trong danh mục TLTK này phải xuất hiện trong báo
cáo và ngược lại tất cả các tài liệu được trích dẫn trong báo cáo phải được nêu trong
danh mục này.

PHỤ LỤC (nếu có, trang mới)
HƯỚNG DẪN XẾP TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tham khảo được xếp riêng theo từng ngôn ngữ (Việt, Anh, Pháp, Đức, Nga,
Trung, Nhật...). Các tài liệu bằng tiếng nước ngoài phải giữ nguyên văn, không phiên
âm, không dịch, kể cả tài liệu bằng tiếng Trung Quốc, Nhật... (đối với những tài liệu
bằng ngôn ngữ còn ít người biết có thể thêm phần dịch tiếng Việt đi kèm theo mỗi tài
liệu).
2. Tài liệu tham khảo xếp theo thứ tự ABC họ tên tác giả theo thông lệ của từng nước:
- Tác giả là người nước ngoài: xếp thứ tự ABC theo họ.
- Tác giả là người Việt Nam: xếp thứ tự ABC theo tên nhưng vẫn giữ nguyên
thứ tự thông thường của tên người Việt Nam, không đảo tên lên trước họ (ví dụ,

Nguyễn Văn A chứ không phải A (Nguyễn Văn).
- Tài liệu không có tên tác giả thì xếp theo thứ tự ABC từ đầu của tên cơ quan
ban hành báo cáo hay ấn phẩm, ví dụ: Tác giả là: Bộ Nông Nghiệp vụ xếp theo vần B,
Học viện Nông nghiệp xếp theo vần H.
3. Tài liệu tham khảo là sách, luận văn, báo cáo phải ghi đủ các thông tin:
● tên tác giả hoặc cơ quan ban hành (không có dấu ngăn cách)
● (năm xuất bản), (đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn)
● tên sách, luận văn, báo cáo, (in nghiêng, dấu phẩy cuối tên)
● nhà xuất bản, (dấu phẩy cuối tên nhà xuất bản)
● nơi xuất bản. (dấu chấm kết thúc tài liệu tham khảo)
(Xem ví dụ ở phần tài liệu tham khảo số 1, 2, 3, 29, 30, 31)


Tài liệu tham khảo là báo cáo, tin trong tạp chí, bài trong một cuốn sách...
ghi đầy đủ các thông tin sau:
● tên tác giả (không có dấu ngăn cách)
● (năm công bố), (đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn)
● “tên bài báo”, (đặt trong ngoặc kép, không in nghiêng, dấu phẩy cuối tên)
● tên tạp chí hoặc tên sách, (in nghiêng, dấu phẩy cuối tên)
● tập (không có dấu ngăn cách)
● (số), (đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn)
● các số trang. (gạch ngang giữa hai chữ số, dấu chấm kết thúc)
(Xem ví dụ ở phần tài liệu tham khảo số 27, 28).
Cần chú ý những chi tiết về trình bày nêu trên. Nếu tài liệu dài hơn một dòng
thì nên trình bày sao cho từ dòng thứ hai lùi vào so với dòng thứ nhất 1cm để phần tài
liệu tham khảo được rõ ràng và dễ theo dõi.
Dưới đây là một số ví dụ về cách trình bày tài liệu tham khảo:

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt

1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2010), Quy hoạch phát triển ngành cà
phê Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.
2. Hồ Quế Hậu (2012), Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với
nông dân ở Việt Nam, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
3. Trần Tiến Khai (2012), Phương pháp nghiên cứu kinh tế - Kiến thức cơ bản, NXB
Lao động - Xã hội, Hà Nội.
...............
27. Chu Thị Kim Loan, Nguyễn Hùng Anh và Trần Hữu Cường (2011), “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp”, Tạp chí
Khoa học và Phát triển, 9(3), 492-502.
................

Tiếng Anh
28. Anderson J. E. (1985), The Relative Inefficiency of Quota - The Cheese Case,
American Economic Review, 75(1), 78-90.
29. Bolding K. E. (1995), Economics Analysis, Hamish Hamiltion, London.
30. Central Statistical Oraganisation (1995), Statistical Year Book, Beijing.


31. Institute of Economics (1998), Analysis of Expenditure Pattern of Urban
Households in Vietnam, Departement of Economics, Economic Research
Report, Hanoi.



×