Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Hiệu quả sản xuất kinh doanh một số giống cây trồng tại công ty cổ phần giống cây trồng trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.89 KB, 103 trang )

PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất mà ngành trồng trọt đã có nhiều bước tiến mạnh mẽ. Tuy
nhiên do quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá đang diễn ra với tốc độ chóng
mặt ở khắp nơi trong cả nước như hiện nay đã làm cho đất đai (tư liệu đặc biệt
và không thay thế của ngành trồng trọt) ngày càng bị thu hẹp, kéo theo đó là
việc phát triển trồng trọt ngày càng trở nên khó khăn hơn. Trong trồng trọt,
giống là một trong những yếu tố quan trọng quyết định năng suất và chất
lượng sản phẩm, giống không những đóng vai trò tiền đề (theo ý kiến các nhà
khoa học thì giống quyết định 5 - 20% năng suât), mà còn làm tăng phẩm chất
và giá trị sản phẩm. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày nay, các
giống cây trồng mới có năng suất và phẩm chất tốt đã dần thay thế các giống
cũ có hiệu quả sản xuất kém.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát
triển thì phải nỗ lực kinh doanh thực sự có hiệu quả. Để đạt được điều đó, vấn
đề doanh nghiệp đặt ra hàng đầu là quản lý cũng như tổ chức sản xuất kinh
doanh, phân phối làm thế nào có thể cung ứng được nhiều sản phẩm nhất, đa
dạng hoá sản phẩm và có thị trường vững chắc.
Công ty cổ phần Giống cây trồng Trung ương là một doanh nghiệp
chuyên sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực giống cây trồng. Với cơ chế quản
lý hiện nay của thị trường giống cây trồng là phải tăng cường sự cạnh tranh
của nhiều đơn vị cung ứng giống khác nhau để sản xuất có thể lựa chọn được
giống tốt thì Công ty phải nâng cao năng lực cạnh tranh, để đứng vững trên
thị trường. Vì vậy, đánh giá đúng hiệu quả kinh doanh là một giải pháp hợp lý
mang tính cấp thiết để Công ty tồn tại và phát triển một cách bền vững nhất.

1


Xuất phát từ những yêu cầu phải nâng cao chất lượng và HQKT của sản


xuất kinh doanh giống cây trồng chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Hiệu quả
sản xuất kinh doanh một số giống cây trồng tại Công ty cổ phần Giống cây trồng
Trung ương”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích thực trạng SXKD một số giống cây trồng, đề tài
đánh giá hiệu quả SXKD một số loại giống cây trồng tại Công ty cổ phần
Giống Cây trồng Trung ương, đồng thời để xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả SXKD các loại giống cây trồng đó.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh
trong sản xuất nông nghiệp nói chung và trong sản xuất giống cây trồng nói
riêng.
- Đánh giá thực trạng SXKD và HQKD một số loại giống cây trồng trong
Công ty.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trong
SXKD của Công ty.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các đơn vị sản xuất giống cây trồng ở Công ty.
Nghiên cứu tình hình SXKD giống cây trồng, thu mua nhập khẩu và hoạt
động kinh doanh các sản phẩm đó tại Công ty cổ phần Giống cây trồng Trung ương.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung về hoạt động SXKD và đánh
giá hiệu quả SXKD một số giống cây trồng tại Công ty cổ phần Giống cây
trồng Trung ương .

2



* Phạm vi không gian
Đề tài được triển khai nghiên cứu tại Công ty cổ phần Giống cây trồng
Trung ương và điều tra tại một số tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng
* Phạm vi thời gian
- Thu thập số liệu trong những năm gần đây (2007-2009)
- Thời gian thực tập từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2010.

3


PHẦN THỨ HAI: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Những lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình tái sản
xuất trải qua các giai đoạn T – H - ... – H – T. Doanh nghiệp dùng tiền mua
vật tư, thiết bị, công nghệ (giai đoạn dự trữ), kết hợp với sức lao động (giai
đoạn sản xuất) tạo ra hàng hoá; bán hàng hoá đi thu tiền (giai đoạn luu thông
phân phối) với mục đích thu được số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra ban đầu.
Như vậy, quá trình sản xuất kinh doanh chính là sự phối hợp toàn diện,
thống nhất của nhiều giai đoạn, kết quả thực hiện ở mỗi giai đoạn đều ảnh
hưởng đến kết quả của cả quá trình. Qua quá trình tổ chức sản xuất kinh
doanh, hiệu quả mà doanh nghiệp đem lại bao gồm nhiều mặt: hiệu quả kinh
tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Trong phạm vi đề tài này, chúng
tôi chỉ tập trung nghiên cứu hiệu quả kinh tế.
Theo chúng tôi, hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế liên quan đến sản
xuất hàng hoá. Hiệu quả kinh tế biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa kết quả
đạt được với lượng chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó: Với một nguồn lực nhất
định làm thế nào để tạo ra nhiều sản phẩm nhất hoặc tạo ra lượng sản phẩm

nhất định với chi phí bỏ ra ít nhất. Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ khai
thác và sử dụng các nguồn lực. bản chất của hiệu quả kinh tế là là nâng cao
năng suất lao động, tiết kiệm lao động sống và lao động vất hoá. Hiện nay
nhiều nguồn lực đã trở nên khan hiếm, sự cạnh tranh trên thị truờng ngày
càng gay gắt, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh, làm sao thu được nhiều lợi nhuận nhất.
Hiệu quả kinh tế là tổng hoà của hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ
theo công thức:

4


Hiệu quả kinh tế = Hiệu quả kỹ thuật * Hiệu quả phân bổ
Hiệu quả kỹ thuật là khả năng tác động của kỹ thuật nhằm thu được kết
quả sản xuất tối đa, với yếu tố đầu vào xác định, trong dđều kiện sản xuất
nhất định. Hiệu quả kỹ thuật mang tính xã hội. Do trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất quyết định.
Hiệu quả phân bổ là việc nghiên cứu cách thức tổ chức quản lý khoa
học để với các yếu tố đầu vào cố định, người sản xuất có thể thu được lợi
nhuận tối đa.
2.1.1.2 Nội dung, bản chất và đặc điểm của hiệu quả sản xuất kinh doanh
 Về nội dung

