Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

nghiên cứu và xây dựng thư viện phim ảnh, phóng sự về môi trường phục vụ công tác giảng dạy và truyền thông môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.48 MB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG

NGHIÊN CỨU VÀ XÂY DỰNG THƯ VIỆN PHIM ẢNH,
PHÓNG SỰ VỀ MÔI TRƯỜNG PHỤC VỤ CÔNG TÁC
GIẢNG DẠY VÀ TRUYỀN THÔNG MÔI TRƯỜNG
S

K

C

0

0

3

9

5

9

MÃ SỐ: T2011- 93

S KC 0 0 3 3 4 5



Tp. Hồ Chí Minh, 2011


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA CN HÓA HỌC & THỰC PHẨM
--- * ---

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƢỜNG

“Nghiên cứu và xây dựng thư viê ̣n phim ảnh,
phóng sự về môi trường phục vụ công tác giảng dạy
và truyền thông môi trường”
Mã số: T2011-93

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Tịnh Ấu

Tp. Hồ Chí Minh, 12/2011
-1-


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--- * ---

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƢỜNG

“Nghiên cứu và xây dựng thư viê ̣n phim ảnh,
phóng sự về môi trường phục vụ công tác giảng dạy
và truyền thông môi trường”
Mã số: T2011-93

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Tịnh Ấu

TP. HCM, 12/2011
-2-


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
Lý do chọn đề tài

1


Mục đích nghiện cứu

2

Nội dung nghiên cứu

2

Phương pháp nghiên cứu

2

Chƣơng 1. Cơ sở lý thuyết của đề tài

4

I. Môi trường và các vấn đề về môi trường

4

II. Giáo dục môi trường

5

III. Truyền thông môi trường

13

Chƣơng 2. Nội dung của đề tài


22

I. Hình ảnh

23

II. Clip

43

III. Phim về môi trường

44

Chƣơng 3. Ứng dụng thƣ viện phim ảnh về môi trƣờng trong giáo dục và
truyền thông
I. Hướng dẫn sử dụng thư viện

45

II. Một số phần mềm ứng dụng

45

Kết luận và kiến nghị

55

Tài liệu tham khảo


56

-3-


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GDMT : Giáo dục môi trường
IEEP : Chương trình giáo dục môi trường quốc tế
LHQ : Liên Hiệp Quốc
TTMT : Truyền thông môi trường
UNEP : Tổ chức môi trường Liên Hiệp Quốc
UNESCO : Tổ chức văn hóa khoa học và giáo dục cũa Liên Hiệp Quốc

-4-


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Khoa CN Hóa học & Thực phẩm

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Tp. HCM, ngày 25 tháng 11 năm 2011
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: Nghiên cứu và xây dựng thư viê ̣n phim ảnh, phóng sự về môi
trường phục vụ công tác giảng dạy và truyền thông môi trường
- Mã số: T2011-93
- Chủ nhiệm: Nguyễn Thị Tịnh Ấu
- Cơ quan chủ trì: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
- Thời gian thực hiện: 1/2011-12/2011
2. Mục tiêu:
Xây dựng bộ tư liệu phim, hình ảnh, clip, phóng sự về môi trường
3. Tính mới và sáng tạo:
Ứng dụng
4. Kết quả nghiên cứu:
Thư viện phim ảnh và phóng sự về môi trường phục vụ công tác giảng dạy
và truyền thông môi trường
5. Sản phẩm:
Đĩa CD tổng hợp các tài liệu về phim ảnh và phóng sự về môi trường
6. Hiệu quả, phƣơng thức chuyển giao kết quả nghiên cứu và khả năng áp
dụng:
- Nâng cao hiệu quả giảng dạy
- Nâng cao công tác truyền thông môi trường trong Sinh viên

Trƣởng Đơn vị
(ký, họ và tên, đóng dấu)

Chủ nhiệm đề tài
(ký, họ và tên)

-5-



Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội năng động, con người được
tiếp cận với tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Khoa học công nghệ cũng vì nhu cầu
vô hạn của con người mà ngày càng phát triển nhanh chóng. Cuộc sống con người
nhờ đó mà trở nên văn minh hơn, hiện đại hơn, tiệnnghi hơn . Tuy nhiên, bên cạnh
sự tiến bộ ấy, chúng ta phải đối diện với những vấn đề lớn có tầm ảnh hưởng vô
hạn đến cuộc sống con người: vấn đề tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, vấn đề rác
thải công nghiệp, vấn đề khí hậu toàn cầu…… Với tất cả những yếu tố đó, thiết
nghĩ, việc đưa giáo dục môi trường vào học đường và truyền thông về môi trường
trong cộng đồng là việc làm tối cần thiết. Phải dạy cho những lớp người trẻ trung,
năng động, là lực lượng đông đảo trong xã hội Việt Nam kiến thức về môi trường,
từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi trường cho mọi người trong xã hội nói chung.
Chúng ta đang sống trong một đất nước có nền kinh tế đang phát triển và
ngày càng phát triển nhanh chóng. Bên cạnh việc giáo dục đang từng bước thay
đổi để ngày càng hiện đại hơn, phù hợp hơn và đáp ứng được nhu cầu của xã hội
đề ra về vấn đề đào tạo con người, đào tạo nguồn nhân lực, thì vấn đề truyền thông
về môi trường để nâng cao sự hiểu biết của cộng đồng cũng như ý thức về môi
trường và bảo vệ môi trường cũng đã và đang ngày càng trở nên bức thiết hơn
trong xã hội.
Vấn đề môi trường và những ảnh hưởng của môi trường đến cuộc sống loài
người hiện đang là mối quan tâm lớn nhất của nhân loại. Đây là vấn đề đa dạng,
ngày càng trầm trọng và rất khó giải quyết, một phần cũng do ý thức của con
người chưa cao và hiểu biết của đa số người dân về vấn đề này còn hạn hẹp.

