Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tài liệu “ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH CHO CB-GV-CNV ĐI HỌC CHUẨN HOÁ VÀ NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ PHỤC VỤ CÔNG TÁC GIẢNG DẠY ” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.65 KB, 11 trang )




“ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH CHO CB-GV-CNV ĐI HỌC
CHUẨN HOÁ VÀ NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ
PHỤC VỤ CÔNG TÁC GIẢNG DẠY ”


I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Để đáp ứng yêu cầu cho hoạt động dạy và học, nhất là đổi mới thực hiện chương trình
thay sách giáo khoa mới hiện nay và ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Bản thân
người thầy phải luôn luôn nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, văn hoá, kiến thức xã
hội, nắm bắt tri thức. Nhất là trong tình hình xã hội hiện nay, khoa học, công nghệ ngày
càng phát triển. Giáo dục phải đón đầu kinh tế, tri thức, phục vụ công nghiệp hoá, hiên đại
hoá đất nước, cùng đất nước nhanh chóng hội nhập với khu vực, hội nhập với thế giới đang
phát triển với tốc độ cao. Trên quan điểm đó trường tiểu học Huỳnh Văn Chính luôn quan
tâm xây dựng kế hoạch, tạo điều kiện tốt nhất và động viên đội ngũ sư phạm học tập để
phục vụ cho công tác dạy và học mỗi ngày một tốt hơn.
II. NỘI DUNG-BIỆN PHÁP-PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN:
1. Đặc điểm tình hình trường tiểu học Huỳnh Văn Chính:
 Diện tích khuôn viên trường: 6800 mét vuông, có 36 phòng học và các phòng
chức năng: phòng ăn, 2 phòng ngũ ( nhưng để đủ chỗ cho học sinh học, các phòng ăn
và phòng ngũ được ngăn ra làm thêm 12 phòng học), Phòng thư viện thiết bị, phòng
âm nhạc, phòng vi tính, phòng hoạ, văn phòng, phòng thư viện, hội trường, nhà bếp)
và văn phòng: phòng Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, văn phòng, phòng giáo viên.
 Trường tiểu học Huỳnh Văn Chính có 67 lớp trong đó hoạt động giảng dạy
lớp 1 buổi ( 38 lớp), bán trú ( 29 lớp). Tăng cường tiếng Anh ( 10 lớp), liên kết
trường Quốc tế ngoại ngữ CEC dạy Anh văn toàn trường mỗi tuần 2 tiết ( 57 lớp),




liên kết trường Suối Nhạc dạy nhạc trên đàn cho tất cả học sinh bán trú và tổ chức
dạy tin học cho học sinh bán trú ( 29 lớp).
 Tập thể CB-GV-CNV trẻ nhiều, có trình độ chuyên môn tương đối tốt, nhiệt
tình và trách nhiệm trong công tác, ham học hỏi để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn,
tay nghề.
2: Số liệu về CB-GV-CNV và học sinh:
A.Học sinh : Tính thời điểm tháng 2-2008:
Ngoài sĩ số cớ 21 em học phổ cập hoà nhập.
B.CB Quản lý – Giáo viên – CNV :
Tổng số CB-GV-CNV toàn trường thuộc diện biên chế ( 94) và họp đồng trường trả
lương ( 43) tổng cộng là 141 người.
Tổng số có gia đình : 61 Nữ : 40
Tổng số độc thân : 80 Nữ : 37
Tổng số Công đoàn viên : 119 Nữ : 104
 Trình độ chuyên môn CB-GV-CNV trong diện biên chế nhà nước:

Tổng số CB-GV-CNV trong biên chế: 94 trong đó đã đat trình dộ:
- 14 Đại học:
2. Kế hoạch tổ chức thực hiện :
 Nội dung biện pháp đề ra:
a. Học các lớp chuyên môn nghiệp vụ, đạt chuẩn và nâng chuẩn:
- Để thực hiện được kế hoạch cho CB-GV-CNV đi học chuẩn hoá, nâng cao
trình độ nghiệp vụ chuyên môn, chính trị, vi tính… Trước hết trường phải xây
dựng kế hoạch quy hoạch lâu dài về tình hình đội ngũ đi học nâng cao trình



độ chuyên môn nghiệp vụ, trên cơ sở trình độ chuyên môn đã đạt và quy
hoạch trình độ CB-GV-CNV. Bản thân người CB-GV-CNV đăng ký thống
nhất đi học.