Đối với tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất đã và đang hoạt
động trong lĩnh vực kinh tế, mỗi loại hình doanh nghiệp với một cơ chế quản
lý khác nhau thì có mục tiêu hoạt động khác nhau, ngay trong mỗi doanh
nghiệp mỗi một giai đoạn phát triển đều có mục tiêu khác nhau nhưng đều có
mục tiêu bao trùm và lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu
này mọi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh và phát
triển doanh nghiệp thích ứng với các biến động của thị trường, phải thực hiện

việc xây dựng các chiến lược kinh doanh, các phương án kinh doanh, phải kế
hoạch hoá các hoạt động của doanh nghiệp và đồng thời phải tổ chức, thực
hiện chúng một cách có hiệu quả. Vậy hiệu quả của các hoạt động SXKD là
gì? Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về HQSXKD, đến nay có rất
nhiều tác giả đưa ra các quan niệm khác nhau về HQSXKD.
Quan niệm thứ nhất: Theo nhà kinh tế học người Anh – Adam Smith
cho rằng: ”Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu
tiêu thụ hàng hoá”, nhà kinh tế học Pháp Ogiephri cũng có quan niệm như
vậy, ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả SXKD. Rõ
ràng quan điểm này khó giải thích kết quả SXKD có thể tăng do chi phí mở

5


rộng sử dụng các nguồn xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác
nhau thì theo quan điểm này chúng có cùng hiệu quả.
Quan điểm thứ hai cho rằng: ”HQSXKD là quan hệ tỷ lệ giữa phần
tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan niệm này đã biểu
hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết đã đạt được và chi phí đã tiêu
hao. Nhưng xét trên quan điểm triết học của Mác – Lênin thì sự vật và hiện
tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ tác độnh qua lại lẫn nhau chứ
không tồn tại một cách riêng lẻ. Hơn nữa SXKD là một quá trình trong đó các
yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố sẵn có. Chúng trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động làm kết quả SXKD thay đổi. Theo quan niêm này thì
tính HQSXKD chỉ được xét tới phần kết quả bổ sung và chi phí bổ sung.
Quan niệm thứ ba: Nhà kinh tế học Manfred Kuhn thì cho rằng: ”Tính
hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho
chi phí kinh doanh”, ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan
hệ bản chất của HQSXKD. Nó đã gắn được kết quả với toàn bộ chi phí, coi
HQSXKD là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên quan điểm

này chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chưa
phản ánh hết mức đọ chặt chẽ của mối quan hệ này. Để phản ánh được trình
độ sử dụng các nguồn lực chúng ta phải cố định một trong hai yếu tố hoặc kết
quả đạt được hoặc chi phí bỏ ra nhưng theo qua điểm của chủ nghĩa Mác –
Lenin thì các yếu tốt này không ở trạng thái tĩnh mà luôn biến đổi và vận
động.
Quan điểm thứ tư cho rằng: HQSXKD là mức độ thoả mãn yêu cầu của
quy luật kinh tế cơ bản của CNXH, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách là
chi tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp, là chỉ
tiêu phản ánh HQSXKD. Quan điểm này có ưu điển là đã bán sát mục tiêu
của nền sản xuất CNXH là không ngùng nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân. Song khó khăn ở đây là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng

6


định hướng đó. Đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng là rất đa
dạng phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ phản ánh trong các chỉ tiêu mức đọ
thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống là điều kiện khó khăn.
Qua các quan niệm về HQSXKD như trên thì chúng ta hiểu rằng có
nhiều cách hiểu, cách tiếp cận về HQSXKD khác nhau song trên thực tế thì
nhà SXKD thường quan tâm đến mục đích chủ yếu là lợi nhuận, người tiêu
dùng thì quan tâm đến chất lượng sản phẩm, giá cả và dịch vụ. Xã hội quan
tâm đến tốc độ tăng trưởng, sử dụng tài nguyên và môi trường.
 Về bản chất của HQSXKD
Bản chất của HQSXKD là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động SXKD, phản ánh trình độ sử dụng các nguồin lực (lao
động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, vốn...), trong quá trình tiến hành
các hoạt động SXKD của các doanh nghiệp để đạt được mục tiêu cuối
cùng là tối đa hoá lợi nhuận.

Để hiểu rõ bản chất của HQSXKD ta cần phải phân biệt rõ ràng ranh
giới giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả. Cụ thể sự khác biệt giữa chúng thể
hiện ở ba điểm:
 Thứ nhất: Kết quả phản ánh những cái thu được hướng vào mục tiêu
đã xác định sau một quá trình hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó,
kết quả cũng có thể phản ánh mặt chất lượng SXKD hoàn toàn định tính như
uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm; còn hiệu quả phản
ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất, phản ánh chất lượng hoạt động
được phản ánh thông qua mối quan hệ giữa kết quả và chi phí.
 Thứ hai: Đơn vị của kết quả được biểu hiện của hiện vật như tấn, tạ,
con, cái, chiếc... hoặc đơn vị giá trị đồng tiền như đồng, tỷ đồng, triệu đo la...
trong khi hiệu quả thưòng sử dụng đơn vị tính là %, lần và số tuyệt đối và có
khi cả số dương (+) và số âm (-).