Hiện nay, tư liệu về môi trường như các hình ảnh, phóng sự, video clip mô
phỏng các qui trình công nghệ, các chu trình trong sinh quyển…dành cho giảng

-6-


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

dạy vẫn còn thiếu và chưa được thống kê đồng bộ. Bên cạnh đó, vấn đề giáo dục
và truyền thông môi trường trong trường ĐHSPKT nói riêng vẫn chưa hiệu quả.
Vì thế việc xây dựng đề tài “Nghiên cứu và xây dựng thư viê ̣n phim ảnh, phóng
sự về môi trường phục vụ công tác giảng dạy và truyền thông môi trường ” là rất
cần thiết để việc giảng dạy cũng như truyền thông được hiệu quả hơn

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là xây dựng thư viện các phim, hình
ảnh, clip, phóng sự về môi trường để phục vụ công tác giảng dạy và truyền thông
về môi trường

3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục và truyền thông môi trường.
- Nghiên cứu kiến thức cơ bản về môi trường và ô nhiễm môi trường
- Xây dựng thư viện phim ảnh về môi trường.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
a) Phương pháp thực hiện đề tài:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Đọc tài liệu, phân tích, khái quát và tổng hợp kiến thức liên quan đến giáo
dục về truyền thông môi trường. Chọn lọc các kiến thức về giáo dục về truyền

thông môi trường làm cơ sở cho việc thực hiện đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Khảo sát điều tra thực tiễn về vấn đề giáo dục môi trường trong các bậc học
và truyền thông môi trường trong cộng đồng. Khái quát tình trạng vệ sinh môi
trường và đa dạng sinh học tại địa bàn thành phố Hồ chí Minh
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin

-7-


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Điều tra, thu thập các số liệu, tài liệu và thông tin liên quan đến giáo dục và
truyền thông môi trường. Phân thích và xử lý số liệu, hình ảnh, các video clip và
phim phóng sự, phim tài liệu về môi trường.
- Phương pháp kỹ thuật
Thiết kế, xây dựng kịch bản và trình diễn một số chương trình truyền thông
môi trường nhằm mục đích nâng cao ý thức cho cộng đồng trong vấn đề bảo vệ
môi trường với các phần mềm tin học hỗ trợ
b) Phương tiện thực hiện đề tài:
Để thực hiện đề tài, các phương tiện được dung bao gồm máy tính, máy
chụp hình, máy quay phim và một số thiết bị khác như micro, băng đĩa, phần
mềm…để ghi lại những thước phim phóng sự, những hình ảnh về giáo dục và
truyền thông môi trường.

-8-


Nghiên cứu khoa học

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

I. Môi trƣờng và các vấn đề môi trƣờng
I.1. Khái niệm môi trƣờng.
a. Môi trường là gì?
Tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường ngày 29 tháng 11 năm 2005
quy định: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao
quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của
con người và sinh vật”.
b. Cấu trúc của môi trường tự nhiên:
Môi trường tự nhiên có 2 thành phần cơ bản: môi trường vật lý và môi
trường trường sinh vật.
- Môi trường vật lý là thành phần vô sinh của môi trường tự nhiên, bao gồm đất,
nước, không khí, nhiệt độ, nguyên tố hoá học…
- Môi trường sinh vật là thành phần hữu sinh của môi trường tự nhiên, bao gồm
động vật, thực vật, vi sinh vật, vi khuẩn…
c. Những chức năng cơ bản của môi trường:
Môi trường có các chức năng cơ bản sau:
- Là không gian sống của con người và các loài sinh vật;
- Là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của
con người;
- Là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt
động sản xuất của mình;
- Là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật
trên trái đất;
- Là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.

-9-



Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

d. Thành phần môi trường:
Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất,
nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật
chất khác.
I.2. Khái niệm ô nhiễm môi trƣờng
Theo Tổ chức Y tế thế giới: “Ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển
các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến
sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi
trường”.
Theo khoản 6 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005: “Ô nhiễm môi
trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn
môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật”.

II. Giáo dục môi trƣờng
II.1. Giáo dục môi trƣờng là gì?
a) Định nghĩa giáo dục môi trường (GDMT)
Tại Hội nghị quốc tế về GDMT trong Chương trình đào tạo của trường học
do IUCN/UNESCO tổ chức tại Nevada (Mỹ) năm 1970 đã thông qua định nghĩa
về GDMT như sau:
“GDMT là quá trình nhận ra các giá trị và làm rõ khái niệm để xây dựng
những kỹ năng và thái độ cần thiết, giúp hiểu biết và đánh giá đúng mối tương
quan giữa con người với nền văn hóa và môi trường vật lý xung quanh. GDMT
cũng tạo cơ hội cho việc thực hành để ra quyết định và tự hình thành quy tắc ứng
xử trước những vấn đề liên quan đến chất lượng môi trường” (IUCN, 1970).
Định nghĩa này cho thấy GDMT đã được xem xét ở góc độ mang tính hợp

