Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

lich su thi giup nang cao tri tue

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.27 KB, 5 trang )

về quá trình chuyển biến sang chế độ phong kiến.bai1
Sự hình thành chế độ phong kiến, nhà nước phong kiến là cả một quá trình và có hai
con đường:
+ Một là, có những nước là chế độ chiếm hữu nô lệ và trong lòng nó ở thời kì cuối đã
có mầm mống quan hệ phong kiến, dần dần chuyển sang chế độ phong kiến, nhà nước
chiếm hữu nô lệ chuyển sang nhà nước của giai cấp phong kiến như ở đế quốc Đông
La Mã (By-giăng-xơ), Trung Quốc, Ấn Độ…
+ Hai là, những nước từ chế độc công xã nguyên thủy đang tan rã, bỏ qua chế độ
chiếm hữu nô lệ tiến thẳng lên chế độ phong kiến và thiết lập nhà nước phong kiến.
Bước nhảy vọt như vậy, trước hết là do yếu tố nội sinh bên trong (Sự phát triển của lực
lượng sản xuất và kinh tế, mầm mống của giai cấp và nhà nước). Nhưng một yếu tố
khác rất quan trọng là sự tiếp thu ảnh hưởng của chế độ phong kiến của các nước
khác như các quốc gia Đông Âu, Triều Tiên, Việt Nam…Trong đó, những cuộc chiến
tranh chinh phục giúp cho việc tiếp thu ảnh hưởng ấy một cách nhanh chóng như
trường hợp bộ tộc người Giéc man chinh phục đế quốc Tây La Mã, Mông Cổ chinh
phục Trung Quốc…
Giữa châu Á và châu Âu, sự hình thành chế độ phong kiến và nhà nước phong kiến có
những điểm khác nhau rõ rệt:
Về thời gian.
Chế độ phong kiến hình thành sớm và tan rã muộn hơn phương Tây.
Ở châu Á, chế độ phong kiến hình thành sớm nhất ở Trung Quốc (thế kỉ III TCN). Ở
châu Âu, nó được hình thành sớm nhất là thế kỉ V sau công nguyên (Ở Tây Âu). Tuy
nhiên trong từng khu vực cũng có những nhà nước phong kiến ra đời muộn như Mông
Cổ, Thổ Nhĩ Kì, Lào… (thế kỉ XII), như ở Đông Âu (thế kỉ VII-X).
Về không gian.
Ở châu Âu, chính thể phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ đã từng
phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô lệ mang tính chất điển hình. Còn ở châu Á, chế độ
phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang
tính chất gia trưởng.
Ở Phương đông chế độ phong kiến ra đời sớm là do yêu cầu làm thủy lợi phục vụ nông
nghiệp, đoàn kết chông ngoại xâm nên đã hình thành những quốc gia lớn. Còn ở


phương Tây, do công cuộc chinh phục của bộ tộc Giéc man đã thúc đẩy quá trình
phong kiến hóa, hình thành những thế lực lãnh chúa cát cứ.


Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn tới quán trình phát triển của chế độ phong kiến và
nhà nước phong kiến.
Về cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước phong kiến.
Trong chế độ phong kiến có hai giai cấp cơ bản là địa chủ (ở châu Âu gọi là Lãnh chúa
hoặc chúa đất) và nông dân (ở châu Âu là nông nô), có phương thức bóc lột đặc trưng
là địa tô. Ngoài ra còn có tầng lớp thợ thủ công, tầng lớp thị dân.
Nhưng cũng tương tự như thời cổ đại, cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước
phong kiến châu Á và châu Âu có một số điểm rất khác nhau:
Thứ nhất, ruộng đất là tư liệu sản xuất chính trong chế độ phong kiến.
Ở châu Âu, chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển triệt để từ thời cổ đại. Trong thời
phong kiến, chế độ tư hữu ruộng đất không những vẫn như vậy, mà còn phát triển
thành tư hữu rất lớn (các lãnh chúa). Hầu hết nông dân mất hết ruộng đất và trở thành
nông nô.
Ở châu Á, chế độ ruộng đất không thuần nhất như ở châu Âu. Hiện tượng phổ biến về
ruộng đất của chế độ phong kiến tồn tại quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước (của
vua), đồng thời đối với ruộng đất tư nhân, vua cũng có quyền sở hữu tối cao. Tư hữu
ruộng đất (hầu hết là của địa chủ, một phần nhỏ của nông dân) phát triển chậm.
Tóm lại, trong khi ở châu Âu, ruộng đất hoàn toàn thuộc sở hữu tư nhân (lãnh chúa) thì
ở châu Á tồn tại song song sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân (chủ yếu là địa chủ
phong kiến). Có thể nói, đặc điểm về chế độ sỡ hữu ruộng đất luôn luôn là chìa khóa để
đi vào tìm hiểu những đặc điểm khác.
Thứ hai, về định tính và định hình giai cấp. Địa chủ phong kiến là những người có nhiều
ruộng đất riêng của mình và bóc lột bằng địa tô.
Lãnh chúa phong kiến ở châu Âu là chủ sở hữu ruộng đất lớn, nguồn lợi thu hầu hết
bằng địa tô. Vì vậy, hình ảnh của vị địa chủ phong kiến phương Tây rất nổi, hay nói
cách khác, định tính và định hình của giai cấp địa chủ phong kiến ở phương Tây rất rõ