7


 Thứ ba: Kết quả được biểu hiện bằng giá trị tuyệt đối còn hiệu quả
được biểu hiện các so sánh giữa kết quả đạt được và hao phí nguồn lực nên có
thể bằng cả số tuyệt đói và tương đối.
Trong doanh nghiệp, kết quả là mục tiêu nhưng HQSXKD lại được
đánh giá thông qua kết quả và chi phí. Thông qua HQSXKD ta có thể đánh
giá được việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp được đến đâu? Không chỉ
có thế, thông qua đó có thể phân tích tìm ra được các nhân tố, các giải pháp
nâng cao HQSXKD với kết quả lớn hơn mà chi phí sẽ ít hơn.
 Về đặc điểm của HQSXKD
HQSXKD là một khái niệm rất phức tạp và khó đánh giá chính xác. Từ
các quan niệm trên ta có thể thấy rằng HQSXKD được xác định qua mối quan
hệ giữa hai đại lượng là kết quả sản xuất đạt được từ SXKD và chi phí bỏ ra
để thực hiện các hoạt động nhằm thu được các kết quả mà trong khi đó các

kết quả của hai đại lượng này đều khó xác định một cách chính xác.
Kết quả định lượng của một thời kỳ kinh doanh thường khó xác định
một số chính xác cụ thể bởi vì kết quả không chỉ là sản phẩm hoàn chỉnh mà
có khi nó còn là sản phẩm dở dang hay bán thành phẩm...hơn nữa quá trình
sản xuất lại tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả khi một sản phẩm đã được
sản xuất xong thì ta cũng chưa thể nào khẳng định được là liệu rằng sản phẩm
đó sẽ được đảm bảo tiêu thụ được không và bao giờ thì mới tiêu thụ hết được.
Việc xác định hao phí nguồn lực của một thời kỳ cũng là vấn đề không
dễ dàng. Ngay ở nhận thức vấn đề này hao phí nguồn lực được đánh giá thông
qua phạm trù chi phí là chi phí ké toán hay là chi phí kinh doanh? Trong các
phạm trù trên thì chỉ có chi phí kinh doanh phản náh tương đối chính xác hao
phí nguồn lực thực tế. Cũng như có thể tính được chi phí kinh doanh đến từng
bộ phận doanh nghiệp hay không còn phụ thuộc và trình độ phát triển của
khoa học quản trị chi phí kinh doanh. Hơn thế nữa không chỉ chi phí trực tiếp
trong sản xuất kinh doanh mà còn các chi phí cho các hoạt động xã hội như:
Giáo dục, y tế, bảo vệ môi truờng...

8


2.1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hoạt động của SXKD của doanh nghiệp chịu tác động của nhiều loại
nhân tố khác nhau, được chia thành những loại nhân tố sau đây:
Nhân tố khách quan đối với hoạt động SXKD của doanh nghiệp là loại
nhân tố gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
đó mà ngoài ý muốn của doanh nghiệp. Loại nhân tố này có liên quan tới môi
trường kinh tế - xã hội mà doanh nghiệp tiến hành SXKD. Các nhân tố như:
mức phát triển kinh tế xã hội của nơi doanh nghiệp hoạt động, các luật lệ, chế
độ chính sách kinh tế - xã hội, vị trí địa lí của địa điểm mà doanh nghiệp đặt
trụ sở cũng như nhà xưởng SXKD, ứng dụng khoa học kĩ thuật được áp dụng

trong lĩnh vực SXKD của doanh nghiệp. Qua việc nhận thức các nhân tố
khách quan ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp mà nhà quản trị đưa
ra hướng khai thác các nhân tố này một cách hợp lí nhất, tránh những ảnh
hưởng xấu mà chúng có thể gây ra đối với doanh nghiệp mình.
Nhân tố chủ quan đối với hoạt động của doanh nghiệp là nhân tố có
mức tác động đến kết quả SXKD của doanh nghiệp phụ thuộc vào trình độ
nhận thức và trình độ quản lí của doanh nghiệp, đó là: trình độ sử dụng lao
động của doanh nghiệp trong quá trình SXKD, trình độ sử dụng các yếu tố vật
chất trong quá trình SXKD, trình độ khai thác các yếu tố khách quan.
Các nhân tố trên có tác dụng mạnh mẽ mang tính quyết định đến sự
sống còn của bất kì một doanh nghiệp nào. Hiểu rõ từng tác động của từng
nhân tố, hay sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố để đưa doanh nghiệp mình
luôn luôn phát triển ổn định, cân đối và vững chắc.
2.1.2 Phân loại hiệu quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh
2.1.2.2 Phân loại hiệu quả
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hiệu quả nên việc phân loại cũng
có rất nhiều cách để phân loại hiêu quả dựa trên những căn cứ khác nhau:

9


 Căn cứ theo nội dung, bản chất của hiệu quả thì phân hiệu quả thành
ba phạm trù riêng biệt: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi
trường. Ba phạm trù này tuy có khác nhau về phạm vi, nội dung nhưng lại có
quan hệ tác độnh qua lại biện chứng rất gắn bó chặt chẽ với nhau.
- Hiệu quả kinh tế thể hiện mối tương quan giữa kết quả đạt được về
mặt kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó
- Hiệu quả kinh tế thể hiện mối tương quan giữa kết quả đạt được về
mặt xã hội như điều kiện lao động, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, tạo
vệc làm, tạo các mối quan hệ lành mạnh… và chi phí bỏ ra để tạo được kết

quả đó.
- Hiệu quả xã hội xem xét mức độ trung gian giữa kết quả đạt được về
mặt môi trường và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
 Căn cứ vào phạm vi và đối tượng xem xét hiệu quả được phân thành
hiệu quả kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế vùng, hiệu quả kinh tế khu vực
sản xuất vật chất và dịch vụ; hiệu quả kinh tế từng đợn vị sản xuất kinh
doanh. Cách phân loại này giúp điều chỉnh lợi ích cục bộ vì lợi ích chung của
quốc gia
 Căn cứ và yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và phương hướng tác
động vào sản xuất phân hiệu quả thành hiệu quả sử dụnh vốn; hiệu quả sử
dụng đất đai; hiệu quả sử dụng máy móc; hiệu quả các biện pháp khoa học,
quản lý… Cách phân loại này giúp cho việc khai thác có hiệu quả các yếu tố
sản xuất và phát huy tối đa khả năng của từng yếu tố đạt hiệu quả cao nhất.
Ngoài ra hiệu quả còn được xem xét cả về mặt không gian và thời gian.
2.1.2.2 Phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh
HQSXKD phản ánh trình độ lợi dụng các ngồn lực để đạt được mục
tiêu SXKD xác định của các doanh gnhiệp, mối quan hệ giữa kết quả mà quá
trình sản xuất kinh doanh tạo ra và chi phí tạo ra kết quả đó. Hiệu quả kinh tế

10


và hiệu quả kinh doanh là hai phạm trù khác nhau, giải quyết ở hai góc độ
khác nhau song có quan hệ biện chứng với nhau.


