Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế việt nam.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.04 KB, 93 trang )

Luận văn tốt nghiệp

b

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ
trong công cuộc đổi mới kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam từng bước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu và bước đầu có tích lũy. Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm. Đến nay, thế và lực của đất
nước đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Chúng ta đã tạo được những tiền đề cần thiết
để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Những thành tựu đó có sự đóng góp rất lớn của khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi .
Đối với q trình phát triển nền kinh tế Việt Nam, từ một điểm xuất phát
thấp, đầu tư trực tiếp nước ngồi có vai trị hết sức quan trọng. Nó là nguồn bổ
sung vốn cho đầu tư, là một kênh để chuyển giao công nghệ, là một giải pháp tạo
việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
và giúp đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
Từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết tháng 12
năm 2000, Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 3254 dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài với tổng số vốn đăng ký là 38.553 triệu USD. Tính trung bình mỗi năm
chúng ta cấp phép cho 250 dự án với mức 2965,62 triệu USD vốn đăng ký. Trong
giai đoạn 1991-1999, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các doanh nghiệp FDI
chiếm 26,51% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội. Năm 2000, khu vực FDI
tạo ra doanh thu 6.500 triệu USD, giải quyết công ăn việc làm cho 350.000 lao
động và đóng góp 12,7% trong GDP cả nước.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, Đảng và Nhà
nước ta phấn đấu đến năm 2010 đưa mức GDP bình quân đầu người của nước ta
lên gấp đôi so với hiện nay. Để tăng gấp đơi GDP trong khoảng 10 năm địi hỏi
một nhịp tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,2% trong cả giai đoạn 2001-2010.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, chúng ta xác định phải huy động được


vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10-12 tỷ USD cho giai đoạn 2001-2005 và
14-16 tỷ USD giai đoạn 2006-2010. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn trong
điều kiện hiện nay khi mà dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

-1-


đang chững lại và có biểu hiện giảm xuống nhất là từ sau khi cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ khu vực nổ ra vào cuối năm 1997.
Do đó, việc phân tích, đánh giá một cách chi tiết, sâu sắc và cụ thể về hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngồi nói chung và ở Việt Nam nói riêng nhằm thấy rõ
hơn tác động của nó đến nền kinh tế, thấy được những vấn đề đang đặt ra, đồng
thời tìm các giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước đang là một yêu cầu cấp
bách đặt ra đối với chúng ta.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề và trên cơ sở tham khảo ý kiến
của các cô chú công tác tại Ban Phân tích và dự báo Kinh tế vĩ mô - Viện chiến
lược phát triển - Bộ KH-ĐT, em đã chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp
của mình là:

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGỒI VỚI
TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
Thông qua nội dung nghiên cứu của luận văn, em hy vọng có thể vận dụng
những kiến thức lý luận và thực tiễn đã tích lũy được để có một sự đánh giá khái
qt, toàn diện nhưng cũng tương đối chi tiết và cụ thể về cơ sở lý luận cũng như
thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong những
năm vừa qua, từ đó có thể đề ra những định hướng cho hoạt động này trong thời
gian tới.
Nội dung luận văn bao gồm 3 chương:
CHƯƠNG I :


CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CHƯƠNG II :

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

CHƯƠNG III : NHỮNG GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

NƯỚC NGOÀI ĐÁP ỨNG NHU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ

Luận văn của em hoàn thành được sự hướng dẫn trực tiếp tận tình của thầy
Ngơ Văn Mỹ và sự chỉ bảo, góp ý, giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo của chú Ngô Việt
Lâm cùng các cô chú Ban Phân tích và Dự báo kinh tế vĩ mơ - Viện Chiến lược
phát triển - Bộ Kế hoạch và đầu tư. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy và
các cô chú. Nhân dịp này, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả

-2-


Luận văn tốt nghiệp

b

các thầy cô giáo và bạn bè đã giúp đỡ em trong quá trình học tập những năm vừa
qua.
Tuy nhiên, do kiến thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn còn non yếu, thời
gian nghiên cứu chưa nhiều, cùng với các hạn chế về mặt số liệu nên chuyên đề

của em không tránh khỏi những khiếm khuyết và sơ sài. Em mong được sự góp ý
chỉ bảo để lần sau em làm được tốt hơn.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

-3-


II. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm và các đặc trưng
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là một hình thức
của đầu tư nước ngồi. Sự ra đời và phát triển của nó là kết quả tất yếu của q trình
quốc tế hóa và phân cơng lao động quốc tế. Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác
nhau về đầu tư trực tiếp nước ngồi. Nhìn chung đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem
xét như một hoạt động kinh doanh ở đó có yếu tố di chuyển vốn quốc tế và kèm theo
sự di chuyển vốn là chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và các ảnh hưởng kinh tế
xã hội khác đối với nước nhận đầu tư.
Theo Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngồi có thể
được hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để
hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh
trên lãnh thổ Việt Nam.
Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngồi là hình thức di
chuyển vốn quốc tế trong đó người sở hữu đồng thời trực tiếp tham gia điều hành và
quản lý hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Về thực chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự
đầu tư của các cá nhân, tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và
làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.
Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là “tư bản thừa” xuất hiện trong các nước tiên

tiến. Nhưng thực chất vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách
quan, khi mà q trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất
hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngồi. Đó chính là q trình phát triển của sức sản xuất xã
hội, đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy
mơ sản xuất trên phạm vi quốc tế.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngồi vào Việt
Nam gồm có 4 hình thức sau:
• Hợp đồng hợp tác kinh doanh : là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để
cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trên cơ
sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà
không thành lập một pháp nhân mới. Hợp đồng hợp tác kinh doanh phải được
đại diện có thẩm quyền của các bên ký kết.
• Doanh nghiệp liên doanh : là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên
cơ sở hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các bên (bên nước ngoài và bên
-4-


Luận văn tốt nghiệp

b

Việt Nam). Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân, các bên tham gia
liên doanh được chia lợi nhuận và chia rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên
vào phần vốn pháp định của liên doanh.
• Doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi : là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở
hữu của các cá nhân, tổ chức nước ngoài do họ thành lập và quản lý. Nó là một
pháp nhân mới của Việt Nam dưới hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn.
• Đầu tư theo các hình thức BOT, BT, BTO : đây là các hình thức đầu tư đặc
biệt thường áp dụng cho các cơng trình xây dựng cơ sở hạ tầng. Sự ra đời của
các phương thức này nhằm tạo thêm nguồn vốn, xúc tiến nhanh chóng việc ưu

tiên phát triển cơ sở hạ tầng, đồng thời san sẻ một phần gánh nặng đầu tư cho
cơ sở hạ tầng của ngân sách Nhà nước.
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết giữa
chủ đầu tư nước ngồi với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng cơ sở hạ
tầng tại Việt Nam, bên nước ngồi bỏ vốn đầu tư xây dựng cơng trình và kinh doanh
trên cơng trình đó để thu hồi vốn và có lãi hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao cơng
trình cho Nhà nước Việt Nam mà không được thu thêm bất kỳ khoản tiền nào khác.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) là văn bản ký kết giữa
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngồi để xây dựng
cơng trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao
cơng trình đó cho nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam cho phép nhà đầu tư quyền
kinh doanh trên cơng trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và
lợi nhuận hợp lý.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng cơng trình
kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngồi chuyển giao cơng trình
đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước
ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và thu được lợi nhuận hợp lý.
Đầu tư trực tiếp nước ngồi có một số đặc điểm chủ yếu sau :
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách
nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, khơng có
những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tùy
theo tỷ lệ góp vốn của mình.

-5-


- Thơng qua hình thức này, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật

tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý...là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư
khác khơng giải quyết được.
- Nguồn vốn này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình
thức vốn pháp định, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc
mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.