lý và gắn kết với phát triển. Vào thời điểm định nghĩa này được phát biểu, người ta
thường chỉ xem xét môi trường và các vấn đề về môi ttrường ở khía cạnh lý sinh.
Thuật ngữ “GDMT” cũng đã được sử dụng trong Hội nghị toàn cầu lần thứ nhất
về Môi trường nhân văn tại Stokholm năm 1972, nhưng chỉ đến Hội nghị ở
- 10 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Belgrade, GDMT mới được định nghĩa trên quy mô toàn cầu. Kể từ đó, cộng đồng
quốc tế thừa nhận định nghĩa về GDMT là “quá trình nhằm phát triển một cộng
đồng dân cư có nhận thức rõ ràng và quan tâm đến môi trường cũng như các vấn
đề liên quan, có kiến thức, kỹ năng, động cơ và sẵn sàng làm việc độc lập hoặc
phối hợp nhằm tìm ra giải pháp cho những vấn đề hiện tại và phòng chống các vấn
đề có thể nảy sinh trong tương lai”.
Từ đó đến nay, ý nghĩa và khái niệm GDMT đã có nhiều thay đổi. Ban đầu,
nội dung của GDMT rất hạn chế, chỉ tập trung vào dạy và học các vấn đề môi
trường địa phương, kể cả môi trường tự nhiên và nhân tạo. Nội dung giáo dục
cũng chỉ tập trung vào những mặt sinh học và địa lý khi nghiên cứu môi trường.
Hội nghị Liên chính phủ lần thứ nhất về GDMT tại Tbilisi (Liên Xô cũ) năm 1977
đã kêu gọi đại biểu đưa ra một cách tiếp cận mới mang tính toàn diện và liên
ngành hơn. Tại hội nghị này, cộng đồng quốc tế đã khẳng định và nhất trí với định
nghĩa về GDMT ở trên, đồng thời nhất trí về các mục tiêu của GDMT như hiện
nay.
Những khuynh hướng mới trong GDMT thừa nhận rằng các hành vi môi
trường không chỉ bị ảnh hưởng bởi kiến thức mà còn bị chi phối bởi cách nhìn
nhận về giá trị môi trường, phương án lựa chọn, kỹ năng và những nhân tố thúc
đẩy khác. GDMT hiện đại, như định nghĩa của Hiệp hội GDMT Bắc Mỹ năm 1993
là “một quá trình giúp người học tiếp thu kiến thức, kỹ năng và những kinh

nghiệm môi trường tích cực để có thể phân tích vấn đề, đánh giá lợi ích và rủi ro,
đưa ra những quyết định được thông tin đầy đủ, và thực hiện những hành động có
trách nhiệm nhằm đạt được và duy trì chất lượng môi trường”.
Khi cách nhìn nhận về môi trường thay đổi, kỳ vọng về thành tựu của giáo
dục cũng thay đổi. Nhiều câu hỏi cũng đã được đặt ra đối với giáo dục như:
* Trường học phải làm gì để chuẩn bị cho những người trẻ tuổi, giúp họ được
thông tin đầy đủ và có thể tham gia một cách hiệu quả vào cộng đồng xã hội trên
toàn thế giới?

- 11 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

* Làm thế nào để giáo viên có thể giúp đỡ tốt nhất cho việc xây dựng sự hiểu biết
chung trên quy mô toàn cầu cho những người sẽ trưởng thành vào thế kỷ XXI, một
viễn cảnh lý thú nhưng cũng nhiều thách thức?
* Học sinh cần có những kỹ năng, khả năng và hiểu biết sâu sắc gì để có thể hiểu
được ý nghĩa của những thay đổi nhanh chóng ở bản thân, đương đầu và xử lý với
tốc độ thay đổi ngày càng tăng đó?
* Làm thế nào đưa những cách nhìn nhận chung trên toàn cầu vào chương trình
học trong nhà trường?
* Lớp học cần như thế nào xét về phương pháp dạy và học, không khí dạy/học và
các mối quan hệ trong lớp học?
* Làm thế nào để giúp những người trưởng thành thay đổi hành vi, thái độ và chấp
nhận những lối sống bền vững hơn?
* Có thể làm gì ở tất cả các cấp để giải quyết khủng hoảng môi trường?
Trong quá trình tìm kếm câu trả lời cho các câu hỏi này, nhiều khái niệm
mới liên quan đến giáo dục đã được phát triển như: GDMT, giáo dục phát triển,

giáo dục nhân cách, giáo dục nhân quyền, giáo dục hòa bình và giáo dục để phát
triển bền vững. Trừ khái niệm GDMT và giáo dục để phát triển bền vững, những
khái niệm “giáo dục” khác có rất ít điểm chung và chỉ tập trung vào một lĩnh vực
hẹp, cụ thể. Những người làm GDMT nhận thấy khi trọng tâm giáo dục được mở
rộng, các khái niệm cơ bản như phát triển, môi trường, nhân quyền, hòa bình sẽ bổ
sung cho nhau.
Ý tưởng về mở rộng trọng tâm của từng lĩnh vực ngày càng được quan tâm
hơn. Điều này thể hiện bằng việc chuyển hướng từ một quan điểm có tính chia
tách thực tế thành một quan điểm chấp nhận gắn kết tất cả những lĩnh vực này lại
với nhau. Như vậy, ý nghĩa và trọng tâm của GDMT đã được mở rộng rất nhiều
khi mục tiêu chính của GDMT là hướng tới phát triển bền vững.
Với quan điểm và cách nhìn như vậy, một định nghĩa tương đối mới về
GDMT được đưa ra là: “GDMT là một quá trình phát triển những tình huống dạy /
học hiệu quả giúp người dạy và người học tham gia giải quyết những vấn đề môi
- 12 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trường liên quan, đồng thời tìm ra một lối sống có trách nhiệm và được thông tin
đầy đủ” (Jonathon Wigley, 2000).
Điều quan trọng là tất cả những định nghĩa khác nhau này đều có một số
điểm cơ bản chung sau:
* GDMT là một quá trình diễn ra trong một khoảng thời gian ở nhiều địa điểm
khác nhau, thông qua những kinh nghiệm khác nhau và bằng những phương thức
khác nhau.
* GDMT nhằm thay đổi hành vi.
* Môi trường học tập là chính môi trường và các vấn đề có trong thực tế.
* GDMT liên quan đến việc giải quyết vấn đề và ra quyết định về cách sống.