Căn cứ theo phạm vi và đối tưọng trong các hoạt động kinh tế,

có thể phân chia HQSXKD thành hiệu quả hai loại:
- HQSXKD tổng hợp: Hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp phản ánh

khái quát và cho phép kết luận về HQSXKD của toàn bộ quả trình SXKD của
doanh nghiệp (hay một đơn vị bộ phận của doanh nghiệp) trong một thời kỳ
xác định.
- HQSXKD bộ phận: Hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận là
HQSXKD chỉ xét ở từng lĩnh vực hoạt động cụ thể của doanh nghiệp. Hiệu
quả sản xuất kinh doanh bộ phận chỉ phản ánh hiệu quả ở từng bộ phận của
doanh nghiệp.
Giữa HQSXKD tổng hợp và HQSXKD bộ phận có mối quan hệ biện
chứng với nhau. HQSXKD cấp doanh nghiệp phản ánh hiệu quả hoạt động
của tất cả các lĩnh vực hoạt động cụ thể của doanh nghiệp và các bộ phận của
doanh nghiệp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp có thể xuất hiện mâu thuẫn
giữa HQSXKD tổng hợp và HQSXKD bộ phận, khi đó các chỉ tiêu HQSXKD
tổng hợp phản ánh HQSXKD của doanh nghiệp, còn các chỉ tiêu HQSXKD
bộ phận chỉ có thể phản ánh hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động, từng bộ phận
của doanh nghiệp.
• Căn cứ vào thời gian có thể chia HQSXKD thành hai loại:
- HQSXKD ngắn hạn: Hiệu quả sản xuất kinh doanh ngắn hạn là
HQSXKD được xem xét, đánh giá ở từng khoảng thời gian ngắn thư tuần,
tháng, quý, năm…
- HQSXKD dài hạn: Hiệu quả sản xuất kinh doanh hạn là HQSXKD
được xem xét đánh giá trong khoảng thời gian dài, gắn liền với các chiến
lược, các kế hoạch dài hạn thậm chí lâu dài, gắn liền với quãng đời tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp.

11


Giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh ngắn hạn và dài hạn có mối quan hệ
biện chứng với nhau và trong nhiều trường hợp có mâu thuẫn với nhau. Về
nguyên tắc, chỉ có thể xem xét và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh ngắn

hạn trên cơ sở vẫn đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh dài hạn trong tương
lai. Trong thực tế chỉ có thể lấy hiệu quả dài hạn làm thước đo chất lượng
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì nó phản ánh xuyên suốt
quá trình lợi dụng nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp.
2.1.3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay hầu hết các doanh nhgiệp
đều phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong và
ngoài nước. Có rất nhiều doanh nghiệp đã trụ vững và phát triển do hoạt động
có hiệu quả nhưng không ít doanh nghiệp bị thua lỗ hoặc phá sản. Thực tế ở
Việt Nam hiện nay việc nâng cao HQSXKD là hết sức cần thiết bởi hầu hết
các máy móc thiết bị lạc hậu, thậm chí rất lạc hậu. Trình độ công nghệ kém so
với thế giới làm hao phí nguyên vật liệu không những rất lớn mà chất lượng
sản phẩm lại không cao. Tỷ lệ sai hỏng nhiều, sản phẩm rất khó có thể cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài nên việc xác định vị trí của sản phẩm
do Việt Nam sản xuất trên thế giới còn đang là một dấu hỏi lớn.
Đồng thời với bản chất sản xuất kinh doanh ta thấy rằng việc nâng cao
HQSXKD chính là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển. Do vậy việc áp dụng các biện
pháp để không ngừng nâng cao HQSXKD của doanh nghiệp là một tất yếu
khách quan.
2.1.4 Những đặc thù về HQSXKD trong nông nghiệp
Nông nghiệp vừa phục vụ đời sống xã hội, đồng thời cũng đem lại lợi
ích cho người sản xuất nhưng bản thân nó cũng phải chịu sự chi phối của
nhiều quy luật tự nhiên mà đặc biệt là quy luật tỷ suất giảm dần và quy luật
cung cầu.

12


Quy luật tỷ suất giảm dần có nội dung chủ yếu là một sự tăng lên của

một đầu vào biến đổi so với một đầu vào khác cố định trong một trình đọ kỹ
thuật nhất định sẽ làm nâng cao tổng khối lượng, nhưng ở một điểm nào đó
khối lượng tăng thêm có được nhờ một lượng bổ sung ở đầu vào có khả năng
ngày một nhỏ. Quy luật này giúp cho các doanh nghiệp tính toán lựa chọn đầu
tư các đầu vào một cách tối ưu hơn.
HQSXKD trong nông nghiệp bị phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều
kiện tự nhiên và các quy luật tự nhiên của sinh vật; các quy luật kinh tế của
nền kinh tế thị truờng (trong đó có quy luật cung cầu về tiêu thụ sản phẩm);
trình độ lực lượng sản xuất và ứng dụng của các khoa học kỹ thuật; các vấn
đề xã hội và chính sách… Vì thế mà các vấn đề kinh tế cần giải quyết là làm
thế nào để sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn trong khuôn khổ chấp nhận được
của xã hội.
Quá trình sản xuất nông nghiệp gắn liền với các yếu tự nhiên, thời gian
lao động luôn xen kẽ với thời gian sản xuất, thời gian lao động lại không ăn
khớp vớ thời gian sản xuất nên trong sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ
cao. Diều này có liên quan khi đánh giá hiệu quả của việc sử dụng lao đọng.
Đối tượng tác động của con người trong quá trình sản xuất nông nghiệp
là các sinh thể sống, cây trồng vật nuôi. Sự sinh trưởng phát triển của chúng
phụ thuộc vào quy luật nhất định và chịu tác động của quy luật tự nhiên rất
phức tạp do vậy hoạt động của con người phải hướng vào việc lợi dụng tốt
nhất các điều kiện tự nhiên đó nhằm thu được nhiều sản phẩm tốt với giá
thành hạ.
Trong sản xuất nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu. khác
với tư liệu sản xuất khác đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được,
nếu biết sử dụng hợp lý thì nó không những ổn định sức sản xuất cảu đất đai
mà còn tăng đọ phì nhiêu cho đất, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Phạm vi
phân bổ của sản xuất nông nghiệp rất rộng vì đất đai là môi trường sống của