3.3. Đánh giá bản chất và vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển
Bản chất của FDI là các hoạt động đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở khai thác lợi
thế so sánh trong phân công lao động quốc tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao ở phạm vi
tồn cầu. Do vậy, FDI là các hoạt động kinh tế và nó có ảnh hưởng như con dao hai
lưỡi đối với nước nhận đầu tư. Nếu Chính phủ nước chủ nhà mạnh thơng qua các
chính sách thu hút FDI hợp lý thì khai thác được tốt mặt tích cực và hạn chế tối đa ảnh
hưởng xấu của nó. Ngược lại FDI sẽ là nhân tố gây trở ngại lớn cho những Chính phủ
khơng làm chủ được đường lối phát triển đất nước của mình.
Khi phân tích vai trị của FDI thì không những chỉ căn cứ vào mức độ tham gia
của nó vào nền kinh tế mà cịn phải đánh giá khả năng tiếp nhận của nước chủ nhà.
Thật vậy, trong nhiều trường hợp mặc dù tỷ lệ FDI trong tổng vốn đầu tư cao nhưng
điều đó khơng có nghĩa là tác dụng của nó lớn đối với nước nhận đầu tư. Hiệu quả
hoạt động FDI còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển kinh tế của nước nhận
đầu tư. Thông thường cứ 1 USD vốn đầu tư của nước ngồi cần phải có 3 - 4 USD
vốn đối ứng, nếu đạt được tỷ lệ như vậy thì hoạt động của cả vốn đầu tư trong nước
và nước ngoài mới có hiệu quả. Vì thế FDI chỉ đóng vai trị tăng cường vốn đầu tư
trong nước mà khơng phải là yếu tố có tính chất quyết định sự phát triển kinh tế xã hội
của nước đang phát triển.
Tầm quan trọng lớn nhất của FDI không phải là bổ sung vốn đầu tư nội địa mà là
chuyển giao công nghệ, kiến thức kinh doanh, đào tạo tay nghề cho công nhân và cơ
hội tiếp cận vào thị trường thế giới của các nước đang phát triển.
Tuy nhiên mức độ tác động tích cực của các yếu tố này ở từng nước rất khác
nhau, nó phụ thuộc quan trọng vào chiến lược thu hút FDI của nước chủ nhà. Một khía
cạnh khác, ở nhiều nước, xét về lâu dài FDI không tạo ra sự phát triển bền vững cho

nước chủ nhà. Những hậu quả của nó như đã phân tích trên tác động cịn lớn hơn lợi
ích mà các nước đang phát triển thu được nếu xét theo tiêu chuẩn của kinh tế phát
triển. Vì vậy khi đánh giá vai trị của FDI thì cần phải phân tích ảnh hưởng của nó trên
phạm vi kinh tế xã hội. Hơn nữa khơng có đánh giá chung về vai trị của FDI mà cần

-6-


Luận văn tốt nghiệp

b

phân tích ảnh hưởng của nó trong điều kiện cụ thể từng nước. Từ đó mới tìm ra được
điều kiện cần và đủ để sử dụng có hiệu quả FDI trong chiến lược phát triển tổng thể
của nước chủ nhà. Để đánh giá một cách đầy đủ về ảnh hưởng của FDI có thể căn cứ
vào các yếu tố cơ bản sau:
• Lưu chuyển ngoại tệ : mức độ góp vốn, cải thiện cán cân thanh tốn quốc tế,
chuyển lợi nhuận về nước, thực hiện giá chuyển giao, thuế lợi nhuận.
• Cạnh tranh : mức độ làm phá sản các doanh nghiệp địa phương, thay thế vị trí
các cơ sở sản xuất then chốt nội địa.
• Chuyển giao cơng nghệ : Chi phí R & D của FDI ở nước chủ nhà, mức độ độc
quyền công nghệ và cơng nghệ phù hợp ở nước sở tại.
• Sản phẩm : Tỷ lệ tiêu thụ sản phẩm ở trong - ngoài nước và giữa các tầng lớp
dân cư trong xã hội, sản phẩm phù hợp.
• Đào tạo cán bộ và cơng nhân : Số lượng, trình độ cán bộ và công nhân được
đào tạo, số lao động được tuyển dụng.
• Mối quan hệ với các doanh nghiệp và cơ sở địa phương : Mức độ thiết lập các
mối quan hệ với các cơ sở trong nước, liên kết kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở
nước chủ nhà.
• Các vấn đề xã hội : Bất bình đẳng trong thu nhập, lối sống, tăng chênh lệch

giàu - nghèo trong xã hội.
Các yếu tố trên cần được phân tích tổng hợp cả về định tính và định lượng trong
mối tương quan với các yếu tố khác tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của
nước nhận đầu tư. Nếu chỉ phân tích về mặt định tính thì khơng chỉ ra được mức độ
ảnh hưởng của nó đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy
nhiên, phân tích định lượng là vấn đề khó đối với các nước đang phát triển, bởi vì
nguồn số liệu ít và thiếu chính xác. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng và phát triển không
chỉ do nguyên nhân của FDI mà còn được quyết định bởi nhiều yếu tố quan trọng
khác. Do vậy việc xây dựng các giả định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu để
phân tích ảnh hưởng của FDI đối với nước nhận đầu tư đóng vai trị rất quan trọng.

4. Q trình vận động của luồng vốn FDI tại các nước đang phát triển
Châu á những năm gần đây
Trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới tăng nhanh
và có sự thay đổi lớn về cơ cấu vốn giữa các khu vực và các quốc gia. Trong phần này

-7-


ta sẽ tập trung xem xét thực trạng và xu hướng vận động của FDI ở các nước đang
phát triển khu vực Châu Á trong đó có Việt Nam.
Trái ngược với nhiều dự báo, năm 1999, FDI vào Đông và Đông Nam Á tăng
11%, đạt 93 tỷ USD, chủ yếu là các nước mới cơng nghiệp hóa (Hồng Kơng - Trung
Quốc, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan), luồng FDI vào những nước này tăng gần
70%. Tại Hàn Quốc, luồng vào FDI đã tăng kỷ lục, đạt 10 tỷ USD. Luồng FDI vào
Singapore và Đài Loan đã tăng nhanh trở lại sau khi giảm mạnh vào năm 1998. Luồng
FDI vào Hồng Kông - nước tiếp nhận FDI lớn thứ hai trong khu vực hiện nay - tăng
hơn 50%, đạt 23 tỷ USD, do năm 1998 các nhà đầu tư Hồng Kông đã dấy lên làn sóng
đầu tư trở lại và một lượng lớn lợi nhuận đã được tái đầu tư nhờ có sự thay đổi tồn
diện hoạt động kinh tế tại đây. Trái lại, luồng FDI vào 3 trong số 5 nước chịu ảnh

hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua (Inđơnêxia, Thái Lan và
Philippin) lại giảm. Năm 1999, FDI vào Trung Quốc - nước có lượng FDI trong 4 năm
liền đều đạt khoảng 45 tỷ USD - giảm gần 8%, chỉ đạt hơn 40 tỷ USD. Những nước
có thu nhập thấp tại khu vực Đơng Nam Á mà lâu nay vẫn phụ thuộc vào nguồn FDI
của các nước khác trong khu vực tiếp tục lâm vào tình trạng khó khăn, do hoạt động
đầu tư tại Châu Á bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính.
Sự phục hồi luồng FDI vào khu vực này là do những nỗ lực mạnh mẽ trong việc
thu hút FDI, bao gồm tự do hóa hơn nữa ở cấp ngành, cởi mở hơn đối với các hoạt
động sáp nhập và thôn tính xun quốc gia. Năm 1999, tại 5 nước (Inđơnêxia,
Malaixia, Philippin, Hàn Quốc và Thái Lan) chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, tổng giá trị các vụ sáp nhập và thôn tính xuyên
quốc gia đạt con số kỷ lục 15 tỷ USD. Các hoạt động sáp nhập và thơn tính thực sự trở
thành một phương thức quan trọng để các TNCs đầu tư vào khu vực này. Trong giai
đoạn 1997 - 1999, trung bình mỗi năm khu vực này nhận được 20 tỷ USD từ các hoạt
động thơn tính và sáp nhập, so với mức 7 tỷ USD giai đoạn 1994 - 1996.
Năm 1999, FDI vào khu vực Nam Á giảm 13%, đạt 3,2 tỷ USD. Luồng FDI vào
Ấn Độ - nước tiếp nhận FDI lớn nhất tại khu vực - là 2,2 tỷ USD, giảm 17% so với
năm 1998. Năm 1999, FDI vào Trung Á giảm đôi chút, đạt 2,8 tỷ USD, làm mất đi đà
tăng trưởng đã có được trong thời kỳ đầu của chương trình tự do hóa và cải cách kinh
tế. FDI tại các quốc đảo Thái Bình Dương đã có những bước tiến triển. Trong năm
1999, tổng giá trị FDI tại các nước này đạt 250 triệu USD. Còn tại Tây Á, luồng FDI
vào đạt 6,7 tỷ USD, trong đó Ảrập -Xêut là nước tiếp nhận phần lớn các nguồn đầu tư
mới.
-8-