* Trong GDMT, việc học phải tập trung vào người học và lấy hành động làm cơ
sở.
b) Mục đích của GDMT.
Mục đích chính của GDMT được xác trong Hội nghị Tbilisi (1977) là:
* Tăng cường nhận thức và sự quan tâm đến các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau
giữa các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị và sinh thái ở thành thị cũng như nông
thôn.
* Tạo cơ hội cho mọi người tiếp thu những kiến thức, quan điểm về giá trị, thái độ,
ý thức và kỹ năng cần thiết để bảo vệ và cải thiện môi trường.
* Tạo ra các mô hình về hành vi thân thiện với môi trường cho từng cá nhân, cộng
đồng và toàn xã hội.
* Khuyến khích, củng cố và phát huy những thái độ và hành vi tích cực đối với
môi trường hiện có.
II.2. Mục tiêu của giáo dục môi trường
Mục tiêu của GDMT bao gồm:
* Kiến thức: GDMT cung cấp cho các cá nhân và cộng đồng những kiến thức, sự
hiểu biết cơ bản về môi trường và mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa con người
và môi trường.

- 13 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

* Nhận thức: GDMT thúc đẩy các cá nhân, cộng đồng tạo dựng nhận thức và sự
nhạy cảm đối với môi trường cũng như các vấn đề môi trường
* Thái độ: GDMT khuyến khích các cá nhân, cộng đồng tôn trọng và quan tâm tới
tầm quan trọng của môi trường, khuyến khích họ tham gia tích cực vào việc cải
thiện và bảo vệ môi trường.

* Kỹ năng: GDMT cung cấp các kỹ năng cho việc xác định, dự đoán, ngăn ngừa
và giải quyết các vấn đề môi trường.
* Sự tham gia: GDMT cung cấp cho các cá nhân và cộng đồng cơ hội tham gia
tích cực vào giải quyết các vấn đề môi trường cũng như đưa ra các quyết định môi
trường đúng đắn.
II.3. Những vấn đề mà giáo dục môi trường nhằm phát triển ở người học:
a) Về kiến thức và hiểu biết
Các hoạt động giáo dục môi trường sẽ được thiết kế và thực hiện nhằm giúp
người học làm quen với các khái niệm : bảo vệ và bảo tồn, giảm tiêu thụ, tái sử
dụng và tái chế; các chu trình khép kín, cái cần có và cái muốn có; sự phụ thuộc
lẫn nhau; chi phí và lợi ích thu được; tăng trưởng và suy thoái; kiểm toán về tác
động và sử dụng các nguồn cung cấp; hình thành và duy trì quan hệ đối tác, các
kiểu liên kết, nguyên nhân-hậu quả, chuỗi-mạng, tư duy một cách toàn cầu và
hành động một cách cục bộ.
Trong thực tiễn sư phạm, mỗi ngôi trường cụ thể thuộc về một vùng địa lý
cụ thể, nằm trong một bối cảnh văn hóa cụ thể, sẽ có một nhu cầu GDMT tương
ứng. Điều này quyết định đến việc lựa chọn những nội dung và phương thức thực
hiện phù hợp. Việc xác định và lựa chọn đúng các vấn đề môi trường có liên quan
trực tiếp đến người học sẽ giúp người học tham gia một cách tự nhiên và quá trình
giải quyết vấn đề bằng một thái độ tự nguyện và bằng những hành động có trách
nhiệm.
b) Về thái độ và hành vi
Các hoạt động GDMT sẽ được thiết kế và thực hiện nhằm giúp người học
hiểu biết các giá trị của môi trường và vai trò cá nhân của mình trong việc giữ gìn
- 14 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------