13



cây trồng, vật nuôi được phân bổ khắp mọi nơi trên mỗi vùng có đặc điểm khí
hậu và thời tiết khác nhau.
Sản phẩm của ngành sản xuất nông nghiệp thường là sản phẩm tươi
sống do vậy khi thu hoạch cần phải có biện pháp bảo quản, chế biến và tiêu
thụ sao cho phù hợp với đặc điểm tính chất của từng loại sản phẩm.
2.2 Cở sở thực tiễn về sản xuất kinh doanh giống cây trồng
2.2.1 Sản xuất và kinh doanh giống cây trồng ở một số nước trên thế giới
Trong những năm gần đây nhiều doanh nghiệp là Công ty, tập đoàn đa
quốc gia trên thế giới đã rất thành công trong việc nghiên cứu, chọn lọc ra
những sản phẩm giống cây trồng mới có nhiều đặc điểm tốt như năng suất
cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh tốt góp phần nâng cao sản lượng
lương thực đảm bảo an ninh lương thự chung cho thế giới. Trong đó phải kể
đến một số doanh nghệp phát triển mạnh như tập đoàn Monsanto của Mỹ, Tập
đoàn Syngenta của Thụy Sỹ, Tập đoàn cổ phần của Thán Lan, Công ty TNHH
Giống cây trồng Đắc Nguyệt Trung Quốc...
• Tại Thái Lan
Ở Thái lan, người ta đã đặt trọng tâm vào phát triển nông nghiệp trên
quy mô công nghiệp hiện đại, bằng các phương phát sinh học tối tân, họ đã
sản xuất hàng loạt giống cây trồng mới, được chọn lọc và cho nhân giống, lai
tạo ra những thế hệ cây trồng nhiều ưu điểm, cải tạo gen thành những giống
cây kháng bệnh, kháng sâu rầy, giảm bớt chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian
chăm sóc, tạo nên ưu thế vững chắc trong sản xuất nông nghiệp.
Hơn 60% nông dân Thái Lan gồm 3,7 triệu nông hộ là những người
trồng lúa trên tổng diện tích là 10,7 triệu Ha đất lúa. Hàng năm sản xuất được
29,4 triệu tấn lúa, tiêu thụ nội địa 21,4 triệu tấn, còn 8 triệu tấn được xuất
khẩu khiến cho Thái Lan trở thành nước xuất khẩu gạo chủ yếu trên thị
trường thế giới. Giống lúa nổi tiếng nhất là KHAO DAWK MALI 105 (HOM

14



MALI) hay cón gọi là HƯƠNG NHÀI (JASMINE) có phẩm chất ngon, mềm
và thơm.
Thái Lan có nguồn gen dồi dào về giống lúa. Ngân hàng gen có hơn
24.000 dòng/giống. Gần 100 giống lúa cải tiến đã được công nhận đưa vào
sản xuất. Tổng nhu cầu lúa giống của Thái Lan khoảng 1 triệu tấn. Tuy nhiên,
một số nông dân thường tự để dành giống riêng trong 2-3 năm, trước khi thay
thế bằng hạt giống mới. Sở Lúa Gạo ước tính tổng nhu cầu lúa giống của Thái
Lan xấp xỉ 571.000 tấn/năm.
• Tại Trung Quốc
Thực tế cho thấy lúa lai có thể cho năng suất cao hơn 20% so với năng
suất lúa thuần. Trong những năm gần đây, diện tích lúa lai đã chiếm 50% (15
triệu ha) trong tổng diện tích trồng lúa của Trung quốc. Năng suất trung bình
của lúa lai là 7 tấn/ha trong khi năng suất trung bình của lúa thuần là 5,6
tấn/ha. Nếu làm một phép tính đơn giản chúng ta cũng có thể thấy sự gia tăng
về tổng khối lượng do lúa lai mang lại lớn như thế nào. Lúa lai đã và đang
giúp Trung quốc giải quyết vấn đề lương thực và là nước có khả năng tự cung
cấp lương thực lớn nhất thế giới.
Trung quốc đang tiếp tục đạt được tiến bộ mới trong phát triển công
nghệ sản xuất lúa lai. Tiếp theo thành công sản xuất lúa lai ba dòng vào
những năm 70, lúa lai hai dòng được thương mại hóa vào năm 1995. Sau khi
được thương mại hóa, việc ứng dụng đưa vào sản xuất lúa lai hai dòng phát
triển nhanh chóng và đạt tới diện tích 2,6 triệu ha và chiếm gần 20% tổng
diện tích trồng lúa lai. Năng suất của lúa lai hai dòng cao hơn từ 5-10% so với
năng suất lúa lai ba dòng.
Năm 1996, Trung quốc tiến hành chương trình nghiên cứu siêu lúa lai
và đã cho ra đời những giống lúa có ưu thế về năng suất cao hơn khoảng 20%
so với lúa lai ba dòng. Diện tích dự định dành cho những giống siêu cao sản
này là 240 ngàn ha (năm 2000) vơi năng suất trung bình 9,6 tấn/ha. Vào năm