- Sau khi xây dựng kế hoạch quy hoạch chuẩn hoá, nâng cao trình độ cho CB-
GV-CNV trường thông qua danh sách đi học trong BGH, Hội đồng trường,
Hội đồng sư phạm. thông tin trong bảng thông báo nhà trường để mọi người
biết và chuẩn bị tinh thần về điều kiện thời gian, hoàn cảnh gia đình, kinh
tế….để đi học khi có mở lớp học theo các trình độ chuyên môn và chuyên
ngành.
- Trường thông tin kịp thời tất cả văn bản chỉ đạo của ngành có mở các lớp học
liên quan đến đội ngũ sư phạm CB-GV-CNV về: Cao học, Đại học, CĐSP,
CBQL, tin học, chính trị, hành chánh… Để bản thân CB-GV-CNV chọn lựa
lớp học phù hợp cho mình. Sau đó cho anh em đăng ký làm hồ sơ.
- Trong các buổi họp Hội đồng sư phạm, hoặc gặp riêng từng cá nhân bản thân
tôi thường xuyên động viên, khuyến khích anh em đi học. Khi CB-GV-CNV
đăng ký đi học trường tạo điều kiện về thời gian trong công tác cho thuận lợi.
Để không ảnh hưởng đến việc đi học và đi làm. Trong các hoạt động ngoại
khoá trường tránh tối đa các buổi ngày thư bảy và chủ nhật ( vì hai ngày nầy
trường hiện có trên 36 GV đi học Đại học).
- Ngoài kinh phí ngành đài thọ cho CB-GV-CNV đi học ( Đại học hoá nhà
nước cấp 100% học phí, lớp cử nhân tiểu học ngành cấp 50% học phí).
Trường tham mưu với Ban Đại diện Cha mẹ học sinh chi quỹ Cha Mẹ học
sinh cấp 30% kinh phí cho CB-GV-CNV đi học, khi bản thân tự đóng tiền
xong đem hoá đơn về trường thanh toán cho ngay 30% học phí ( Với số tiền
bản thân CB-GV-CNV tự đóng để đi học).
- Để xoá mù tin học cho CB-GV-CNV, phục vụ cho công tác giảng dạy. Năm
2004-2005 trường có xây dựng phòng vi tính dạy học sinh kinh phí trường tự



cân đối nguồn quỹ. Sau khi đã khấu hao tài sản, chi trả lương cho GV giảng
dạy và chi các hoạt động khác. Trường đầu tiên trong Quận mạnh dạn xin
phép Ban lãnh đạo PGD Tân Phú cho trường mời trường Đại học Công

nghiệp Thành phố dạy bằng A vi tính cho CB-GV-CNV. Trường trích từ quỹ
tin học để đài thọ học phí cho 100% CB-GV học bằng A vi tính tại phòng
máy của trường. Sau thời gian làm việc với trường Đại học Công nghiệp
thành phố, giá mỗi học viên là 350.000đ, trường Bồi dưỡng giáo dục Q. Tân
Phú đổi kế hoạch tổ chức trực tiếp cho GV trường Bồi dưỡng dạy cho GV các
trường trong quận với kinh phí 200.000đ/ người, thay gì liên kết với trường
Đại học Công nghiệp Thành phố. Và cho học viên thi bằng A tại trường Đại
học sư phạm. Trường tiểu học Huỳnh Văn Chính học khoá đầu tiên có 52 CB-
GV-CNV dự học, khi thi bằng A đỗ 46 người. Số GV còn lại sau đó tự đi học
và hiện nay 100% CB-GV-CNV đã có bằng A vi tính ( trừ bảo vệ và phục
vụ).
- Sau khi CB-GV-CNV trong ngành đã có bằng A tin học cơ bản. PGD quận
Tân Phú đã xin được sự tài trợ cuả công ty máy tính Microsoft liên kết với
Đại học sư phạm. Công ty máy tính Intel tổ chức cho toàn bộ CB-GV –CNV
trong ngành ( trong đó có 100% CB-GV-CNV trường tiểu học Huỳnh Văn
Chính) đi học miễn phí trình độ tin học nâng cao chương trình vi tính ứng
dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy; Tập huấn lớp ITGS (lớp Intel
Getting Stanteđ với 12 Modul nội dung cơ bản như sau: Phát triển các kỷ
năng của thế kỷ 21, Cơ bản về máy tính và internet, Tư duy phê phán và sự
công tác, trình soạn thảo văn bản, sử dụng trình soạn thảo văn bản, Đa
phương tiện, Sử dụng đa phương tiện, Bảng tính điện tử, Sử dụng bảng tính,
Phương pháp dạy học của thế kỷ 21, Kế hoạch hành động của bạn, Xem lại và
chia sẻ kế hoạch hành động) và khoá đào tạo PIL giai đoạn 1 và 2, phương
pháp học nhóm….