ràng và đậm nét. Nông nô phương Tây hoàn toàn không có ruộng đất, phải hoàn toàn
lĩnh canh ruộn đất của lãnh chúa và nộp địa tô cho chủ. Người nông nô đúng 100% là
người tá điền, hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.
Ở phương Đông, ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước, một phần được phân phong
cho quý tộc quan lại (thường ruộng đất loại này, người được phong không có quyền
mua bán), một phần được cấp cho nông dân theo định kì cày cấy để nhà nước thu
thuế, như chế độ quân điền ở Trung Quốc, Việt Nam, chế độ ban điền ở Nhật Bản…từ
đó có hai hệ quả:


+ Địa chủ phong kiến không chỉ bóc lột bằng địa tô từ số ruộng đất tư của mình, mà còn
bóc lột bằng thuế được hưởng từ ruộng đất được phân phong.
+ Người nông dân tuy phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ và nộp tô, nhưng cũng nhận
được một phần ruộng đất của nhà nước và phải nộp thuế. Một số ít nông dân còn có
ruộng đất riêng để cày cấy. Chính vì vậy, người nông dân phương Đông còn có quyền
tự do thân thể hơn người nông nô phương Tây-người hoàn toàn bị lệ thuộc vào lãnh
chúa.
Như vậy, định tính và định hình của giai cấp ở phương Đông không sắc nét như ở
phương Tây.
Thứ ba, trong khi châu Âu cho đến thế kỉ XIV, văn hóa, giáo dục vẫn bị giáo hội lũng
đoạn kìm hãm, cả xã hội sống trong vòng lạc hậu, tối tăm, thì ở phương Đông, Trung
Quốc, Ấn Độ, Ả Rập là những trung tâm văn minh lớn của thế giới, với những thành tựu
to lớn về văn học, triết học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên…với những phát minh quan
trọng của Trung Quốc (Giấy, in, thuốc súng, la bàn). Khác hẵn với phương Tây, tập
đoàn vua chú phong kiến ở phương Đông thường là những nhà tri thức lớn trong xã
hội. Trường hợp vua không biết chữ học ít học thức chỉ là cá biệt.
Trong dân gian cũng có không ít người có học thức. Từ rất sớm phong cách văn minh,
lịch sử, tao nhã đã trở thành nếp sống bình thường của người người phương Đông.
Chính người phương Tây đã học tập nếp sống văn minh đó từ những cuộc viễn chinh
sang phương Đông của thập tự chinh cuối thế kỉ XI-XIII.

Về tư tưởng, nhìn chung cả phương Đông và phương Tây đều lấy tôn giáo làm cơ sở
lý luận cho chế độ thống trị. Tuy nhiên, cũng có sự khác biệt rõ rệt:
Ở Phương Đông, chế độ quân chủ chuyên chế rất mạnh và có nhiều tôn giáo trong
cùng một nước. Các tôn giáo đều không có tổ chức giáo hội mang tính quốc tế. Mặc dù
vậy nhưng gần như suốt trong quá trình tồn tại của chế độ phong kiến, nhà nước luôn
sử dụng những giáo lý của tôn giáo để xây dựng và cũng cố một nhà nước quân chủ
chuyên chế và bành trướng xâm lược ra bên ngoài như Nho giáo (Trung Quốc), Hồi
giáo (Ấn Độ),…
Ở phương Tây, Đạo cơ đốc-Thiên chúa giáo ra đời đầu công nguyên, nhưng sang thời
phong kiến, Thiên chúa giáo đã trở thành một thế lực rất mạnh, là chỗ dựa vững chắc
cho vương quyền phong kiến phương Tây, giáo lý-hệ tư tưởng của nó mà Tòa án giáo
hội thật sự là công cụ tinh thần của tập đoàn phong kiến thế tục và nhà thờ để thống trị
quần chúng, mặc khác, giáo hội Thiên chúa luôn luôn tìm cách can thiệp, chi phối chính
quyền phong kiến để cũng cố địa vị và quyền lợi của giáo hội. Có thể nói, ở phương
Tây, sự kết hợp giữa thần quyền và vương quyền đã tạo nên sức mạnh không phải là ở
cấp số cộng mà là cấp số nhân của các thế lực áp bức và bóc lột trong xã hội.