Luận văn tốt nghiệp

b


Luồng FDI ra từ các nước đang phát triển tại Châu Á đã tăng trở lại sau thời kỳ
suy giảm do khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (năm 1999, tăng khoảng 64%, ước
đạt 37 tỷ USD). Tuy nhiên, mức tăng này vẫn còn thấp hơn so với thời kỳ trước khủng
hoảng. Hồng Kông vẫn là nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất, chiếm hơn 1/2 tổng
giá trị luồng FDI ra của cả khu vực. Nhật Bản – một trong những nước cung cấp FDI
lớn nhất thế giới đang có những chuyển hướng cơ bản khu vực đầu tư. Trong những
năm gần đây, đầu tư của Nhật Bản có xu hướng dịch chuyển từ thị trường Bắc Mỹ,
Tây Âu, vốn là những thị trường truyền thống của họ, sang khu vực Châu Á, mà trọng
tâm là các nước Đông Nam Á để tận dụng lợi thế so sánh về lao động, tài nguyên
thiên nhiên, thị trường – là những lợi thế tiềm năng của các nước này – nhằm góp
phần khắc phục tình trạng suy thối kinh tế của mình, hỗ trợ cho sự phát triển của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ và các ngành công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao
động, tài nguyên. Các nước ASEAN, vốn trước đây chỉ là những nước tiếp nhận FDI
của các nước khác thì nay đã bắt đầu đầu tư ra nước ngoài, mà thị trường chủ yếu là
Trung Quốc, Việt Nam và những nước trong khu vực.
Các TNCs Châu Á tiếp tục thu hẹp hoạt động kinh doanh trong năm 1999. Có
những trường hợp chính các TNCs Châu Á tự bán các cơ sở kinh doanh của mình tại
nước ngồi, cũng có trường hợp các TNCs này bị các TNCs nước ngồi thơn tính. Do
khủng hoảng, nhiều TNCs Châu Á không tận dụng được lợi thế về giá trị tài sản rẻ,
ngoại trừ một số TNCs tại Hồng Kông, Singapore và Đài Loan đang nỗ lực duy trì khả
năng tài chính của mình để có thể tiến hành các hoạt động sáp nhập và thơn tính, chủ
yếu là ở các nước láng giềng. Các nước công nghiệp mới ở Châu Á đang vươn lên
thành lực lượng những nước đầu tư mới, thật sự trở thành những đối thủ cạnh tranh
với Nhật, Mỹ và Tây Âu tại khu vực này.
Luồng đầu tư vào Châu Á đang trên đà phục hồi, có lẽ trong khoảng 2-3 năm nữa
sẽ đạt mức của năm 1997. Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở Châu Á tuy đã tạm
thời cản trở luồng đầu tư vào khu vực và liên khu vực, tuy nhiên tự do hóa đầu tư đã
trở thành một xu thế lớn trong khu vực và trên thế giới mà cuộc khủng hoảng này
không thể đảo ngược mà trái lại cịn trở thành một nhân tố thúc đẩy nó. Có thể nói
cuộc khủng hoảng sẽ chỉ có tác động trong ngắn hạn mà chủ yếu là làm giảm tính hấp

dẫn tương đối của các nền kinh tế trong khu vực so với phần còn lại của thế giới. Các
nước đều coi FDI là một nguồn vốn ổn định hơn so với vốn ngắn hạn và có vai trị
quan trọng trong phát triển kinh tế, đồng thời là nguồn chuyển giao cơng nghệ chính
yếu cho nước tiếp nhận. Việc gia thế giới đầu tư sẽ góp phần khắc phục khủng hoảng

-9-


và giúp các nước bị ảnh hưởng nhanh chóng phục hồi. Đây cũng là nguyên nhân sẽ
làm cho cuộc đua tranh giành lấy nguồn vốn FDI giữa các nước trở nên rất khốc liệt.
Xét về mặt lâu dài, luồng FDI vào Châu Á nói chung và vào Việt Nam nói riêng
chịu ảnh hưởng của hai yếu tố: sự cạnh tranh của khu vực với bên ngoài và sự cạnh
tranh giữa các nước trong khu vực. Với tư cách là nước nhận đầu tư, các nước
ASEAN, Trung Quốc và Việt Nam là những đối thủ cạnh tranh nhau. Do có lợi thế so
sánh gần giống nhau nên trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, các nước này
có xu hướng bố trí cơ cấu kinh tế giống nhau với các đặc trưng chủ yếu là các ngành
có hàm lượng lao động sống và nguyên liệu cao (khai thác tài nguyên thiên nhiên,
công nghiệp hàng tiêu dùng, lắp ráp điện tử...), vì vậy tính chất cạnh tranh trong thu
hút đầu tư giữa các nước này là rất lớn, khả năng hấp dẫn đầu tư của các thành viên
cộng đồng hoàn toàn tuỳ thuộc vào chính sách và mơi trường đầu tư của từng nước.
Những xu hướng vận động trên đây của các luồng vốn FDI và khả năng tận dụng cơ
hội thu hút FDI của Việt Nam trong những năm tới đến mức nào trước hết phụ thuộc
vào chính sách, mơi trường kinh doanh của đất nước và bối cảnh phát triển hợp tác
của khu vực.

CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI
VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
I. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN VỀ FDI TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài

1.1. Tình hình chung
Từ khi Luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết tháng 12
năm 2000, Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 3254 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
với tổng số vốn đăng ký là 38.553 triệu USD. Tính trung bình mỗi năm chúng ta cấp
phép cho 250 dự án với mức 2965,62 triệu USD vốn đăng ký. Cũng trong thời gian
này, đã có 1067 dự án mở rộng quy mơ vốn đầu tư với lượng vốn bổ sung thêm là
6034 triệu USD. Như vậy tổng số vốn cấp mới và bổ sung đến thời điểm hết năm
2000 đạt khoảng 44.587 triệu USD.

- 10 -


Luận văn tốt nghiệp

b

Trong số các dự án đã nêu trên, đã có 30 dự án hết hạn hoạt động với số vốn hết
hạn là 291 triệu USD. Bên cạnh đó, đã có một số lượng đáng kể dự án bị giải thể, rút
giấy phép đầu tư (645 dự án), lượng vốn giải thể là 7952 triệu USD, chiếm gần 21%
tổng lượng vốn đăng ký. Như vậy, tính đến ngày 15/03/2001, tổng số dự án còn hiệu
lực là 2701 với tổng vốn đăng ký (kể cả phần vốn bổ sung) là 36.329,775 triệu USD.
Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi của ta có xu hướng tăng nhanh từ
1988 đến 1995 cả về số dự án cũng như vốn đăng ký. Riêng năm 1996 sở dĩ có lượng
vốn đăng ký tăng vọt là do có 2 dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội
và TP Hồ Chí Minh được phê duyệt với quy mô dự án lớn (hơn 3 tỷ USD/ dự án). Như
vậy nếu xét trong cả thời kỳ 1988-2000 thì năm 1995 có thể được xem là năm đỉnh
cao về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam (cả về số dự án, vốn đăng ký
cũng như quy mô dự án). Từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngồi vào Việt Nam có
biểu hiện suy giảm, nhất là đến các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm đó càng rõ rệt
hơn. So với năm 1997, số dự án được duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm

1999 chỉ bằng 80,58%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83% và 33,01%.
Trong các năm này, số dự án giải thể và số lượng vốn giải thể tăng mạnh. Lượng vốn
giải thể năm 1998 là 2428 triệu USD, gấp 4,5 lần so với năm 1997. Đến năm 2000, sự
giảm sút có chiều hướng dừng lại và bắt đầu có sự phục hồi. Số dự án và lượng vốn
đầu tư của năm 2000 đã tăng lên so với năm 1999, tuy nhiên vẫn còn khá nhỏ so với
cả những năm 1997 và 1998.
Nếu nhìn lại một cách thuần t trên cơ sở các con số thì có thể nói chúng ta đã
ngăn chặn được đà giảm sút đầu tư. Song nếu nhìn nhận một cách tổng quát và khách
quan hơn, thì vẫn cịn khá nhiều thách thức trong tương lai. Nếu khơng tính đến dự án
khí Nam Cơn Sơn (1080 triệu USD) được cấp phép vào những ngày cuối cùng trong
năm, thì trên thực tế năm 2000, tổng vốn FDI đăng ký chỉ đạt 1318 triệu USD, thấp
hơn nhiều so với năm 99 (2196 triệu USD). Dự án này đã hình thành từ nhiều năm
trước nhưng bị trắc trở chủ yếu do vấn đề giá cả về khí giữa các đối tác. So với năm
1999, số dự án tăng vốn chỉ bằng 94% (153/163 dự án) và số vốn tăng thêm chỉ bằng
68% (427/629 triệu USD).
Bảng 1: Tình hình thực hiện FDI qua các năm
Đơn vị : triệu USD
Số dự án đầu tư

Vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn

- 11 -


Chỉ tiêu

Cấp

Lượt


Giải

Hết

Vốn

Tăng

Giải

Hết

Còn hiệu

mới

tăng vốn

thể

hạn

đăng ký

vốn

thể

hạn


lực

Tổng

3254

1067

645

30

38553

6034

7952

291

88-2000
3 năm

214

1

6

2


1582

0.3

26

0.3

1556

88-90
1991

151

9

37

2

1275

9

240

1


2598

1992

197

13

48

3

2027

50

402

13.9

4260

1993

274

60

34


4

2589

240

79

38

6971

1994

367

84

60

1

3746

516

292

0.1


10941

1995

408

151

58

3

6607

1318

509

45.5

18311

5 năm

1397

262

237


12

16244

2132

1522

98.6

91-95
1996

365

162

54

4

8640

788

1141

146.1

26453


1997

348

164

85

6

4649

1173

544

24.4

31706

1998

275

162

101

2


3897

884

2428

19.1

34040

1999

311

163

85

2

1568

629

624

1.1

35613


2000

344

153

77

2

1973

427

1666

1.9

36344

5 năm

1643
804
402
16
20727
3902 6403
193

96-2000
Vốn còn hiệu lực = vốn cấp mới + tăng vốn - vốn hết hạn - vốn giải thể
Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT

Trong bối cảnh đầu tư quốc tế vào các nước ASEAN suy giảm và môi trường đầu
tư ở nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, sự phục hồi bước đầu của đầu tư nước
ngoài qua các số liệu nêu trên là các dấu hiệu rất đáng khích lệ và là một phần hệ quả
từ các tác động tích cực của các giải pháp thu hút đầu tư mà Chính phủ đã thực thi
trong những năm gần đây. Tuy nhiên chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để tạo ra sự phục
hồi thực sự vững chắc trong lĩnh vực này.
Quy mô dự án đầu tư (triệu USD/ dự án)
Năm

91

92

Quy mô 8.76

93

94

95

96

97

98


99

2000

11

10.8

10.98

17.6

26.1

13.5

14.2

5.52

5.73

Nguồn : Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 2(64) 2000.

Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì quy mơ dự án thời kỳ 1988 - 2000 là 11,85
triệu USD / 1dự án. So với một số nước ở thời kỳ đầu thực hiện chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngồi thì quy mơ dự án đầu tư vào nước ta bình quân ở thời kỳ
- 12 -



Luận văn tốt nghiệp

b

này là không thấp. Nhưng vấn đề đáng quan tâm là quy mô dự án theo vốn đăng ký
bình quân của năm 1999 và năm 2000 lại nhỏ đi một cách đột ngột và ở mức thấp nhất
từ trước đến nay (5,52 triệu USD/ 1dự án năm 1999 và 5,73 triệu USD/ 1dự án năm
2000). Quy mô dự án năm 2000 chỉ bằng 48,35% quy mô dự án bình quân của thời kỳ
1988 - 2000 và bằng 32,4% so với quy mơ dự án bình qn của năm cao nhất (năm
1995, ta không so sánh với năm 1996 vì có 2 dự án đặc biệt như đã nêu trên), trong
khi quy mơ dự án bình qn của năm 2000 đã có sự tăng trưởng so với của năm 1999.
Đây là những vấn đề rất cần được lưu tâm trong chiến lược thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài của nước ta thời gian tới.

1.2. Các đối tác được cấp giấy phép đầu tư
Tính đến hết năm 2000 đã có hơn 700 cơng ty thuộc 66 nước và vùng lãnh thổ
(gọi tắt là các nước) có dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Nếu chỉ tính các dự án cịn
hiệu lực, tới ngày 15/03/2001 có 58 nước có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam trong đó 12
nước có tổng số vốn đăng ký hơn 1 tỷ USD mỗi nước. Chỉ với 12 nước (bằng 20,6%
số nước) đã chiếm tới 85,54% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
(Singapore: 18,22%; Đài Loan: 13,74%; Nhật Bản:10,69%; Hàn Quốc: 8,76%; Hồng
Kông: 7,83%; Pháp: 5%; Quần đảo Virgin: 4,92%; Nga: 4,07%; Hà Lan: 3,25%;
Vương quốc Anh: 3,2%: Thái Lan: 3,03%; Malaixia: 2,83%). Trong tổng số vốn đầu
tư của 12 nước này thì có tới trên 70% là thuộc các nước Châu Á. Các nhà đầu tư
Châu Á vào muộn hơn nhưng tốc độ tăng nhanh với quy mô rộng lớn trên nhiều lĩnh
vực. Điều đó chứng tỏ mơi trường đầu tư của Việt Nam hiện đang thu hút được sự
quan tâm của các nhà đầu tư Châu Á. Và trình độ, điều kiện, khả năng của các nhà đầu
tư Châu Á cũng phù hợp với điều kiện, yêu cầu phát triển của Việt Nam trong thời
gian qua. Đồng thời đây cũng là nguyên nhân làm cho nền kinh tế nước ta phải chịu

ảnh hưởng khá mạnh của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực Châu Á.
Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư từ các nước cơng nghiệp phát triển khác như
Đức, Mỹ, Anh...cịn chiếm tỷ trọng tương đối thấp, chứng tỏ môi trường đầu tư ở
Việt Nam chưa gây được sự chú ý nhiều của các nhà đầu tư phương Tây và Mỹ.
Bảng 2: 12 đối tác nước ngoài đầu tư lớn nhất vào Việt Nam
(Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị : triệu USD

STT

Nước

1

Vùng lãnh thổ
Singapore

Số dự án

Tổng vốn

Vốn pháp

Đầu tư

236

đầu tư
6619,871


định
2036,066

thực hiện
2048,154

- 13 -


2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Đài Loan
662
4990,669
2120,096
Nhật Bản
304
3884,892
1927,881
Hàn Quốc

277
3181,738
1226,648
Hồng Kông
208
2844,499
1231,076
Pháp
107
1818,607
1219,716
Virgin Islands
107
1786,941
695,456
Liên bang Nga
35
1479,722
916,897
Hà Lan
40
1179,956
951,962
V. Quốc Anh
35
1163,254
394,840
Thái Lan
93
1102,472

441,250
Malaixia
81
1026,914
476,433
Nguồn : Vụ Quản lý dự án ĐTNN - Bộ KH-ĐT

2411,855
2623,879
1911,570
1431,662
587,320
858,341
600,255
504,055
670,909
494,310
876,157

Tuy vậy cho đến nay, trong số các nhà đầu tư nước ngồi vào Việt Nam thì sự có
mặt của các nhà đầu tư thuộc các tập đoàn lớn chưa nhiều (mới có khoảng 50/500 tập
đồn kinh tế lớn của thế giới có dự án đầu tư tại Việt Nam), cịn lại chủ yếu là các
cơng ty vừa và nhỏ và khơng ít các nhà mơi giới đầu tư. Các tập đồn lớn, có năng lực
tài chính và cơng nghệ, chủ yếu là của Hàn Quốc và Nhật Bản. Cịn trong số các nhà
đầu tư Châu Á nếu khơng kể các nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc thì phần lớn là
người Hoa. Đây là đặc điểm rất cần được chú ý trong việc lựa chọn các đối tác đầu tư
sắp tới nhằm làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi theo u cầu của cơng
cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của ta đạt hiệu quả hơn.

