Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN mối QUAN hệ GIỮA dân tộc và GIAI cấp TRONG CƯƠNG LĨNH đầu TIÊN của ĐẢNG GIÁ TRỊ HIỆN THỰC TRONG CÔNG CUỘC đổi mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.73 KB, 20 trang )

1

1

MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
TRONG CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG - GIÁ TRỊ HIỆN THỰC TRONG
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Cách mạng Việt Nam, từ khi Đảng ra đời 3/2/1930, Đảng đã lãnh đạo việc giải
quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp được thể hiện ở “Chính
cương, sách lược vắn tắt”. Do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo thông qua Hội nghị
thành lập Đảng ngày 3/2/1930 và thể hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
giành độc lập dân tộc. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh sớm bao quát những vấn đề có
ý nghĩa định hướng quan trọng của cách mạng Việt Nam: con đường cách mạng Việt
Nam phải trải qua hai giai đoạn, trước hết làm cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi
rồi tiến thẳng lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa; nhiệm vụ mục tiêu của cách mạng
tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc phong kiến giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất
cho dân cày, đồng thời sớm hình thành tư tưởng phân hoá giai cấp địa chủ phong kiến,
tập trung đánh đế quốc và việt gian tay sai, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu; lực lượng cách mạng lấy công nông làm lực lượng chính do giai cấp công nhân
lãnh đạo, mở rộng lực lượng đoàn kết dân tộc; sử dụng sức mạnh của quần chúng lập
đổ ách thống trị của đế quốc tay sai lập nên chính phủ công nông; Cách mạng Việt Nam
là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới; sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, những yêu cầu
về xây dựng Đảng vững mạnh để lãnh đạo cách mạng thắng lợi.
Chứng tỏ Đảng ta và đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trên lập
trường của giai cấp công nhân. Vấn đề này đã trở thành tư tưởng cơ bản, sợi chỉ đỏ xuyên
suốt toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, là bài học kinh nghiệm chủ yếu trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, cũng như trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Chỉ ra nguồn gốc thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước đây, mà còn chỉ ra những
yếu tố bảo đảm tính đúng đắn của đường lối và sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong


thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đặt trong tiến trình cách mạng vô sản, những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa
học đặc biệt là Lênin đã chỉ rõ: Vấn đề dân tộc là vấn đề phụ thuộc giai cấp - vấn đề cách
mạng, ở những nước thuộc địa vấn đề dân tộc trước hết là chống đế quốc xâm lược giành


2

2

độc lập dân tộc; giải quyết vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp là hai nhiệm vụ không đồng nhất
nằm trong phạm trù cách mạng vô sản, hai nhiệm vụ lối tiếp xen kẽ là điều kiện tiền đề của
nhau. Đồng thời Lênin còn chỉ rõ: Trong khi thực hiện, không được tuyệt đối hoá một
nhiệm vụ nào, nếu nhấn mạnh vấn đề dân tộc thì sẽ dẫn đến sai lầm của chủ nghĩa dân tộc,
ngược lại nếu nhấn mạnh vấn đề giai cấp sẽ bị cô lập và rơi vào thái độ “hư vô dân tộc”.
Đây chính là biện chứng mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, giải quyết nó là
nguyên tắc chiến lược của cách mạng vô sản. Vì xuất phát từ bản chất kẻ thù của giai cấp
vô sản: không bao giờ chịu từ bỏ hoặc nhường địa vị thống trị cũng như quyền lợi gắn với
địa vị của chúng cho giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động. Hơn nữa giải quyết
mối quan hệ này còn là vấn đề thuộc Sách lược của giai cấp vô sản khi tiến hành cách
mạng vô sản, ở một nước thuộc địa, nền kinh tế kém phát triển, nhằm cô lập phân hoá kẻ
thù, tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiêu diệt kẻ thù chủ yếu thực hiện
nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu của cách mạng.
Với Việt Nam khi thực dân Pháp xâm lược (1858) làm cho xã hội Việt Nam chuyển
từ xã hội phong kiến suy tàn phản động sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến, với hai mâu
thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn dân tộc với đế quốc Pháp xâm lược và bọn phản động
tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân lao động mà chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ
phong kiến, yêu cầu phát triển khách quan của xã hội Việt Nam là phải đồng thời giải
quyết hai mâu thuẫn trên. Đánh đế quốc phải đi đôi với đánh phong kiến, đánh phong kiến
phải đi đôi với đánh đế quốc. Nhiệm vụ đánh đế quốc vừa đáp ứng yêu cầu là nhiệm vụ

dân chủ vừa là nhiệm vụ dân tộc, đấu tranh giành độc lập không tách rời đấu tranh giành tự
do dân chủ. Ở nước ta độc lập dân tộc và tự do dân chủ đều là khát vọng của giai cấp công
nhân và của toàn dân tộc. Vì khi Pháp xâm lược Việt Nam, chúng tìm thấy chỗ dựa để duy
trì sự thống trị của chúng trong xã hội là giai cấp địa chủ phong kiến, ngược lại giai cấp địa
chủ phong kiến cũng tìm thấy và can tâm làm tay sai cho Pháp để làm chỗ dựa cho sự tồn
tại của giai cấp mình. Chính vì vậy, khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin Hồ Chủ tịch khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không còn con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”, chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả
hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế
giới”. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước cho các dân tộc thuộc
địa. Người nói: “ Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng chúng ta”, phải đi theo Cách mạng Tháng Mười Nga: “chỉ có chủ