Như vậy, Ở phương Đông nhìn chung tôn giáo chỉ là lực lượng hổ trợ cho giai cấp
thống trị, chứ không trở thành lực lượng chi phối, can thiệp công khai, chặt chẽ được
chính quyền nhà nước phong kiến rõ nét như ở phương Tây.
Nhìn chung, kinh tế tự cung tự cấp giữa vai trò chủ yếu trong chế độ phong kiến.
Nhưng đến cuối thời kì phong kiến ở phương Tây kinh tế tư bản chủ nghĩa nảy sinh và
phát triển, đưa phương Tây vượt lên hẳn phương Đông. Các nước phương Đông (trừ
Nhật Bản) dần dần trở thành thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
Về hình thức và chức năng của nhà nước.
Ở phương Tây, hình thức kết cấu của nhà nước phổ biến và bao trùm là phân quyền
cát cứ với những biểu hiện và được quyết định bởi những nguyên nhân khác nhau. Có
thể kể hai nguyên nhân chính sau đây:
+ Nguồn gốc xâu xa là đế quốc Frang được dựng lên do kết quả của những cuộc chiến

tranh xâm lược và được duy trì bằng bạo lực, không có cơ sở kinh tế, chỉ là một liên
hiếp tạm thời không vững chắc. Trong phạm vi Tây Âu và trong phạm vi từng nước, các
cộng đồng dân cư ở vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó đều có
khuynh hướng phát triển riêng, muốn tách ra khoie ràng buộc của chính quyền trung
ương.
+ Nguyên nhân cơ bản, có tính quyết định là yếu tố kinh tế. Trong đó, trước hết phải nói
đến chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đó là sở hữu tư nhân rất lớn của phong
kiến được hình thành (chế độ phân phong, thừa kế, bảo hộ ruộng đất…).
Hình thức chính thể quân chủ chuyên chế chỉ xuất hiện ở thời kì cuối-thời kì suy vong
của chế độ phong kiến và chỉ ở một số nước như Pháp, Anh, Tây Ban Nha…còn ở một
số nước như Đức, Ý, tình trạng cát cứ phong kiến tồn tại suốt cả chế độ phong kiến.
Tính chuyên chế không cao như ở phương Đông. Ngoài ra còn có hình thức chính
quyền tự trị thành phố là chính quyền cục bộ, tồn tại trong những khoảng thời gian
không lâu. Nó là chính quyền cộng hòa phong kiến, nằm trong phạm trù nhà nước
phong kiến.
Ở phương Đông, hình thức, kết cấu của nhà nước phong kiến là trung ương tập quyền,
phát triển thành hình thức chính thể quân chủ chuyên chế và mang tính chuyên chế
cực đoan. Chính thể này tồn tại trong suốt thời kì chế độ phong kiến. Trong chính thể
đó, vua có uy quyền tuyệt đối, là đấng tối cao vô thượng và được thần thánh hóa là
thiên tử (con trời), thiên hoàng (vua nhà trời)…Chính thể quân chủ chuyên chế phương
Đông hình thành và phát triển do những yếu tố sau:
+ Quyền sở hữu tối cao về ruộng đất thuộc nhà vua và sự tồn tại của các công xã nông
thôn.


+ Do đòi hỏi của cuộc xâm lược bành trướng hoặc trong công cuộc chống chinh phục.
+ Do tập quán chính trị và tâm lý chính trị truyền thống. Nhà nước quân chủ chuyên chế
phong kiến là sự kế thừa và phát triển chính thể quân chủ chuyên chế chủ nô.
+ Do truyền thống kết hợp chặc chẽ giữa vương quyền và thần quyền.
Cũng như trong thời kì chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến ở phương Đông còn có

một chức năng đặc biệt và rất quan trọng, chức năng tổ chức công cuộc trị thủy và thủy
lợi.
Dù phương Đông và phương Tây có những điểm khác nhau, nhưng bản chất của nhà
nước phong kiến dù ở đâu cũng chỉ là một. Nhà nước phong kiến là công cụ của giai
cấp phong kiến để đàn áp, bóc lột nhân dân lao động, bảo vệ địa vị và quyền lợi của
giai cấp phong kiến thống trị.
.



×