1.3. Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ

Với mong muốn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển
dịch cơ cấu giữa các vùng kinh tế nên Chính phủ ta đã có những chính sách khuyến
khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào “những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa”. Tuy vậy, các cấp độ ưu đãi chưa tương ứng
với mức độ chênh lệch về điều kiện giữa các vùng do đó, vốn nước ngoài vẫn được
đầu tư tập trung chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng
và môi trường kinh tế-xã hội. Nói riêng trong lĩnh vực nơng lâm nghiệp, các dự án đầu
tư tập trung chủ yếu vào các vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng
sông Cửu Long. Riêng 3 vùng này đã chiếm tới 63,5% số dự án và 70% vốn đầu tư.
Trong khi đó, có 15 tỉnh thuộc trung du và miền núi phía Bắc, tuy vẫn là những địa
bàn có nhiều tiềm năng mở rộng và phát triển nơng lâm nghiệp và có nhu cầu lớn về
thu hút đầu tư, nhưng do có điều kiện khó khăn nên hầu như chưa có dự án đầu tư
nước ngồi nào vào lĩnh vực nơng lâm nghiệp ở các vùng này.
Hoạt động đầu tư tập trung ở các tỉnh phía Bắc và phía Nam, các tỉnh miền Trung
chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Riêng vùng Đông Nam Bộ đã chiếm tới 53,13% tổng lượng vốn

- 14 -


Luận văn tốt nghiệp

b

đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước, trong khi vùng Tây Bắc và Tây Nguyên
chiếm chưa đầy 1%. Sự phân bổ FDI cũng chênh lệch rất nhiều giữa khu vực thành thị
và nông thôn. Trên 80% tổng số vốn đầu tư tập trung ở khu vực thành thị, chỉ còn
chưa tới 20% cho khu vực nông thôn, trong khi 80% dân số Việt Nam sinh sống ở
nông thôn, làm cho khoảng cách thu nhập giữa hai khu vực ngày càng lớn.
Vốn đầu tư vào các vùng (1988-1999) được xếp thứ tự như sau:
Bảng 3: Cơ cấu đầu tư theo vùng (%)

1. Đông Nam Bộ
2. Đồng Bằng sông Hồng

53,13
29,6

5. Đồng bằng sông Cửu Long
6. Bắc Trung Bộ

2,46
2,38

3. Duyên hải Nam Trung Bộ

7,64

7. Tây Nguyên

0,16

4. Đông Bắc

4,46

8. Tây Bắc

0,15

Nguồn : Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 2 (64) 2000.


Cũng trong thời kỳ này, nếu như hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh
đã chiếm tới hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi của cả nước thì
10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%. TP Hồ Chí Minh chiếm
26,6% tổng vốn đăng ký của cả nước. Số liệu tương ứng của các địa phương tiếp theo
như sau : Hà Nội: 21,15%; Đồng Nai: 12,5%; Bình Dương: 6,4%. Đến nay, phần lớn
các tỉnh, thành phố đều đã có hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngồi. Tuy nhiên, trừ
hoạt động thăm dị và khai thác dầu khí ở thềm lục địa, vốn đầu tư tập trung nhiều vào
3 vùng kinh tế trọng điểm là những nơi có nhiều thuận lợi. Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, với ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng, sự thuận lợi về giao thông thủy, bộ,
hàng không và năng động trong kinh doanh là vùng thu hút được nhiều vốn FDI nhất,
1.378 dự án, chiếm 57% tổng số dự án của cả nước, vốn đầu tư đăng ký đạt 17,3 tỷ
USD, chiếm đến 48% tổng vốn đăng ký cả nước. Đây cũng là vùng kinh tế sôi động
nhất của cả nước, chiếm đến 66% giá trị doanh thu và 84% giá trị xuất khẩu của khu
vực FDI năm 1999. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, đứng đầu là thủ đơ Hà Nội,
trung tâm chính trị và kinh tế của cả nước là vùng thu hút FDI thứ hai, với 493 dự án
còn hiệu lực chiếm 20,5% về số dự án và 30% tổng vốn đăng ký, là đầu tàu phát triển
của cả khu vực phía Bắc. Trên địa bàn kinh tế trọng điểm miền Trung, tính riêng dự án
lọc dầu Dung Quất với tổng số vốn đầu tư đăng ký 1,3 tỷ USD đã cao hơn tổng vốn
đăng ký của 113 dự án tại đồng bằng sông Cửu Long là 300 triệu USD. Dưới đây là
số liệu về 10 địa phương có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất:
Bảng 4: Mười địa phương có vốn đầu tư cao nhất
(Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dự án cịn hiệu lực)

- 15 -


Đơn vị : triệu USD

STT


Địa phương

Số dự

Tổng vốn

Vốn pháp

Đầu tư thực

đầu tư
9673,464

định
4610,524

hiện
4641,441

1

TP Hồ Chí Minh

án
921

2

Hà Nội


365

7684,434

3364,454

2773,569

3

Đồng Nai

287

4534,895

1741,576

2119,190

4

Bình Dương

393

2325,312

1083,049


1057,800

5

Dầu khí

24

1788,000

1263,000

1955,487

6
7

Quảng Ngãi
Hải Phòng

5
86

1327,723
1283,294

813,000
570,218

555,458

915,483

8

Bà Rịa-Vũng Tàu

67

1203,097

502,946

397,702

9

Lâm Đồng

46

841,767

101,305

86,155

10

Quảng Ninh


38

617,021

218,516

174,283

Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT

Các số liệu trên cũng phần nào nói lên rằng vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài
theo vùng lãnh thổ để kết hợp hoạt động này với việc khai thác các tiềm năng trong
nước đạt kết quả chưa cao. Cơ cấu FDI theo vùng còn nhiều bất hợp lý. Như vậy, đây
cũng là một trong những vấn đề rất cần được chú ý để điều chỉnh hoạt động của chúng
ta trong thời gian tới đối với lĩnh vực này.

1.4. Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế
Những năm đầu 1988-1990, vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi phần lớn tập trung
vào lĩnh vực thăm dị, khai thác dầu khí (32,2%) và khách sạn, du lịch, căn hộ cho
thuê (20,6%). Nhưng từ năm 1994 trở lại đây, đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất
của nền kinh tế ngày càng gia tăng (nhất là lĩnh vực công nghiệp). Hiện nay, các dự án
đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng dự án lẫn vốn
đầu tư, tiếp đến là các lĩnh vực khách sạn, du lịch và dịch vụ. Các ngành nơng, lâm
nghiệp có số dự án khá lớn nhưng vốn thấp, chỉ chiếm 5,79% tổng vốn đầu tư, chứng
tỏ quy mô dự án ở lĩnh vực này tương đối nhỏ. Quy mô dự án đầu tư vào ngành thủy
sản là nhỏ nhất, khoảng 3 triệu USD. Ngành dịch vụ có quy mơ đầu tư lớn nhất,
khoảng 25 triệu USD/dự án, nếu khơng tính 2 dự án xây dựng khu đơ thị mới tại Hà
Nội thì quy mơ bình quân 1 dự án là 21,7 triệu USD.
Tính đến ngày 15/03/2001, khu vực cơng nghiệp có 1715 dự án đầu tư trực tiếp
nước ngồi cịn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư 19430,413 triệu USD, chiếm 53,5%

tổng vốn FDI của cả nước; tiếp theo là ngành dịch vụ với 638 dự án và lượng vốn đầu
tư 14796,008 triệu USD, chiếm 40,73%; khu vực nơng lâm nghiệp có 348 dự án với
- 16 -


Luận văn tốt nghiệp

b

số vốn đầu tư 2103,353 triệu USD, chiếm 5,77% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
của cả nước. Vốn đầu tư vào công nghiệp chủ yếu tập trung vào các ngành cơng
nghiệp nặng, sau đó dến cơng nghiệp nhẹ, xây dựng, cơng nghiệp dầu khí và công
nghiệp thực phẩm . Ngành dịch vụ các dự án tập trung vào xây dựng văn phòng, căn
hộ, xây dựng khu đô thị mới; khách sạn du lịch, giao thông vận tải và bưu điện.
Bảng 5: Đầu tư trực tiếp nước ngồi theo ngành
(Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị : triệu USD