môi trường cho hôm nay và ngày mai. Điều này khích lệ một thái độ và hành vi
tích cực đối với mội trường, có thể nhìn thấy qua các biểu hiện dưới đây/;
- Biết đánh giá, quan tâm và lo lắng về môi trường và đời sống của các sinh vật.
- Sự độc lập trong suy nghĩ trước các vấn đề môi trường
- Tôn trọng niềm tin và quan điểm của người khác
- Khoan dung và cởi mở
- Biết tôn trọng các luận chứng và luận cứ đúng đắn
- Có ý thức phê phán và thay đổi những thái độ không đúng đắn về môi trường
- Có mong muốn tham gia vào việc giải quyết các vấn đề môi trường, các hoạt
động cải thiện môi trường và truyền bá các ý tưởng tốt đẹp vào cộng đồng.
II.4. Sự phát triển của giáo dục môi trƣờng trên thế giới và ở nƣớc ta
a) Sự phát triển của giáo dục môi trường trên thế giới
Môi trường là một vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của mọi người
trên thế giới. Trong mấy chục năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế ồ ạt dưới tác
động của cách mạng khoa học kỹ thuật và sự gia tăng dân số quá nhanh đã làm
cho môi trường bị biến đổi chưa từng thấy. Nhiều nguồn tự nhiên bị vắt kiệt, nhiều
hệ sinh thái bị tàn phá mạnh, nhiều cân bằng trong tự nhiên bị rối loạn. Môi trường
lâm vào khủng hoảng với qui mô toàn cầu, trở thành nguy cơ thực sự đối với cuộc
sống hiện đại và sự tồn vong của xã hội torng tương lai.
Để bảo vệ cái nôi sinh thành của mình, con người phải thực hiện hàng loạt
các vấn đề phức tạp trong đó có vấn đề GDMT. GDMT là một trong những biện
pháp có hiệu quả nhất, giúp cho con người có nhận thức đúng trong việc khai thác,
sử dụng và bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Lần đầu tiên trong lịch sử, vào năm 1948, tại cuộc họp Liên hiệp quốc
(LHP) về bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên ở Paris, thuật ngữ “giáo dục
môi trường” được sử dụng. Tiếp sau đó ngày 5/6/1972, tại hội nghị Liên hiệp quốc
họp ở Stockholm (Thụy Điển) đã nhất trí nhận định: việc bảo vệ thiên nhiên và
môi trường là hai nhiệm vụ hàng đầu của toàn nhân loại (cùng với nhiệm vụ bảo
vệ hòa bình và chống chiến tranh)
- 15 -



Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Cũng vì thế ngày 5/6 hàng năm trở thành Ngày môi trường thế giới
Hội nghị tuyên bố: GDMT là rất cần thiết để làm cơ sở cho nhận thức và
hành vi có trách nhiệm của cá nhân và tổ chức trong việc bảo vệ và cải thiện môi
trường. Điều 96 của hội nghị yêu cầu sự phát triển của GDMT như là một yếu tố
quyết định nhất để tấn công vào cuộc khủng hoảng môi trường trên toàn cầu.
Sau hội nghị họp tại Stockholm, ở nhiều nước, GDMT đã được đưa vào các
trường học. Đến năm 1973, người ta thấy có khoảng 1000 chương trình được
giảng dạy tại 750 trường và viện thuộc 70 nước khác nhau. Tuy nhiên, mục đích
và nội dung của GDMT lúc đó chưa được xác định rõ ràng, phải đợi đến các hội
nghị quốc tế sau, vấn đề này mới được giải quyết và hoàn thiện.
Tháng 10 năm 1975, tại hội nghị quốc tế và GDMT họp tại Bengrat (Nam
Tư), lần đầu tiên UNESCO (Tổ chức văn hóa khoa học và giáo dục của LHQ) đã
khởi thảo một chương trình GDMT quốc tế (IEEP). Tiếp sau đó, nhiều hội thảo
khu vực về GDMT được tổ chức. Hội thảo của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương
được tổ chức vào tháng 10 năm 1976 tại Bangkok (Thái Lan). Hội thảo đã đưa ra
15 kiến nghị thuộc bốn vấn đề: chương trình GDMT, đào tạo bồi dưỡng giáo viên,
GDMT phi chính qui và vấn đề soạn thảo các tài liệu, xây dựng các phương tiện
phục vụ GDMT.
Đầu tháng 8 năm 1987, UNESCO và UNEP(Chương trình môi trường
LHQ) lại phối hợp tổ chức hội nghị quốc tế về GDMT tại Maxcova, có đại diện
của 100 nước và nhiều tổ chức quốc tế tham dự về chương trình hành động GDMT
cho thập kỷ 90. Hội nghị quyết định đặt tên cho thập kỷ 90 là Thập kỷ toàn thế
giới cho GDMT
Với tinh thần trên, tháng 10 năm 1990 tại Paris, UNESCO và UNEP tổ
chức ở hội nghị quốc tế với sự tham gia của nhiều tổ chức quốc tế thuộc LHQ. Hội

nghị nhằm mục đích trao đổi về sự tăng cường trách nhiệm của từng tổ chức trong
lĩnh vực GDMT. Tại hội nghị, một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ GDMT cho tất cả
mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ và tầm quan trọng của việc bồi dưỡng kiến thức
về môi trường cho giáo viên các cấp.
- 16 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Hội nghị thượng đỉnh (UNCED) diễn ra năm 1992 tại Rio de Janero trong
hai ngày có 120 vị đứng đầu nhà nước, chính phủ cùng các đoàn đại biểu của hơn
170 nước tham dự. Song song với hội nghị còn có các diễn đàn toàn cầu lôi cuốn
đại diện của hàng trăm nhóm có quan tâm đặc biệt, các tổ chức phi chính phủ vào
các kỳ diễn thuyết, trình bày, thảo luận và hội thảo trên một phạm vi rộng các đề
tài về vấn đề môi trường.
b) Tình hình giáo dục môi trường ở Việt Nam
Ở Việt Nam, từ năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào
Tết trồng cây để giữ gìn và làm đẹp môi trường sống. Cho đến nay phong trào này
vẫn còn được duy trì và phát huy mạnh mẽ
Năm 1991, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chương trình trồng cây phát triển
giáo dục-đào tạo và bảo vệ môi trường (1991-1995)
Trong Kế hoạch hành động quốc gia về môi trường và phát triển bền vững
của Việt Nam giai đoạn 1996-2000, GDMT được ghi nhận như một bộ phận cấu
thành.
Từ năm 1995, dự án Giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông Việt
Nam (VIE 95/041) của Bộ Giáo dục và Đào tạo do UNDP tài trợ đã nhằm vào các
mục tiêu cơ bản:
Hỗ trợ xây dựng một bản chính sách về chiến lược thực hiện quốc gia về
GDMT tại Việt Nam