3

3

nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc
và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bắc ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất”, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới
chân chính, xoá bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường
dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và thương yêu nhau” 1. Các
quan điểm đó là bước chuẩn bị cần thiết cho việc đề ra đường lối quan điểm của Đảng ta
và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến Hội nghị thành lập Đảng ngày 3/2/1930 trong Chính
cương vắn tắt Người khẳng định tư tưởng của mình thông qua “Chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” 2. Đây là luận điểm cơ
bản đầu tiên được thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đặt nền móng cho việc giải
quyết mối quan hệ vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp. Ở nước ta một nước thuộc địa nửa
phong kiến, nền kinh tế chưa phát triển, nông dân chiếm hơn 90% dân số, giai cấp tư sản

dân tộc và giai cấp công nhân đang trong quá trình bước đầu hình thành. Vì vậy, chỉ có đặt
vấn đề giải phóng dân tộc trong hướng đi lên chủ nghĩa xã hội; cách mạng giải phóng dân
tộc trong phạm trù cách mạng vô sản, gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng xã
hội chủ nghĩa, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, thì chỉ có giai cấp công
nhân Việt Nam mới có điều kiện thực hiện mục tiêu lý tưởng của mình.
Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, trung thành với tư tưởng Hồ Chí
Minh và từ nhận thức đúng yêu cầu phát triển khách quan của xã hội Việt Nam. Đảng ta
thấy rõ sự thống nhất song không đồng nhất, tách rời giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong tiến trình cách mạng ở Việt Nam: Giải quyết vấn đề dân tộc đã bao hàm nội dung
vấn đề giai cấp, là điều kiện để giải quyết vấn đề giai cấp, ngược lại giải quyết vấn đề giai
cấp càng có kết quả bao nhiêu thì những thành tựu của quá trình giải quyết vấn đề dân tộc
lại càng được củng cố hoàn thiện bấy nhiêu. Ở nước ta khi giai cấp công nhân chưa giành
được chính quyền thì phải đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu, mọi quyền lợi của giai cấp phải
đặt dưới sự tồn vong của lợi ích quốc gia dân tộc. Song không vì thế mà Đảng ta xem nhẹ
tinh thần quốc tế vô sản của giai cấp công nhân và coi thường quyền tự quyết của các dân
tộc, ngược lại Đảng luôn luôn nêu cao bản chất quốc tế của mình và tôn trọng quyền tự
quyết của các dân tộc, xác định và thực hiện tốt trách nhiệm đối với cách mạng thế giới,
trước hết là đối với cách mạng Lào, cách mạng Cam Pu Chia. Song từ nhận thức đến hành
1 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 461.
2 Văn kiện, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 1998, tr. 2.


4

4

động là một quá trình, hơn nữa sau khi Đảng ra đời lại bị ảnh hưởng tư tưởng “tả” khuynh
xem nhẹ vấn đề dân tộc, mà biểu hiện cụ thể và dễ nhận thấy trong nội dung bản Luận
cương chính trị (10/1930) của Đảng. Chỉ đến thời kỳ 1939 - 1945 nhận thức của Đảng về
mối quan hệ và giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp mới được