Số dự

Tổng vốn

Vốn pháp

Đầu tư

Cơng nghiệp

án
1715


đầu tư
19430,413

định
8824,962

thực hiện
11037,702

CN dầu khí

29

3154,826

2094,106

2555,553

CN nhẹ

681

4198,597

1859,332

2022,423


CN nặng

659

6616,185

2784,646

3526,042

CN thực phẩm

142

2303,174

971,524

1318,477

Xây dựng

204

3157,628

1115,352

1615,207


Nông, lâm nghiệp

348

2103,354

992,655

1209,544

Nông-Lâm nghiệp

298

1942,614

912,947

1113,656

Thủy sản

50

160,739

79,708

95,888


Dịch vụ

638

14796,008

6547,210

5595,08

GTVT- Bưu điện

93

2571,986

2027,826

849,204

Khách sạn-Du lịch

123

3497,052

1126,845

1853,834


Tài chính-Ngân hàng

49

552,250

521,650

494,535

Văn hóa-Y tế- GD

92

566,045

243,832

144,568

XD Khu đơ thị mới

3

2466,674

675,183

0,394


XD Văn phòng-Căn hộ

116

3781,909

1351,182

1640,271

XD hạ tầng KCX-KCN

13

807,221

274,961

460,988

Dịch vụ

149

552,870

325,729

151,285


Tổng số

2701

36329,775

16364,827

17842,325

Chuyên ngành

Nguồn : Vụ Quản lý dự án ĐTNN - Bộ KH-ĐT

Thực trạng cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế đang đặt ra
những vấn đề cần suy nghĩ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nơng, lâm
nghiệp vốn đã ít lại đang có xu hướng chững lại và giảm dần vì đây là lĩnh vực chịu
nhiều rủi ro, thời gian thu hồi vốn dài, trình độ quản lý dự án cịn nhiều hạn chế. Đến

- 17 -


cuối 1999, trong lĩnh vực này đã có tới 74 dự án đầu tư nước ngoài bị giải thể trước
thời hạn với số vốn 287 triệu USD. Trong đó 35 dự án thuộc lĩnh vực trồng trọt và chế
biến nông sản, 39 dự án chế biến gỗ và lâm sản.
Vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành như trên đã biểu hiện phù hợp các chỉ số
của cơ cấu kinh tế hiện đại, cơng nghiệp hóa: Cơng nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp.
Tuy vậy, trong điều kiện ở giai đoạn đầu tiến hành CNH-HĐH và với đặc trưng của
nền kinh tế trong đó nơng nghiệp nhiệt đới đang là một trong những thế mạnh của Việt
Nam thì tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này như hiện nay còn

khoảng cách khá xa so với yêu cầu, mong muốn và mục tiêu mà chúng ta đặt ra. Sở dĩ
như vậy là vì đối với Việt Nam, nơng nghiệp là một trong những lĩnh vực đang có
nhiều tiềm năng mà chúng ta chưa có điều kiện để khai thác. Và, từ đặc điểm phân bố
dân cư, lao động, việc làm như hiện nay thì sự thành cơng trong phát triển nông thôn,
nông nghiệp là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá thành công của sự nghiệp
CNH-HĐH. Thực hiện CNH-HĐH trong nông thôn, nông nghiệp cũng tức là tạo được
việc làm và thu nhập cho số đông lao động cũng như tác động làm chuyển biến đáng
kể đến sản xuất và đời sống của đa số nhân dân Việt Nam.

1.5. Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư
Trong giai đoạn 1988-1999, liên doanh là hình thức phổ biến nhất của đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam, chiếm tới khoảng 60% số dự án và 70% vốn đăng ký.
Hiện nay, trong số các dự án cịn hiệu lực thì hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài chiếm tỷ lệ lớn về số dự án (56,64%), tuy nhiên vốn đầu tư chỉ chiếm 30,17%
tổng vốn đầu tư FDI. Đối với hình thức liên doanh, các con số này là 38,47% và
58,33%.
Bảng 6: Đầu tư trực tiếp nước ngồi theo hình thức đầu tư
(Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dự án cịn hiệu lực)
Đơn vị : triệu USD

Hình thức đầu tư

Số DA Tổng VĐT

Vốn PĐ

Vốn TH

4
415,125

140,030
37,112
BOT
128
3762,541
3156,998
2645,37
Hợp đồng hợp tác KD
1530
10962,092
4863,514
5236,300
100% vốn nước ngoài
1039
21190,017
8204,284
9923,542
Liên doanh
Tổng số
2701
36329,775 16364,826 17842,325
Nguồn : Vụ Quản lý dự án ĐTNN - Bộ KH-ĐT

Tỷ lệ (%)
1.14
10,36
30,17
58.33
100%


Sở dĩ hình thức liên doanh chiếm tỷ lệ lớn là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển
khai dự án còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc và rất
phức tạp, người nước ngồi cịn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế-xã hội và pháp
- 18 -


Luận văn tốt nghiệp

b

luật của Việt Nam, họ thường gặp khó khăn trong giao dịch, quan hệ cùng một lúc với
khá nhiều cơ quan chức năng của Việt Nam để có được đầy đủ các điều kiện triển khai
xây dựng cơ bản cũng như tổ chức thực hiện dự án đầu tư. Trong hoàn cảnh như vậy,
đa số các nhà đầu tư thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên Việt Nam đứng ra lo
các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn.
Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư
nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư Châu Á có điều kiện hiểu biết hơn về pháp luật,
chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Vì
vậy, nhu cầu có đối tác Việt Nam giảm đi một cách đáng kể. Không những thế, khi
tham gia liên doanh, khả năng của phía Việt Nam thường yếu cả về vốn đóng góp lẫn
cán bộ quản lý, mặt khác nhiều nhà đầu tư nước ngồi khơng muốn chia sẻ quyền điều
hành doanh nghiệp với bên Việt Nam nên họ thấy khơng cần thiết phải có đối tác Việt
Nam trong hoạt động đầu tư. Do đó, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi vào Việt
Nam dưới hình thức 100% vốn nước ngồi ngày càng có xu hướng tăng lên cả tuyệt
đối lẫn tương đối. Các dự án 100% vốn nước ngoài tập trung chủ yếu trong các khu
cơng nghiệp và khu chế xuất vì đảm bảo các điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tránh
được nhiều thủ tục hành chính phức tạp.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đến nay chỉ chiếm 4,74% số dự án và
10,36% tổng vốn đầu tư, chủ yếu trong lĩnh vực thăm dị và khai thác dầu khí, các
dịch vụ viễn thơng. Hợp đồng BOT là hình thức chúng ta đưa vào áp dụng từ năm

1993 với mong muốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Mặc
dù Nhà nước đã có nhiều ưu đãi như không thu tiền thuê đất, hưởng các mức thuế
thấp nhất, được chuyển đổi ngoại tệ... nhưng số dự án thuộc hình thức này vẫn cịn rất
ít. Đến nay mới chỉ có 4 dự án đầu tư nước ngồi theo hình thức BOT với số vốn đăng
ký hơn 415 triệu USD. Điều này chủ yếu là do các bên chưa thực sự gặp nhau trong
các ý tưởng khi thương lượng, như khơng thống nhất được cách tính giá cả đầu vào,
đầu ra đối với các đối tác cung ứng nguyên, nhiên vật liệu và mua sản phẩm...

2. Tình hình thực hiện của các dự án Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Sau hơn mười năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, nhiều dự án được cấp giấy
phép đã hoàn thành giai đoạn xây dựng, đi vào hoạt động, có sản phẩm tiêu thụ tại
Việt Nam và xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới, đóng góp đáng kể vào sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế xã hội của nước ta.