Tăng cường năng lực của Bộ GD&ĐT trong việc truyền đạt những nội
dung và phương pháp GDMT vào các chương trình đào tạo giáo viên.
Xây dựng các hoạt động GDMT cụ thể để thực hiện ở cấp tiểu học và trung
học
Các mục tiêu trên được thực hiện ở mức chi tiết và cụ thể trong thực tiễn
thông qua dự án VIE98/018
Ở các trường đại học, GDMT được coi như một nội dung quan trọng trong
các giáo trình: Con người và môi trường, Dân số, tài nguyên môi trường ở các
khoa của tất cả các trường đại học đã có các môn học về môi trường.
- 17 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

III. Truyền thông môi trƣờng
Cho dù không nhắc đến cụm từ “Truyền thông môi trường”, song nội dung
của giải pháp cho thấy công tác truyền thông môi trường đã được ưu tiên như một
trong những hành động cần phải thực hiện để bảo vệ môi trường trong thời gian
tới.
Nói cách khác, bảo vệ môi trường là trách nhiện của mọi công dân, của
toàn xã hội. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để mọi người có thể hiểu được
trách nhiệm của mình để cùng tham gia vào sự nghiệp chung - Bảo vệ môi trường.
Đó là một trong những vấn đề đầy thách thức đối với những người làm
công tác quản lý môi trường, các nhà giáo dục và nâng cao nhận thức về bảo vệ
môi trường, đặc biệt đối với những ai có tâm huyết với công tác truyền thông môi
trường, trong bối cảnh quốc gia đang đối mặt với nhiều vấn đề nan giải – Tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường – Tăng dân số nhanh với xoá đói giảm
nghèo.
Khái niệm “Truyền thông” mới được du nhập vào nước ta trong vài ba thập

kỷ qua, thông qua các chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, kế hoạch hoá
gia đình và các vấn đề về giới. Chúng ta phải thừa nhận công tác truyền thông về
dân số và kế hoạch hoá gia đình đã được thực hiện một cách hiệu quả và đầy ấn
tượng. Trong vài năm gần đây, khái niệm truyền thông môi trường đã được phổ
cập trong quá trình tuyên truyền vận động phong trào bảo vệ môi trường ở nước ta
và thông qua các “kênh dự án hợp tác quốc tế về môi trường”. Muốn làm tốt công
tác truyền thông môi trường đòi hỏi phải có các nguồn lực: con người, năng lực,
chính sách, thể chế và tài chính. Trong đó, nhân tố quyết định là cán bộ làm công
tác truyền thông môi trường và cơ sở vật chất kỹ thuật.
Điều 6 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã đặt “Tuyên truyền, giáo dục
và vận động mọi người tham gia bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh môi trường,
bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học” là một ưu tiên quốc gia trong
công tác quản lý môi trường và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
III.1. Khái niệm về truyền thông
Truyền thông là quá trình trong đó người gửi, truyền các thông điệp tới người
nhận hoặc trực tiếp hoặc thông qua các kênh, nhằm mục đích thay đổi nhận thức,
kiến thức, thái độ, kỹ năng thực hành của người nhận thông điệp.
- 18 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

 Truyền thông có thể phổ biến các tri thức, trình bày các giá trị, các chuẩn
mực xã hội. Các tri thức bao gồm kiến thức, nhận thức và ý thức trách nhiệm
về bất cứ hành vi nào vì lợi ích tốt đẹp, vì mục tiêu chính đáng của phát triển
bền vững.
 Mô hình truyền thông đơn giản

NNgười gửi

wiýời

gửi

Người nhận

Ý tưởng
Suy nghĩ
Tình cảm
Mã hoá
nh
tải thông điệp
cảmChuyển iải

Chấp nhận thông điệp
Giải mã

iải

* Khái niệm về truyền thông môi trường
Khái niệm truyền thông môi trường được sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn
cầu từ năm 1972. Trong báo cáo về Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường Con
người – Stockholm, 5-16 tháng 6 năm 1972, Chương trình Hành động về Giáo
dục, Đào tạo và thông tin Cộng đồng, lúc đó được xác định là một trong các biện
pháp hỗ trợ cho các ưu tiên chính của công tác bảo vệ môi trường toàn cầu – đánh
giá và quản lý môi trường.
Truyền thông môi trường “sinh sau đẻ muộn” hơn so với truyền thông dân số
- kế hoạch hoá gia đình. Tuy vậy truyền thông môi trường lại được thụ hưởng rất
nhiều kinh nghiệm rút ra từ các quá trình truyền thông khác, nhất là những đột phá
của nền khoa học kỹ thuật thê giới, trong đó có công nghệ thông tin trong những

thập kỷ gần đây.
Cho đến nay, mặc dù “truyền thông môi trường” chưa được một tổ chức
quốc tế nào định nghĩa hoặc chưa có một định nghĩa nào được chấp nhậ trên quy