- Sau đó phòng Giáo dục Tân Phú chỉ đạo cho tất cả các trường nối mạng
Internet. Để giáo viên sử dụng công nghệ thông tin, sử dụng giáo án điện tử
có kết nối lối thông tin trên mạng phục vụ cho giảng dạy, công tác và các hoạt

động khác.
b. Tham quan, học tập thực tế thông qua các hoạt động dự giờ thăm lớp, sinh hoạt
ngoại khoa như du lịch dã ngoại:
- Ngoài việc học tập chuyên môn, trường lớp với thầy cô, bản thân từng CB-GV-
CNV luôn luôn học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, bạn bè thông qua dự giờ thăm
lớp, tham khảo sách vở, báo chí. Trường tăng cường trang bị sách cho phòng thư
viện rất nhiều sách tham khảo, truyện, sách văn học…
- CB-GV học chương trình thay sách lớp 1,2,3,4,5 tại Quận, cụm, trường, thông
qua giảng dạy, chuyên đề, thao giảng, sinh hoạt chuyên môn tổ khối. Đây là hoạt
động học tập rất thiết thực áp dụng vào thực tế giảng dạy, công tác của anh em.
- Để quan sát thực tế môi trường sinh thái, tự nhiên xã hội về đất nước và con
người trong cuộc sống đời thường, các danh lam thắng cảnh quê hương… Hằng
năm trường tổ chức cho CB-GV-CNV và học sinh đi tham quan học tập khoảng 4
đến 6 lần/ năm học.
III. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA CÁC GIẢI PHÁP TRÊN:
1. Việc vận động cho CB-GV-CNV đi học để đạt trình độ chuẩn và nâng chuẩn đã
đạt kết quả:
 Hiệu quả về kinh tế:
Đầu tư để nâng cao chất lượng dạy và học hiệu quả cao nhất là đầu tư cho con người. Vì khi
được đi học nâng cao trình độ, bản thân mỗi người sẽ ít nhiều bổ sung kiến thức, trình độ,
sự hiểu biết nhiều hơn là không học gì cả. Người thầy có kiến thức, trình độ chuyên môn
cao thì nhận thức sẽ thuận lợi hơn trong mọi vấn đề, trong chuyên môn nghiệp vụ, suy nghĩ,
sự tiếp nhận thông tin, nhất là tiếp cận chương trình thay sách, đổi mới trong giảng dạy. Sự
cố gắng rất nhiều của CB-GV-CNV trường tiểu học Huỳnh Văn Chính vừa làm vừa đi học



sẽ góp phần nậng cao về chất lượng giảng dạy sẽ đạt kết quả cao học tập cho học sinh, đó
chính là lợi nhuận về kinh tế cao nhất trong việc giáo dục thế hệ trẻ trong quá trình công tác
của trường.

 Bản thân CB-GV-CNV được học tập nâng cao trình độ: Hiệu quả giải quyết về chất
lượng cho hoạt động dạy và học của GV và học sinh đạt tốt hơn: Trường tiểu học Huỳnh
Văn Chính 100% học sinh lên lớp thẳng. Học sinh tốt nghiệp tiểu học đỗ 100% có học
sinh thủ khoa và nhiều hoạt động phong trào khác vươn lên đạt thành tích cao ở cấp
Quận và Thành phố: Vô địch “ Vui học 4” 3 năm liền, Giải I, thi “ An toàn giao thông”
cấp Quận và giải III toàn đoàn cấp Thành phố. Bước đầu có nhiều giải thưởng thi
VSCĐ cấp Thành phố, Giải III “ Quyền Công Ước Trẻ Em”, HS đạt Huy chương đồng
giải Báo Tuổi Thơ tại Quảng Ninh năm 2005-2006, học sinh đỗ thủ khoa tốt nghiệp tiểu
học năm 2004-2005. Đảm bảo giảng dạy đạt kết quả chất lượng tốt, cũng như đạt thành
tích phong trào dự thi học sinh giỏi, giáo viên giỏi, phong trào Văn thể mỹ các cấp.
 Kết quả từ năm học 2003-2004 đến năm học 2007-2008 trường tiểu học Huỳnh Văn
Chính có nhiều CB-GV-CNV đi học đã tốt nghiệp, đang học và đăng ký đi học:
+ Trình độ chuyên môn gốc:
 Đại học: 9 CB-GV-CNV.
 Cao đẳng sư phạm: 44 GV.
 Trung học sư phạm: 34 CB-GV.
 Trung học phổ thông: 3 CNV.
 Trung học cơ sở: 01.
 Cán bộ quản lý:
 Anh văn: 01 bằng A.
+ Đã tốt nghiệp trình độ sau khi học nâng cao:
 Đại học: 32 CB-GV-CNV.