- 19 -


Có 1067 dự án sau một thời gian triển khai có nhu cầu xin được tăng vốn, mở
rộng quy mơ sản xuất. Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là 6034 triệu USD
(bằng 32,8% số dự án được cấp giấy phép và 16,6% tổng vốn đăng ký ban đầu). Như
vậy tổng số vốn cấp mới và bổ sung đến thời điểm hết năm 2000 đạt khoảng 44.587
triệu USD.
Trong số các dự án đã nêu trên, đã có 30 dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng
với số vốn hết hạn là 291 triệu USD. Bên cạnh đó, đã có một số lượng đáng kể dự án
bị giải thể, rút giấy phép đầu tư (645 dự án), lượng vốn giải thể là 7952 triệu USD,
chiếm gần 21% tổng lượng vốn đăng ký. Nguyên nhân dẫn đến các dự án bị rút giấy
phép trước hết là do ta chọn nhầm đối tác, nhất là những năm đầu thực hiện Luật đầu
tư. Đó là những cơng ty mơi giới bn bán hợp đồng, khi khơng thực hiện được mục
đích này, họ không trở lại Việt Nam thực hiện dự án. Tiếp theo là sự thiếu hụt tài chính

của bên nước ngồi, khơng thực hiện được cam kết góp vốn, huy động vốn vay; sự
biến động phức tạp của thị trường và giá cả làm đảo lộn tính tốn ban đầu của dự án;
sự phá sản của bên nước ngoài ở các địa bàn khác làm cho họ khơng có khả năng hoạt
động ở Việt Nam...Ngoài ra những yếu kém trong cơng tác quản lý nhà nước cũng góp
phần làm tăng thêm số dự án đổ vỡ như không chọn lựa kỹ, dễ dãi trong bố trí cán bộ
Việt Nam tham gia liên doanh, không kịp thời nhắc nhở và xử lý những vi phạm pháp
luật và giấy phép đầu tư, khơng có biện pháp hữu hiệu hịa giải các bất đồng, tranh
chấp; sự thay đổi chính sách sử dụng nguyên vật liệu...
Như vậy, tính đến ngày 15/03/2001, trên lãnh thổ Việt Nam cịn 2701dự án đầu tư
trực tiếp nước ngồi đang hoạt động với tổng vốn đăng ký (kể cả phần vốn bổ sung)
của các dự án còn hiệu lực là 36.329,775 triệu USD.
Tính đến 31 tháng 12 năm 2000, số vốn đã thực hiện của các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài bằng 44,82% của tổng số vốn đăng ký (bao gồm cả vốn bổ sung),
trong đó 88,34% vốn thực hiện là của phía đối tác nước ngồi, 11,66% là vốn của
doanh nghiệp Việt Nam. Tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng vốn đăng ký của các dự án
100% vốn nước ngoài và dự án Hợp đồng hợp tác kinh doanh cao hơn nhiều so với
hình thức liên doanh.
Các dự án trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí đạt tỷ lệ thực hiện cao hơn
vốn cam kết 4%, do trong ngành dầu khí, cam kết trên giấy phép chỉ là vốn tối thiểu.
Ngành tài chính ngân hàng, do tính đặc thù phải nộp ngay vốn pháp định mới được
phép triển khai hoạt động nên tỷ lệ giải ngân cao (93%). Nhìn chung, các dự án đầu tư
vào lĩnh vực cơng nghiệp xây dựng có tỷ lệ giải ngân cao nhất, trên 50%. Các dự án
- 20 -


Luận văn tốt nghiệp

b

nông nghiệp đạt tỷ lệ giải ngân 43%, trong khi các dự án thuỷ sản chỉ giải ngân được

36%.

Dưới đây là số liệu về tình hình thực hiện dự án qua các thời kỳ:
Bảng 7: Tình hình thực hiện dự án qua các năm
(Tính đến 31 tháng 12 năm 2000)

Đơn vị : triệu USD
Chỉ tiêu

Vốn thực hiện

Trong đó chia ra
Vốn từ nước ngồi
Vốn DN V.Nam

Tổng 88-2000

19984

17654

2330

1991

428

375

53


1992

575

492

83

1993

1118

931

187

1994

2241

1946

295

1995

2792

2343


449

5 năm 91-95

7153

6086

1067

1996

2923

2518

405

1997

3137

2822

315

1998

2364


2214

150

1999

2179

1971

208

2000
5 năm 96-2000

2228
2043
12831
11568
Nguồn : Vụ Quản lý dự án ĐTNN - Bộ KH-ĐT

185
1263

Trong điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các
nguồn lực cũng như chính sách đối với đầu tư nước ngồi cịn nhiều biến động, thị
trường phát triển chưa đầy đủ...thì tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi thực hiện
được ở mức như vậy là không thấp. Tuy vậy, xuất phát từ đặc điểm, các dự án sau khi


- 21 -


phê duyệt thường chưa đủ các điều kiện để triển khai ngay, do đó số vốn thực hiện
trong năm chủ yếu là của các dự án đã được phê duyệt từ các năm trước đó. Nếu so
sánh số vốn thực hiện của từng năm với số vốn đăng ký còn lại (tổng số vốn đăng ký
từ trước trừ đi số vốn đã thực hiện) thì tỷ lệ vốn thực hiện diễn biến theo xu hướng
thiếu ổn định. Tỷ lệ này tăng nhanh từ đầu đến năm 1995 (vốn thực hiện 1992/vốn
đăng ký 1988-1991 còn lại = 13,6%; số tương ứng 1993=23,5%; 1994=30,1%;
1995=32,2%) và sau đó giảm dần từ 1996 đến nay (số liệu tương ứng 1996=21,8%;
1997=18,1%; 1998=10,1%; 1999=7,1%). Điều này một phần là do tác động của cuộc
khủng hoảng tiền tệ trong khu vực, một số nhà đầu tư thuộc các quốc gia xảy ra khủng
hoảng đang còn số vốn mà họ chưa thực hiện lại phải dùng để đối phó với tình trạng
xấu, buộc họ phải dừng hoặc chấm dứt không thể tiếp tục đầu tư. Mặt khác, một số
nhà đầu tư khi lập dự án đã tính tốn chưa thật sát với thực tế nên khi triển khai dự án
đã gặp phải một số vấn đề phát sinh vượt cả khả năng tài chính cũng như các yếu tố,
điều kiện cho doanh nghiệp vận hành. Thậm chí có một số nhà đầu tư nước ngoài,
thực chất là yếu về năng lực tài chính nên mặc dù đã được cấp giấy phép đầu tư,
nhưng không huy động được vốn đúng như dự kiến buộc họ phải triển khai thực hiện
dự án chậm, có khi mất khả năng thực hiện.

2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu
a. Lĩnh vực dầu khí : So với các ngành kinh tế Việt Nam thì đây là một trong rất ít
ngành thu hút được các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới tham gia đầu tư. Đến nay,
ngồi xí nghiệp liên doanh dầu khí VietsoPetro đã sản xuất được hơn 60 triệu tấn dầu
thô và hiện đang tiếp tục kinh doanh có hiệu quả, chúng ta đã cấp 33 giấy phép hoạt
động cho các tập đồn dầu khí lớn thuộc Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Úc và Châu Á vào
thăm dò, khai thác tại thềm lục địa Việt Nam theo hình thức hợp đồng phân chia sản
phẩm. Các mỏ Đại Hùng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, mỏ khí Lan Đỏ - Lan Tây và mỏ
dầu trên vùng chồng lấn với Malaixia đều đang được khai thác. Sự quan tâm của các

tập đoàn lớn trên thế giới chứng tỏ tính hấp dẫn và tiềm năng dầu khí của nước ta.
Vào cuối năm 1998, Việt Nam đã cấp giấy phép đầu tư cho liên doanh xây dựng
nhà máy lọc dầu đầu tiên tại Dung Quất (Quảng Ngãi) với số vốn đầu tư 1,3 tỷ USD.
Các nhà đầu tư nước ngồi (khơng kể Vietsopetro) đã đầu tư trên 2,6 tỷ USD vào khâu
thăm dò, giúp Việt Nam dần dần có đủ cơ sở dữ liệu về trữ lượng dầu khí để xác định
chiến lược phát triển.
Cơng nghiệp dầu khí đã góp phần ngày càng lớn vào tăng trưởng GDP và thu
ngân sách Nhà nước.