- 19 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

mô toàn cầu, song định nghĩa dưới đây có thể rút ra từ thực tiễn của các quá trình
truyền thông khác để chúng ta có thể tham khảo:
+ Truyền thông môi trường là một quá trình tương tác hai chiều, giúp cho
mọi đối tượng tham gia vào quá trình đó cùng tạo ra, cùng chia sẻ với nhau các
thông tin môi trường, với mục đích đạt được sự hiểu biết chung về các vấn đề môi
trường có liên quan, từ đó có khả năng chia sẻ trách nhiệm bảo vệ môi trường.
+ Từ mối quan hệ tương tác K-T-H đã nêu ở mục nội dung truyền thông
phần 2, hệ quả của truyền thông môi trường dẫn tới hành động bảo vệ môi trường .
Hiểu biết chung sẽ tạo ra được nền móng của sự nhất trí chung và từ đó có
thể đưa ra các hành động bảo vệ môi trường. Mô hình truyền thông ngày nay đã
thể hiện các tính chất hợp lý, trong đó trọng tâm đã được dịch chuyển từ quá trình
thông tin đơn thuần theo thời gian, bổ sung các phương tiện truyền thông mới,
những người tham gia sẽ tự diễn giải, động não và tự tìm hiểu các thông tin, cũng
như chuyển sang một quá trình năng động phản hồi thông tin và thay đổi hành vi
để thích ứng. Quá trình này đã hội tụ đủ cả các ý tưởng của mọi người tham gia
lẫn hành vi của họ. Quá trình này đã làm mất đi các ranh giới giữa người cung cấp
tin với người nhận tin, bởi lẽ mọi người tham gia đều có cơ hội vừa là cung cấp tin
vừa là người nhận tin, thực hiện hành động bảo vệ môi trường. Cộng đồng tham
gia tích cực vào chương trình hành động bảo vệ môi trường trên cơ sở cảm nhận
và ý thức được thông tin qua các phương thức truyền thông, với khuynh hướng

chủ động chia se hành vi trách nhiệm, không dừng lại tiếp thu thụ động các thông
tin.
Bất cứ một chương trình bảo vệ môi trường nào mà có ý đồ “bỏ qua” hay
“rút ngắn” quá trình truyền thông môi trường, bằng cách đưa ra những thông điệp
rồi “hô hào” mọi người tham gia, cũng chỉ tạo ra các ảnh hưởng rất hạn chế, thậm
chí gây ra các tác động tiêu cực đối với các đối tượng truyền thông.
Các đối tượng truyền thông môi trường có những cách tư duy khác nhau, có
vốn từ vựng khác nhau, thậm chí có những cách diễn giải khác nhau về một bức
tranh áp phích hay một cuốn phim được đưa ra áp đặt cho các chương trình truyền
thông môi trường. Vì vậy, những ai - sẽ là các cán bộ truyền thông môi trường
tương lai - phải hết sức chú ý đến các thái độ, các khuynh hướng và thậm chí cả
các quá trình suy tư của các nhóm đối tượng truyền thông cụ thể, nhằm thiết kế

- 20 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

các chương trình truyền thông sao cho giải quyết được các vấn đề đặc biệt quan
tâm.
Nội dung của các chương trình truyền thông phải: (1) dựa vào các thông tin
của bản thân các thành viên trong nhóm đối tượng truyền thông; (2) được tiền trắc
nghiệm với chính các đối tượng truyền thông để đảm bảo chương trình truyền
thông môi trường được thiết kế chuẩn mực.
* Tại sao lại cần truyền thông môi trường
Các dự án/ chương trình môi trường thường đem lại kết quả hạn chế, vì
những sự đổi mới và giải pháp của dự án hay chương trình đưa ra không được
những người có liên quan hiểu rõ và cùng tham gia.
Những người thực hiện các dự án hay chương trình môi trường thường nghĩ

rằng các sự kiện khoa học và sự quan tâm đến môi trường của họ có sức thuyết phục, tuy
nhiên, người dân thường nhận thức vấn đề thông qua xúc cảm và giao tiếp xã hội hơn là
bằng lý lẽ và kiến thức.
Những xung đột, mâu thuẫn về lợi ích giữa những người trong cuộc không
được điều đình, hoà giải với nhau. Cách tiếp cận đối đầu nhau đã dẫn đến thông tin
một chiều, không quan tâm đến sự hiểu biết và hoàn toàn không dựa vào cách
truyền thông hai chiều là hình thức truyền thông hướng về “cùng chia sẻ” và về các
tình huống “đôi bến cùng có lợi”.
Nhiều cấp ra quyết định không biết cách làm thế nào để lồng ghép một chiến
lược truyền thông vào các dự án về môi trường.
III.2. Mục tiêu của truyền thông môi trƣờng
Thông tin cho người bị tác động về các vấn đề môi trường để họ biết tình
trạng của họ, từ đó làm họ quan tâm đến việc tìm kiếm các giải pháp khắc phục.
Huy động các kinh nghiệm, kỹ năng, bí quyết địa phương tham gia vào các
chương trình, kế hoạch bảo vệ môi trường.
Thương lượng, hoà giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp về môi trường
giữa các cơ quan trong nhân dân.
Tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia vào việc bảo vệ môi
trường- xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường.

- 21 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Khả năng thay đổi các hành vi sẽ được hữu hiệu hơn thông qua đối thoại
thường xuyên trong xã hội.
III.3. Nguyên tắc của truyền thông môi trƣờng
Truyền thông môi trường cần phải:

Là mắt xích để gắn kết các vấn đề môi trường với quá trình hoạch định chính
sách và sự tham gia của người dân.
Quan tâm tới lợi ích của đối tượng truyền thông /cộng đồng.
Cách thức truyền thông cần phù hợp với đối tượng truyền thông, có nghĩa là
cần phải đơn giản, cụ thể và phù hợp về văn hoá - xã hội.
Truyền thông có định hướng tới các vấn đề cần được giải quyết, hay các nhu
cầu của cộng đồng.
Tính tới chi phí - hiệu quả và có tính sáng tạo bằng cách sử dụng các cơ sở
vật chất, nguồn nhân lực, phương tiện truyền thông sẵn có ở địa phương, hơn là dựa
vào các sản phẩm truyền thông đắt tiền.
Trao quyền cho cộng đồng.
Có sự hợp tác giữa những người có trình độ khác nhau, chức năng khác nhau
(giữa các cấp chính quyền, các tổ chức cộng đồng, khu vực tư nhân, các cơ quan
nghiên cứu…).
Kết hợp các kênh, phương tiện, sản phẩm truyền thông khác nhau.
Thử nghiệm trước sản phẩm truyền thông.
Có sự hoà hợp giữa người truyền thông và cộng đồng
Nhấn mạnh vào tính bền vững.
III.4. Về nội dung của truyền thông
- Tập trung vào một chủ đề cụ thể nào đó (ví dụ: những ảnh hưởng tới môi
trường do việc khai thác dầu khí ở vùng biển Đông Nam Việt Nam).
- Có những chương trình truyền thông đưa ra nhiều chủ đề, nhiều nội dung
nhưng đều gây tác động như nhau hoặc đều gây ra hiệu quả xấu cho một khu vực.

- 22 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------


- Nội dung chủ đề trong các trương trình truyền thông phải cụ thể, rõ ràng,
ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ dưới hình thức là các Thông điệp truyền thông.
- Các thông điệp phải sát hợp đối với đối tượng để giúp thay đổi nhận thức,
quyết định thái độ và hành vi theo mục tiêu đã đặt ra.
- Đối tượng (người nhận) là ai?
- Cần nhận thức điều gì, cần thay đổi cái gì? (rủi ro về khai thác dầu khí,
những rủi ro do do nhiễm bẩn của sông Đồng Nai, rủi ro vùng hạ lưu của đập thuỷ
điện Hoà Bình, rủi ro của hệ sinh thái Hồ Gươm do ô nhiễm lòng hồ và nước hồ...)
- Các thông điệp cụ thể.
- Mức độ cần đạt (100% biến đổi nhận thức, có thái độ và hành vi về bảo
vệ môi trường trường ...) theo mối quan hệ K-T-H (Kiến thức: K; Thái độ: T;
Hành vi: H).
- Xác định các kênh truyền thông điệp.
III.5. Một số hình thức truyền thông môi trƣờng
a) Giao tiếp giữa các cá nhân và nhóm nhỏ
Giao tiếp trao đổi thông tin giữa các cá nhân và nhóm nhỏ cho phép các cuộc
đối thoại sâu, cởi mở và có phản hồi. Phương pháp này tỏ ra thích hợp với việc tìm
kiếm các giải pháp phù hợp với địa phương. Giao tiếp, trao đổi giữa các cá nhân có
uy tín trong cộng đồng (già làng, trưởng bản, trưởng họ, linh mục ...) giúp cho việc
phân tích các hành động môi
trường và là người tuyên truyền,
phổ biến các thông điệp truyền
thông môi trường rất hiệu quả.
b) Họp cộng đồng - hội thảo
Các cuộc họp cộng đồng
(tổ dân phố, nhóm, phường,
trường học, cơ quan...) thuận lợi
cho việc bàn bạc và ra quyết định
một số vấn đề của cộng đồng.
Hội thảo thường giải quyết một


- 23 -


Nghiên cứu khoa học
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

vấn đề sâu hơn cuộc họp thông thường. Đặc điểm quan trọng là hình thức họp. Hình
thức có sự tham gia của mọi người mang lại hiệu quả cao hơn hình thức khác. Trong
các cuộc họp - hội thảo này, nhà truyền thông phải giữ thái độ trung lập, cố gắng khai
thác tất cả các ý kiến và phải có phương pháp thu thập ý kiến của những người ngại
phát biểu nhất. Với những người ngại nói hay nói nhiều, tốt nhất là tạo cho họ cơ hội
trình bày ý kiến theo cách riêng.
c) Thông tin đại chúng
Các phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình, báo chí, phát thanh) có
khả năng tiếp cận một phạm vi đối tượng rất rộng và có uy tín cao trong việc phổ
biến, tuyên truyền các nội dung của chiến dịch truyền thông môi trường.
Trước khi làm việc với các cơ quan thông tin đại chúng, nhà tổ chức chiến
dịch truyền thông môi trường phải xem xét:
- Các thông tin cần lặp lại bao nhiêu lần trong thời gian chiến dịch.
- Tính phù hợp của thông điệp với cộng đồng địa phương (chú ý đến văn hoá,
ngôn ngữ)
- Sử dụng phương tiện thông tin đại chúng nào là phù hợp với nhóm đối tượng
cần tiếp cận, nếu là phương tiện nghe nhìn thì nên phát vào lúc nào trong ngày.
- Làm sao để các phương tiện thông tin đại chúng chấp nhận phát tin hoặc
thông cáo báo chí của chiến dịch, đặc biệt là bằng tiếng dân tộc ít người.
Các thông tin đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng phải có hình
thức phù hợp với mục tiêu của các phương tiện này. Đó là sự cuốn hút đối tượng
một cách rộng rãi.
d) Triển lãm

Triển lãm môi trường có quy mô rất khác nhau, từ các cuộc triển lãm lớn cho
đến các vật trưng bày nhỏ lẻ đặt tại các
vị trí đông người. Không nhất thiết
phải có nhân viên thuyết minh vì trong
nhiều trường hợp, tự thân vật trưng
bày đã khá dễ hiểu. Cần chú ý những
vấn đề sau nếu tổ chức triển lãm:

- 24 -


×