15


2002, diện tích siêu lúa lai tăng đến 1,4 triệu ha với năng suất trung bình 9,1
tấn/ha. Các giống siêu hai dòng P64S/E32 và siêu ba dòng II-32A/Ming86 đạt
năng suất kỷ lục 17,1 tấn/ha vào năm 1999 và 17,95 tấn/ha vào năm 2001.
Chất lượng gạo của lúa lai cũng được chú ý đảm bảo trong quá trình nghiên
cứu, thử nghiệm và đưa vào sản xuất. Trung quốc tập trung phát triển các
giông siêu thế hệ thứ hai với mục tiêu đạt năng suất 12 tấn/ha khi đưa vào sản
xuất đại trà. Các nhà khoa học Trung quốc cho rằng lúa siêu có một tương lai
phát triển sáng sủa khi đã phủ diện tích tới 13 triệu ha hàng năm và làm tăng
năng suất thêm 2,25 tấn/ha. Thành công này giúp nền nông nghiệp Trung
quốc tin rằng sản lượng lương thực đạt được 30 triệu tấn/năm đồng nghĩa với
việc đảm bảo lương thực cho thêm 75 triệu người.
Việt Nam và Ấn Độ là những nước tiếp theo tiến hành nghiên cứu và
thương mại hóa các giống lúa lai với năng suất cao hơn các giống lúa thuần
truyền thống. Thành công trong sản xuất lúa lai góp phần giúp Việt Nam trở
thành nước đứng thứ hai trong xuất khẩu gạo tại châu Á. Ngoài ra,
Philippines, Bangladesh, Indonesia, Pakistan, Ecuador, Guineas và Mỹ cũng
là những nước đạt được thành công trong sản xuất lúa lai và đang đưa vào sản
xuất nhiều giống lúa lai ở cả hai mức độ khảo nghiệm và sản xuất đại trà. Tại
Philippines, với sự hỗ trợ của FAO, viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI và
Trung Quốc, lúa lai cũng được thương mại hóa. Đặc biệt, giống lúa siêu SL-8
cũng đã được lai tạo tại nước này và được đưa ra trồng trên diện rộng (3000
ha) vào năm 2003 với năng suất bình quân 8,5 tấn/ha (cao gấp hơn hai lần
năng suất lúa bình quân của nước này). Chính phủ Philippines có nhiều chính
sách hỗ trợ và khuyến khích phát tiển lúa lai từ năm 2003 đến 2007.
( />%C3%A0_an_ninh_l%C6%B0%C6%A1ng_th%E1%BB%B1c_tr
%C3%AAn_th%E1%BA%BF_gi%E1%BB%9Bi)


16


2.2.2 Sản xuất và kinh doanh giống cây trồng ở Việt Nam
2.2.2.1 Vai trò giống cây trồng trong quá trình phát triển nông nghiệp
Trong 2 thập kỷ vừa qua, ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu đáng khích lệ. Trong khi đã đảm bảo được an ninh lương thực
trong nước, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia lớn trên thế giới
trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu nông sản một số loại cây trồng như lúa
gạo, cà phê, cao su, điều, chè và hồ tiêu... Cùng với việc cải thiện hệ thống
thuỷ lợi, phổ biến ứng dụng phân bón hoá học và thuốc BVTV thì các giống
cây trồng mới đã đóng vai trò rất quan trọng để đạt được nhiều thành tựu
trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Ngành giống cây trồng đã cung cấp
một bộ giống phong phú, bao gồm những giống thuần và giống ưu thế lai
ngắn ngày, có năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh, có khả năng
thích ứng rộng (đối với cây trồng hàng năm) và nhiều loại giống cây trồng lâu
năm được cải tiến, chọn lọc đưa vào sản xuất. Những kết quả này đã tạo ra
điều kiện rất cơ bản để nước ta thực hiện thành công “cuộc cách mạng mùa
vụ”, cải thiện chất lượng và nâng cao sản lượng.
Có thể hiểu sản phẩm giống cây trồng là tư liệu sản xuất đặc biệt của
ngành sản xuất nông nghiệp. Việt Nam hiện nay vẫn là nước có cơ cấu kinh tế
nông nghiệp là chủ yếu nên khi tiến hành CNH, HĐH đất nước thì cần phải CNH,
HĐH ngành nông nghiệp. Do vậy, yêu cầu tất yếu là cần phải CNH, HĐH ngành giống cây
trồng.
Để gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vai trò
của ngành giống cây trồng rất được chú trọng. Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh giống cây
trồng ở Việt Nam có tiềm năng rất lớn. Và sản phẩm giống cây trồng có hàm lượng chất
xám cao, tiềm năng giá trị gia tăng lớn. Hiện nay và trong thời gian tới, tỷ suất lợi nhuận
bình quân của ngành giống cây trồng là khá cao.


Ngày nay trong các biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng năng suất cây
trồng thì giống là yếu tố đầu tiên quyết định làm tăng năng suất, cũng như
tăng chất lượng nông sản hàng hoá. Từ vị trí, vai trò quan trọng của giống

17


trong sản xuất nông nghiệp mà hàng năm Nhà nước ta đã đầu tư rất lớn về
kinh phí và cơ sở vật chất kỹ thuật cho các Viện nghiên cứu Nông nghiệp và
các Trường Đại học Nông Nghiệp trong nước nghiên cứu, chọn tạo ra các
giống cây trồng phù hợp với từng vùng sinh thái khác nhau và đã được ứng
dụng vào sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao cho hàng triệu hộ nông dân
trong cả nước; trong đó công tác nghiên cứu, chọn tạo và ứng dụng vào sản
xuất các giống lúa mới, giống nguyên chủng đặc biệt được quan tâm.
2.2.2.2 Tổ chức SXKD giống cây trồng ở nước ta
HQSX là động lực quan trọng cho hoạt động SXKD, việc đánh giá
đúng HQKD từ đó sẽ tìm cho đơn vị mình những phương hướng và những
giải pháp hoạt động có hiệu quả.
Việt Nam có nhiều đơn vị kinh doanh giống cây trồng, nhìn chung các
Công ty này đánh giá đúng HQKD của Công ty mình từ đó hoạt động của họ
rất hiệu quả. Cụ thể, Công ty cổ phần Giống cây trồng miền Nam là một
trong những đơn vị hàng đầu về cung ứng hạt giống cây trồng đạt tiêu chuẩn
quốc tế và đã đưa ra thị trường hàng trăm chủng loại hạt giống, đặc biệt là
nhiều giống ngô lai, lúa lai, dưa hấu, rau,... luôn được nhà nông tín nhiệm.
Công ty cổ phần giống cây trồng Miền Nam, họ luôn chú trọng công tác đánh
giá HQKD, từ đó Công ty đã lập ra được các kế hoạch, ngắn hạn, như: mở
rộng hoạt động SXKD ở khu vực Tây Nguyên, và các tỉnh miền Trung, đầu tư
cải tạo thêm văn phòng làm việc. Luôn củng cố và duy trì cải tiến và mở rộng
phạm vi áp dụng hệ thống quản lý tập trung vào chất lượng và hướng khách

hàng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy,
xây dựng đầy đủ các quy chế quản lý, tăng cường tuyển dụng và đào tạo để
xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên có đủ năng lực đáp ứng
được yêu cầu phát triển. Ưu tiên đầu tư các nguồn lực cho hoạt động nghiên
cứu phát triển. Tăng cường nhân lực để đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị

18


trường, marketing (trình diễn, tập huấn, hội thảo, tuyên truyền, quảng cáo),
phát triển hệ thống đại lý, cải tiến hoạt động bán hàng theo hướng chính quy.
Xác lập các định mức vật tư, lao động để nâng cao hiệu quả quản lý sản
xuất. Tăng cường công tác quản lý tài chính và hạch toán kinh tế toàn Công ty
để sử dụng hiệu quả. Kế hoạch dài hạn: Hợp tác với các đối tác có tiềm năng về
tài chính và kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản để đầu tư xây
dựng cao ốc văn phòng để bán và cho thuê. Từ đó Công ty đã có bước phát
triển mạnh với sản lượng sản xuất cũng như tiêu thụ là cao. Với tổng doanh
thu, và lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh cao. Thông qua mạng lưới đại lý
cung ứng hạt giống khắp các tỉnh, thành trong cả nước, nhiều năm liền, doanh
thu và lợi nhuận của Công ty năm sau tăng cao hơn năm trước, riêng năm 2008
doanh thu đạt gần 202,103 tỷ đồng, tăng 19%, lợi nhuận hơn 30.410 tỷ đồng,
tăng 14% và thu nhập của CBCNV gần 5,227 triệu đồng/tháng/người, tăng
11,6% so với năm 2007; tỷ lệ trả cổ tức vẫn bảo đảm mỗi năm ở mức hơn 15%.
( pages.php?id cat=2&id=281)
2.2.3 Các quy định của Nhà nước trong phát triển ngành trồng trọt và các
ngành sản xuất giống cây trồng
Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 2003 đã đề ra 12 nhiệm vụ
và giải pháp chính để phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh
của đất nước. Một trong 12 nhiệm vụ và giải pháp chính đó là: "Tập trung đầu
tư nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ; đổi mới thiết bị,

công nghệ để tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao, nhất là giống cây trồng,
vật nuôi và công nghệ chế biến hiện đại".
Nghị định của chính phủ Số 07/CP ngày 05 tháng 12 năm 1996 về quản
lý giống cây trồng đã đưa ra 26 điều với mục đích tăng cường hiệu lực quản
lý Nhà nước về giống cây trồng, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và
nhân nhanh các giống tốt phục vụ sản xuất.

19


( />%20ban%20phap%20quy/LS%201.htm)
Ngày 27/4/05, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã ký ban hành
Nghị định số 57/2005/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giống cây trồng. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực này là những hành vi của
tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của pháp luật về giống cây trồng một cách
cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực giống cây trồng mà không phải là tội phạm và bị xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định của Nghị định này. Các vi phạm bao gồm: Vi phạm
các quy định về quản lý, sử dụng và bảo tồn nguồn gen giống cây trồng; khảo
nghiệm, công nhận giống cây trồng mới và bình tuyển, công nhận cây đầu
dòng; bảo hộ giống cây trồng mới; sản xuất, kinh doanh giống cây trồng;
quản lý chất lượng giống cây trồng và quản lý hành chính về giống cây trồng.
( />
trieu!/20415963/188/)
Quyết định số 50/2008/QĐ – BNN, ngày 02 thánh 04 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành danh mục
giống cây trồng được phép sản xuất kinh doanh.
2.3 Tổng quan tài liệu nghiên cứu về hiệu quả SXKD giống cây trồng.
Đánh giá HQKD là một vấn đề hết sức quan trọng từ thực tế, các Công
ty cũng thường xuyên đánh giá và tìm các biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh

doanh nhằm phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của mình. Đồng thời có nhiều
các báo cáo, các đề tài nghiên cứu, đánh giá HQKD, tìm các biện pháp nâng
cao HQKD trong các Công ty giống như: Đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng
cao HQKD của Công ty giống cây trồng Nghệ An” của tác giả Đặng Hải Ba
(năm 2001). Đề tài “Đánh giá kết quả và hiệu quả SXKD thức ăn gia súc của
Công ty nông sản Bắc Ninh” Nguyễn Hồng Văn KT42C (năm 2000). Đề tài
“Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty giống rau quả trung

20


ương” của tác giả Nguyễn Thị Thủy (năm 2004). Các đề tài này bước đầu đã
đánh giá tốt về HQKD của các Công ty. Tuy nhiên nó vẫn chưa phản ánh hết
các nội dụng đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh.

21


PHẦN THỨ BA: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Một số đặc điểm của Công ty cổ phần Giốn cây trồng Trung ương
3.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty
Công ty cổ phần giống cây trồng Trung ương là một đơn vị kinh tế trực
thuộc bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trụ sở chính Số 1 Phố Lương
Định Của, phường Phương Mai, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Năm 1968 Công ty Giống cây trồng cấp I trực thuộc Bộ Nông nghiệp
và phát triển Nông thôn được thành lập.
Năm 1978, Công ty Giống cây trồng phía Nam được hợp nhất với Công
ty giống cây trồng cấp I thành Công ty Giống cây trồng Trung ương trực
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Công ty Giống cây trồng phía

Nam trở thành Chi nhánh 1 của Công ty Giống cây trồng Trung ương.
Năm 1981 Chi nhánh 1 được đổi thành Xí nghiệp Giống cây trồng I.
cây trồng Trung ương II, nay là Công ty Cổ phần Giống cây trồng Miền
Nam. Tên tiếng Anh: Souther Seed Company (SSC).
Năm 1993, Công ty Giống cây trồng Trung ương được đổi tên thành
Công ty Năm 1989 Xí nghiệp Giống cây trồng I được tách ra thành Công ty
Giống Giống cây trồng Trung ương I.
Ngày 10/11/2003 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có Quyết
định số 5029/QĐ/BNN-TCCB chuyển đổi Công ty Giống cây trồng Trung
ương I thành Công ty cổ phần với tên là Công ty Cổ phần Giống cây trồng
Trung ương.
Từ khi thực hiện cổ phần hoá đến nay, Công ty cổ phần Giống cây
trồng Trung ương (Tên tiếng Anh: National Seed joint Stock Company
(NSC)), đã khẳng định vị thế của mình là một trong những Công ty cung ứng
giống phục vụ sản xuất nông nghiệp hàng đầu cả nước. NSC cũng là một