 Cao đẳng sư phạm: 01 GV
 Cán bộ quản lý: 05.
 Kế toán trưởng: Phạm Thị trươi.
 Tin học: 86 bằng A vi tính, 2 bằng B vi tính và 86 đạt có chứng
nhận học chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong

giảng dạy.
 Anh văn: 13bằng A và 4 bằng B.
 Trung cấp hành chánh: 01.
 Tương đương Trung cấp chính trị: 02 CB-CNV.
Tổng cộng đến nay hiện có CB-GV-CNV trường đã đạt có trình độ chuyên
môn::
 Đại học: 36 CB-GV–CNV.
 Cao đẳng sư phạm: 20 GV.
 Trung học sư phạm: 24.
 Cán bộ quản lý: 05
 Kế toán trưởng: 01.
 Tin học: 86 bằng A vi tính, 2 bằng B vi tính. và 86 đạt có chứng
nhận học chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong
giảng dạy.
 Anh văn: 13 bằng A và 4 bằng B.
 Trung cấp hành chánh: 01.
 Tương đương Trung cấp chính trị: 02 CB-CNV.
+ Đang đi học:



 Đại học: 36 CB-GV-CNV.
 Cao đẳng sư phạm: 01 GV.
 Cán bộ quản lý: 01 ( Nguyễn Thị Hà).
 Anh văn: 01 bằng A.
 Trường nối mạng nội bộ và mạng Internet toàn bộ máy vi tính
trong trường ( kể cả phòng máy vi tính) để CB-GV-CNV biết
sử dụng và sử dụng Internet nắm bắt thông tin phục vụ cho
giảng dạy và công tác.
+ Quy hoạch đăng ký cho CB-GV-CNV đi học:

 Cao học: 03 CB-GV.
 Đại học: 15 CB-GV-CNV.
 Cán bộ quản lý: 04.
 Anh văn: 02 bằng A.
 Bằng A vi tính: 15 CB-GV-CNV.
 Chính trị: 01 cao cấp, 28 chính trị.
 Thực hiện sử dụng vi tính trong giảng dạy: 100% CB-GV ( đã
đăng ký ở PGD). Trường sẽ mời chuyên viên PGD về dạy trước
trong hè 2006 tại phòng máy của trường.
2. Bài học kinh nghiệm hôm qua để áp dụng cho hôm nay: Trong công tác hiện tại
trường tiểu học Huỳnh Văn Chính như ngày hôm nay. Bản thân tôi cũng không quên từ
bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý của mình tại trường tiểu học Yên Thế trong
việc vận động, tổ chức kế hoạch cho CB-GV-CNV đi học đạt trình độ chuẩn. Bản thân tôi
luôn quan tâm, động viên khuyến khích, khen thưởng, hỗ trợ kinh phí, thậm chí đôi lúc phải
xử dụng biện pháp chế tài. Nhưng luôn luôn sử lý trên tình cảm, động viên anh em là chính
( vì chúng tôi luôn thấy đối với người lớn, vừa học vừa làm rất khó khăn, thậm chí phải hy