- 22 -


Luận văn tốt nghiệp

b

b. Lĩnh vực công nghiệp điện tử : là lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngồi có mặt
tương đối sớm, vốn thực hiện chiếm tỷ lệ cao so với vốn đăng ký, có tiến độ thực hiện
đúng với cam kết được ghi trong giấy phép đầu tư và đây là lĩnh vực sớm phát huy
hiệu quả. Đến nay, đã có 22 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký 615 triệu USD,
trong đó có hơn 60% vốn đã thực hiện (379 triệu USD). Một trong những yếu tố hơn
hẳn so với nhiều lĩnh vực khác là các nhà đầu tư vào lĩnh vực này phần lớn thuộc các
hãng điện tử mạnh trên thế giới như: SONY, JVC, TOSHIBA, PHILIP, LG, FUJITSU,
SAMSUNG, MATSUSHITA... Tuy nhiên các dự án đầu tư chủ yếu vào điện tử gia

dụng, chưa chú ý nhiều đến điện tử công nghiệp.
c. Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy : Đây cũng là một trong những lĩnh vực thu
hút được các nhà đầu tư thuộc các hãng lớn mà sản phẩm của họ đã trở thành nổi tiếng
và có lợi thế cạnh tranh so với những sản phẩm cùng loại trên thế giới như TOYOTA,
FORD, HONDA, SUZUKI...Đến nay đã có 14 dự án sản xuất ơ tơ và 4 dự án sản xuất


xe máy được cấp giấy phép. Số vốn đăng ký của các liên doanh ô tô là 872 triệu USD,
trong đó đã thực hiện được 376 triệu USD (43,12% vốn đăng ký). Các liên doanh này
có thể sản xuất hàng năm 140 nghìn xe ơ tơ các loại. Trong số 14 dự án trên đã có 3 dự
án không triển khai và 1 dự án tuy đã đầu tư 16 triệu USD nhưng tạm dừng không đầu
tư tiếp (dự án Mercedes-Benz) và liên doanh MêKông cũng đã ngừng sản xuất. Nói
chung, thị trường ơ tơ của nước ta cịn hạn hẹp. Ngành cơng nghiệp xe máy cũng thu
hút được những hãng xe nổi tiếng thế giới mà sản phẩm đã quen thuộc với người Việt
Nam như Honda, Suzuki, VMEP. Hiện tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
sản xuất mỗi năm khoảng 200 nghìn xe máy với tỷ lệ nội địa hóa từ 20-50%.
Các dự án ô tô và xe máy đã được cấp giấy phép đầu tư có tác động dây chuyền
đối với các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng; do vậy đã kéo theo hàng chục nhà đầu
tư vốn là bạn hàng của họ vào Việt Nam; đồng thời đã mở rộng quan hệ hợp tác chế
tạo với các doanh nghiệp cơ khí, sản xuất săm lốp, ghế đệm...của Việt Nam, giải quyết
những khó khăn trước mắt cho các doanh nghiệp này và góp phần phát triển chúng về
lâu dài.
d. Lĩnh vực viễn thơng : Đến nay đã có 14 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy
phép với tổng vốn đăng ký là 1545 triệu USD, trong đó số đã thực hiện là 388 triệu
USD. Trong số các dự án đầu tư ở lĩnh vực này có đến 94% theo hình thức hợp đồng
hợp tác kinh doanh về dịch vụ viễn thông, 6% số dự án đầu tư theo hình thức liên
doanh để sản xuất thiết bị vật tư bưu điện. Đặc biệt, đây là lĩnh vực khơng có dự án
đầu tư hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

- 23 -


e. Lĩnh vực cơng nghiệp hóa chất : Đến nay lĩnh vực này đã thu hút 89 dự án với
tổng vốn đăng ký 1117 triệu USD (36 dự án 100% vốn nước ngoài, 48 dự án liên
doanh, 5 dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh), trong đó tổng số vốn đã thực hiện là
397,6 triệu USD (35,6% vốn đăng ký). Đầu tư nước ngồi trong cơng nghiệp hóa chất

đã tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, bao gồm một số hóa chất cơ bản, mỹ
phẩm, chất tẩy rửa, dầu nhờn... thay thế một phần hàng nhập khẩu, thỏa mãn yêu cầu
ngày càng cao hơn của người tiêu dùng.
g. Hoạt động kinh doanh khách sạn và du lịch : Đây là lĩnh vực mà ngay từ đầu đã
có biểu hiện còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác nên nhiều doanh nghiệp trong
và ngoài nước đã đầu tư vào. Đến nay có 237 dự án với 7585 triệu USD vốn đăng ký
đầu tư xây dựng khách sạn, văn phịng, căn hộ cho th, phát triển đơ thị, trong số đó
đã có 33,66% vốn được thực hiện. Đồng thời, đây cũng là lĩnh vực đã xuất hiện tình
trạng cung vượt quá cầu ở một số thành phố như TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đà
Nẵng, Hải Phịng.
h. Lĩnh vực dệt may, giầy dép : Đến nay chúng ta đã phê duyệt 250 dự án với tổng số
2396 triệu USD vốn đăng ký (dệt: 87 dự án với 1649 triệu USD vốn đăng ký; may:
118 dự án với 281 triệu USD vốn đăng ký; giầy dép: 45 dự án với 466 triệu USD vốn
đăng ký). Tổng vốn đã thực hiện là 1079 triệu USD, đạt 45% vốn đăng ký, là một tỷ lệ
khá cao. Đầu tư nước ngoài trong các ngành này đã tạo ra việc làm cho hàng vạn
người lao động, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, là một trong những ngành
cơng nghiệp có kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 1 tỷ USD.

2.3. Tình hình khai thác cơng suất các dự án.
Cho đến nay đã có rất nhiều dự án hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào vận
hành sản xuất kinh doanh một cách ổn định. Nhiều dự án hoạt động có hiệu quả và đã
đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nước ta.
Tuy nhiên đa phần các dự án FDI năng lực hoạt động còn thấp so với công suất
cho phép. Số liệu trong bảng dưới đây sẽ cho ta thấy rõ hơn thực trạng này:
Bảng 8: Tình hình khai thác cơng suất một số
ngành hàng của các dự án FDI (tính đến hết năm 1997)
Mặt hàng

Công suất cho phép


Công suất huy động

1.Thép XD thông thường

1197 triệu tấn/ năm

600.000 tấn / năm

50%

2. Ơ tơ dưới 12 chỗ

65.600 xe / năm

6.600 xe / năm

10%

3. Xe vận tải

94.700 xe / năm

2.850 xe / năm

3%

- 24 -

Tỷ lệ



Luận văn tốt nghiệp

b

4. Xe máy

1,28 triệu xe / năm

100.000 xe / năm

8%

5. Xi măng đen
6. Tủ lạnh

10,5 triệu tấn / năm
300.000 chiếc / năm

1,9 triệu tấn / năm
60.000 chiếc / năm

18%
20%

7. Sợi các loại

133.200 tấn / năm

20.000 tấn / năm


15%

8. Vải các loại

325 triệu mét / năm

65 triệu mét / năm

20%

9. Chất tẩy rửa, xà bông

138.000 tấn / năm

100.000 tấn / năm

72%

10. Phân bón NPK

660.000 tấn / năm

30.000 tấn / năm

5%

11. Phòng khách sạn

24.000 phòng


5.000 phòng

21%

Nguồn : Bộ Kế hoạch và đầu tư

Như vậy ta thấy thực tế công suất đã huy động của các dự án còn quá bé so với
công suất cho phép, gây ra một sự lãng phí rất lớn cho nền kinh tế. Một trong những
ngun nhân chính của tình trạng này là những dự báo sai lệch dung lượng thị trường
như 14 liên doanh lắp ráp ô tô với tổng công suất 140.000 ô tô/ năm, trong khi nhu cầu
thực tế của cả nước năm 1999 là 15.000 chiếc (trong đó lắp ráp trong nước chỉ 5000
chiếc), hoặc 4 dự án liên doanh sản xuất, lắp ráp xe máy với công suất 1,5 triệu
xe/năm, trong khi nhu cầu nhập khẩu linh kiện CKD, IKD khoảng 0,5 triệu xe/ năm.
Do các nhà đầu tư trong lĩnh vực ô tô, xe máy không tự khẳng định được khả năng
xuất khẩu của mình như các nhà đầu tư trong các ngành dệt may, giày dép, điện
tử...nên không thể hoàn thành mục tiêu của các dự án được cấp phép.
Một nguyên nhân nữa là do công tác quy hoạch đầu tư còn chậm và thiếu đồng
bộ nên dẫn đến tình trạng cấp phép đầu tư một cách ồ ạt và thiếu định hướng, chưa
quan tâm đến kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của các dự án, thậm chí cấp phép cho cả các
dự án vào những ngành còn dư thừa năng lực sản xuất, gây tình trạng bế tắc trong
khâu tiêu thụ, đồng thời còn tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm của các
doanh nghiệp trong nước.
Do đó, bên cạnh việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta cần xem
xét một cách kỹ càng trước khi cấp phép cho các dự án đầu tư vào các ngành cịn đang
dư thừa cơng suất. Đồng thời các doanh nghiệp cần tích cực tìm kiếm thị trường mới,
nâng cao khả năng xuất khẩu của các mặt hàng để khai thác một cách triệt để và có
hiệu quả năng lực của các dự án.

II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

TỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Đầu tư trực tiếp nước ngồi đã đóng góp một phần tích cực vào cơng cuộc đổi
mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua. Có thể nói đầu tư trực tiếp nước ngồi như

- 25 -


×