22


trong những Công ty kinh doanh giống cây trồng bắt đầu xuất khẩu giống, sản
lượng xuất khẩu giống đứng hàng đầu tại Việt Nam. Hiện tại Công ty Cổ
phần Giống cây trồng Trung ương là thành viên của Hiệp hội Giống Châu Á Thái Bình Dương (APSA – The Asia & Pacific Seed Association).
Công ty kinh doanh giống cây trồng và vật tư phục vụ cây trồng, xuất
nhập khẩu trực tiếp về giống phục vụ sản xuất giống cây trồng, trồng trọt, gia
công chế biến đóng gói bảo quản giống cây trồng và vật tư phục vụ cây trồng.
NSC rất có uy tín và thương hiệu trong lĩnh vực sản xuất giống cây trồng, sản
phẩm của Công ty đã chiếm được niềm tin của bà con nông dân cả nước.
Công ty có các đơn vị thành viên để nghiên cứu, chọn tạo và sản xuất hạt
giống, có hệ thống máy móc tương đối hiện đại, dây chuyền chế biến giống
đồng bộ để chế biến hạt giống đạt tiêu chuẩn chất lượng cao. Bên cạnh đó,

Công ty luôn chú trọng đến công tác nghiên cứu phát triển các giống mới có
chất lượng tốt hơn, năng suất cao hơn, ổn định để đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của nông dân.
3.1.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của Công ty
1) Đại hội đồng cổ đông:
Bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, Đại hội đồng cổ đông
là cơ quan quyền lực cao nhất của Công ty, quyết định những vấn đề được
Luật pháp và điều lệ Công ty quy định. Đặc biệt các cổ đông sẽ thông qua các
báo cáo tài chính hàng năm của Công ty và ngân sách tài chính cho năm tiếp
theo. Đại hội đồng cổ đông sẽ bầu ra Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát của
Công ty.
2) Hội đồng quản trị:
Là cơ quan quản lý Công ty, có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết
định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty, trừ những
vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. HĐQT có trách nhiệm
giám sát Tổng Giám đốc điều hành và những người quản lý khác. Quyền và

23


nghĩa vụ của HĐQT do Luật pháp và Điều lệ Công ty, các quy chế nội bộ của
Công ty và Nghị quyết ĐHĐCĐ quy định. Hiện tại HĐQT Công ty Cổ phần
Giống cây trồng Trung ương có 5 thành viên, có nhiệm kỳ là 3 năm.
3) Ban kiểm soát:
Là cơ quan trực thuộc ĐHĐCĐ, do ĐHĐCĐ bầu ra. Ban Kiểm soát có
nhiệm vụ kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong điều hành hoạt động kinh
doanh, báo cáo tài chính của Công ty. Ban kiểm soát hoạt động độc lập với
Hội đồng quản trị và Ban Tổng Giám đốc.
4) Ban Tổng Giám đốc:
Ban tổng Giám đốc của Công ty gồm có Tổng Giám đốc và 1 Phó Tổng

Giám đốc. Tổng Giám đốc là người điều hành hoạt động hàng ngày của Công
ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và
nhiệm vụ được giao. Nhiệm kỳ của Tổng Giám đốc là 3 năm trừ khi HĐQT
có quy định khác. Phó Tổng Giám đốc là người giúp việc cho Tổng Giám đốc
và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về phần việc được phân công, chủ
động giải quyết những công việc đã được Tổng Giám đốc uỷ quyền và phân
công theo đúng chế độ chính sách của Nhà nước và Điều lệ của Công ty.
5) Phòng kĩ thuật – chất lượng:
Xây dựng đề xuất, kiến nghị và tham gia thực hiện quy trình chọn lọc
và nhân dòng giống NC, NSC, các giống theo yêu cầu củ thị trường và thực
hiện công nghệ sản xuất hạt giống theo chương trình thống nhất của Công ty.
Quản lý chất lượng giống cây trồng toàn Công ty từ chọn lọc nhân
dòng, sản xuất chế biến đóng gói, đến bảo quản tiêu thụ.
Tổ chức khảo nghiệm kết hợp trình diễn một số giống mới rất triển vọng đáp
ứng nhu cầu cấp thiết của thị trường trong một số cơ sở trạm trại của Công ty.

24


6) Phòng sản xuất dự án:
Phòng chuyên sản xuất những loại giống cây mà đã được sáng chế, lai
tạo. Tìm và nghiên cứu các dự án sản xuất, hợp tác sản xuất giữa các trạm,
trại, các Công ty khác, các viện nghiên cứu.
7) Phòng Thị trường kinh doanh:
Thu thập xử lý thông tin và xác định nhu cầu của thị trường về giống
cây trồng theo vùng, theo mùa và thời vụ. Tổ chức và thực hiện các hợp đồng
mua, bán sản phẩm. Đẩy mạnh dịch vụ các sản phẩm giống có sức cạnh tranh
trên thị trường nhằm tăng thêm nguồn thu cho doanh nghiệp. Từng bước đẩy
mạnh xuất nhập khẩu giống cây trồng để tăng hiệu quả trong kinh doanh.
8) Phòng quản lý tổng hợp:

Thực hiện các chính sách, chế độ, thanh toán đầy đủ, kịp thời như: Tiền
lương, bảo hiểm xã hội. Thực hiện quy hoạch đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm
cán bộ theo quy định. Thực hiện và đôn đốc thực hiện dự án nâng cấp cải tạo
mua sắm. Làm công tác quản trị quản lý đồ dùng, xe con, tổng hợp số liệu,
kiểm tra kế hoạch tổ chức các cuộc hội họp, hội nghị tổng kết, giữ gìn trật tự
an ninh, duy trì các mối quan hệ, đối nội, đối ngoại.

25


×