sinh hạnh phúc gia đình). Khi ở trường tiểu học Yên Thế ( Tân Bình) tôi thấy mình động
viên được rất nhiều CB-GV-CNV đi học đạt tỷ lệ rất cao học đạt trình độ chuẩn và nâng
chuẩn. Trong số các GV chưa đạt trình độ chuẩn đặc biệt có 4 chị ( Phạm Thị Chiên ( 53
tuổi) trình độ 12+1, Hứa Thị Lợi ( 51 tuổi, người dân tộc Tày) trình độ THSP 10/10+2
nhưng không tốt nghiệp cấp 3, Nguyễn Thị Tuấn Anh ( 48 tuổi, trước đây ở niềm Bắc dạy
vùng cao cho người dân tộc Tày) trình độ THSP 7/10 +1 chưa tốt nghiệp THPT và THSP
10+2, chị Đinh Thị Lễ 46 tuổi trình độ 11+2. Nếu không đi học đạt trình độ chuẩn và nâng
chuẩn thì các chi sẽ không được dạy lớp. Đây là thiệt thòi lớn nhất của người Giáo viên, và
sẽ ảnh hưởng đến thu nhập kinh tế gia đình, nuôi dạy con cái. Để giải quyết vấn đề trên cho
các chi. Một mặt tôi yêu cầu các chị phải đi học và làm bản cam kết với PGD Tân Bình-
BGH trường đảm bảo đi học để đạt trình độ chuẩn, đồng thời tôi làm đơn xin bảo lãnh động

viên cho các chi đi học với Ban lãnh đạo PGD Tân Phú, nhằm mục đích để các chị được
đứng lớp trong thời gian đi học, để các chị yên tâm lo kinh tế gia đình nuôi con cái ( giai
đoạn nầy GV không đạt chuẩn quy định của ngành là không được đứng lớp). Chị Tuấn Anh
bắt đầu học lại từ lớp 10/12 đến 12/12 thi TNPT và thi luôn vào Đại học ( trong thời gian đi
học, gia đình chị có vấn đề, chồng có vợ bé. Vì đi dạy bán trú cả ngày tối về đi học suốt các
ngày trong tuần đến 10 giờ tối mới xum họp cùng gia đình. Chúng tôi cùng Công Đoàn lại
phải vào can thiệp gia đình chị và động viên chị. Sau đó gia đình chị hạnh phúc trỡ lại và
bản thân chồng chi góp phần giúp chị đi học). Kết quả hiện nay các chị đều đạt trình độ
chuẩn 12+2 THSP ( C. Chiên, C. Lợi) , chi Lễ và chi Tuấn Anh rất đáng khen, hai chị đã
học và đỗ Cử nhân tiểu học. Bản thân và gia đình các chị rất vui ( thậm chí có những lúc
các chị lớn tuổi học khó quá, nản chí định bỏ học, tôi góp ý phê bình trong Hội đồng sư
phạm tạo tâm lý mặc cảm cho các chị phải học, nhưng liền sau đó, tôi mời riêng từng chi
động viên phải vươn lên với bất cứ hoàn cảnh nào). Trên đây là một việc làm nhỏ, để cho
CB-GV-CNV đi học đạt trình độ chuẩn, người GV tiếp tục đứng trên bụp giảng. Nhưng
cũng là bài học kinh nghiệm của mình khi làm công tác quản lý. Muốn xây dựng trường tốt,
nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của Thầy và trò. Không gì hơn là phải nâng cao
chất lượng người Thầy về trình độ nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tâm huyết
yêu nghề, yêu ngành, thương yêu học sinh của mỗi CB-GV-CNV. Thể hiện cao nhất là bản



thân mỗi người phải cầu tiến luôn luôn học tập mọi nơi, mọi lúc từ trường lớp với Thầy
(Co) đến đồng nghiệp, bạn bè và xã hội trên tất cả phương diện. Qua đó xây dựng được tập
thể sư phạm vững mạnh, đoàn kết, thương yêu nhau, có tinh thần trách nhiệm công tác tốt.
IV. KẾT LUẬN:
Xã hội mỗi ngày một phát triển, công nghệ thông tin khoa học ngày càng tiến bộ. Sự
tiến bộ và phát triển của xã hội, nhất là thực hiện chương trình thay sách đòi hỏi mỗi
người trong chúng ta phải luôn luôn học hỏi, để nâng cao nhận thức, phát triển tư duy,
tiếp nhận thông tin kiến thức mới cho mình. Học để không bị đẩy lùi phía sau trong sự
phát triển ngày càng cao của xã hội về khoa học, công nghệ thông tin, đổi mới phươmg

pháp giảng dạy hiện nay…. Học là một nhu cầu đồng thời là sự bức thiết so với xã hội.
Nhưng học như thế nào! Học làm sao, học để làm gì? Đây mới là quan trọng, bản thân
mỗi CB-GV-CNV khi được vận động, trường tạo điều kiện thuận lợi về thời gian công
tác, hỗ trợ kinh phí cho đi học nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn, không bằng ý
thức chịu khó tự học của mỗi người, với lòng ham mê hiếu học. Vì khi bản thân của CB-
GV-CNV tự giác, tạo thành một trào lưu trong trường và thích thú khi đi học, vui khi
học thì sự tiếp thu kiến thức, góp phần nâng cao nhận thức cho bản thân sẽ dễ dàng. Khi
CB-GV-CNV xác định học để nâng cao nhận thức, tiếp thu kiến thức mới, phát triển tư
duy, biến tri thức thành hành động, áp dụng sự hiểu biết của mình phục vụ cho công tác
giảng dạy, giáo dục học sinh thì mới thành công của người quản lý. Theo suy nghĩ của
chúng tôi, nếu đi học trong sự gò ép, học để có tắm bằng, học vị bằng chị bằng em thì sẽ
không đạt được kết quả cho cả thầy lẫn trò. Trong thời gian vừa qua, bản thân chúng tôi
nhận thấy tập thể đa số CB-GV-CMV trường tiểu học Huỳnh Văn Chính có rất nhiều cố
gắng trong công tác và học tập, ham thích và đua nhau đi học để hiểu biết, nâng trình độ
trong tâm trạng rất thích thú, đương nhiên đa số như thế, nhưng vẫn không có vài anh
chị cảm thấy như mình bị bắt buộc đi học. Bất cứ công việc nào, PGD hay trường tổ
chức phân công anh em cũng làm tốt và luôn đảm bảo việc học tập của mình. Cả tuần
công tác giảng dạy đến ngày thứ bảy, chủ nhật cắp sách đến trường để đi học.



Nhiều năm qua đứng dưới góc độ của người quản lý, chúng tôi nhận thấy ngành giáo
dục Quận Tân Phú, tiền thân thuộc ngành giáo dục Tân Bình rất may mắn, chúng tôi
được sự quan tâm rất lớn của Ban lãnh đạo, chuyên viên PGD, BGH trường Bồi dưỡng
giáo dục liên tục mở các lớp học, đủ trình độ từ chuyên môn, nghiệp vụ đến các lớp vi
tính, Anh văn, liên kết đơn vị các trường Đại học, Cao đẳng…để tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho CB-GV-CNV đi học. Không những học trường lớp, chúng ta còn được tham
quan học tập khắp mọi nơi trong và ngoài nước. Điều quan trọng nhất ngành đã tham
mưu các cơ quan chức năng cấp kinh phí cho anh em đi học, đó là sự nhạy bén, sự quan
tâm hỗ trợ rất lớn của PGD Tân Phú mà tập thể CB-GV-CNV trong ngành không bao

giờ quên được tình cảm đó của PGD Tân Phú. Bên cạnh đó gương điễn hình cho ngành
là cô Hoàng Thị Hồng Hải ( Trưởng PGD Tân Phú) dù lớn tuổi nhưng vẫn luôn luôn đi
học nâng cao và đã tốt nghiệp cao học là thạc sỹ, cùng tất cả trong Ban lãnh đạo và
chuyên viên PGD Tân Phú vừa học vừa làm rất giỏi.
Học để phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội, đất nước, gần nhất là phục vụ công tác giảng
dạy cho học sinh, mở mang sự hiểu biết chính bản thân mỗi người của chúng ta. Trong
thời gian quan khi quản lý trường, chúng tôi đã qui tụ được tập thể sư phạm có tinh thần
trách nhiệm, thống nhất, đồng tâm hiệp lực trong công tác xây dựng đơn vị có nhiều tiến
bộ đi lên hoạt động dạy và học tốt. Bản thân tôi phấn đấu cố gắng, đầu tư suy nghĩ
nhiều hơn nữa trên tất cả công việc của mình, để góp phần nâng hiệu quả của đơn vị tốt
hơn.
Trên công việc chúng tôi đề ra và đã được thực hiện thời gian trước đây ở đơn vị cũ
của mình đồng thời khi được áp dụng tại đơn vị trường tiểu học Huỳnh Văn Chính có
kết quả tốt. Tuy nhiên đây chỉ là một việc nhỏ, so với các anh chi, đồng chí, đồng
nghiệp có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp giáo dục. Bản thân tôi cần tiếp tục học
tập nhiều hơn nữa trên tất cả các mặt trong công tác trong quản lý, đạo đức tác phong…
để hoàn thiện hơn trong nhiệm vụ được phân công và cuộc sống.

×