nhận thức và thực hiện một cách đầy đủ. Mặt khác, khi Đảng ta có được nhận thức đó còn
do những đòi hỏi khách quan của tình hình thực tiễn cách mạng đặt ra.
Để giải quyết vấn đề dân tộc, giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (tuy là vắn tắt nhưng đã chứa đựng đầy đủ các nội
dung của đường lối cách mạng. Vì vậy được xác định là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng) và
Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 xác định nhiệm vụ đánh đế quốc phong kiến đặt ở
vị trí cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền “...Thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để,
một mặt nữa là đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn
toàn độc lập”3, lập ra Chính phủ công nông, điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân.
Nếu như, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930
của Đảng nhất trí coi đế quốc và phong kiến là hai đối tượng mà cách mạng tư sản dân
quyền đánh đổ mới có thể giành được độc lập dân tộc, thiết lập được chính quyền của số
đông quần chúng là công nông hoặc công - nông - binh, xây dựng đội bảo vệ chính quyền
cách mạng, thực hiện quyền dân chủ cơ bản của nhân dân...thì cũng bắt đầu bộc lộ rõ
những quan điểm khác biệt về vị trí của hai nhiệm vụ đánh đế quốc và đánh phong kiến,
giành độc lập dân tộc, ruộng đất dân cày, giành quyền tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Nội
dung trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng cho rằng: Đảng coi nhiệm vụ chống đế quốc là
chính yếu nhất và huy động tối đa để thực hiện. Trong khi đó, Luận cương chính trị của
Đảng trình bày hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến ở tầm mức quan trọng
ngang nhau và đặt yêu cầu “thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” mới phát huy tác
dụng tích cực mạnh mẽ tới nhiệm vụ chống đế quốc.”Có phá tan chế độ phong kiến mới
đánh đổ, được đế quốc chủ nghĩa” 4 về mặt chiến lược, Đảng ta xác định; nước ta là nước
nông nghiệp, nông dân chiếm hơn 90% dân số chủ nghĩa đế quốc dựa vào chế độ phong
kiến để bóc lột nhân dân, chủ yếu là bóc lột nông dân. Nguyện vọng thiết tha và trực tiếp
3
4

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 1988, tr. 94.

ĐCSVN, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 1998, tr. 94.


5

5

của nông dân là dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Do đó, thực hiện đánh đổ đế quốc
xâm lược và thống trị, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ chế độ phong kiến giành ruộng đất
cho nông dân, hai nhiệm vụ đó phải được tiến hành khăng khít, không được tách rời. Về
chỉ đạo chiến lược, Đảng phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu
“Tổ quốc trên hết” để phát huy cao độ sức mạnh dân tộc, nhưng không coi nhẹ những
nhiệm vụ dân chủ. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh và Đảng ta là trong khi không xa rời mục
tiêu chiến lược, chủ trương của Đảng là tập trung lực lượng toàn dân chống đế quốc và đại
địa chủ, còn đối với trung, tiểu địa chủ thì phải lợi dụng và chí ít làm cho họ trung lập và
đưa họ vào đội ngũ đấu tranh chống ách thống trị của đế quốc Pháp.
Như vậy, tuy là Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt. Song Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng đã xác định đúng đắn những vấn đề chiến lược, Sách lược của cách mạng Việt
Nam phù hợp với thời đại mới. Điều đó chứng tỏ Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
dân tộc, giai cấp. Do đó đã quy tụ được đông đảo lực lượng của toàn dân tộc làm cách
mạng.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp đều có quan điểm
riêng về vấn đề dân tộc. Vào thế kỷ XVI - XVIII, dân tộc gắn với giai cấp tư sản. Lúc đó
giai cấp tư sản dương cao ngọn cờ dân tộc để chống chế độ phong kiến lỗi thời, thắng lợi
của phong trào đấu tranh dân tộc lúc đó là thắng lợi của chủ nghĩa tư bản. Khi chủ nghĩa tư
bản chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư bản trở thành kẻ bóc lột nhân dân
thế giới đã trở lên lỗi thời, phản động. Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi giai
cấp công nhân, đại biểu cho phương thức sản xuất mới, đại biểu quyền lợi, lợi ích cho giai
cấp công nhân và cả nhân dân lao động, trên cơ sở kết hợp đúng đắn lợi ích giai cấp với lợi

ích dân tộc. Vấn đề dân tộc gắn liền với giai cấp công nhân, với xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta cũng nằm trong xu hướng đó.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về địa vị lịch sử của
giai cấp công nhân Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải
phóng được dân tộc, cả hai luận giải này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
của cách mạng thế giới”. Nhận rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước chống
Pháp dưới sự lãnh đạo của các sỹ phu, các lãnh tụ nông dân, biết rõ những hạn chế của các
cuộc cách mạng tư sản theo khuynh hướng cải lương hay theo khuynh hướng bạo động,


6

6

tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngay từ khi mới ra đời (3/2/1930) trong Cương
lĩnh đầu tiên Đảng ta đã xác định được con đường của cách mạng Việt Nam là phải trải qua
hai giai đoạn: Trước hết là làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng sau đó
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Luận điểm này được Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930
phát triển bổ sung là: Cách mạng Việt Nam làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau
đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, mục đích cuối cùng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước
ta. Với đường lối chiến lược đó, Đảng đã nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về tính
liên tục và tính giai đoạn của cách mạng, khéo giải quyết mối quan hệ giữa hai giai đoạn
cách mạng. Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, trong khi tập trung sức người, sức của
để hoàn thành nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến, Đảng vẫn không quên tuyên
truyền và chuẩn bị mọi mặt hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, khi có điều kiện Đảng bắt tay
ngay xây dựng một số cơ sở kinh tế vừa phục vụ giai đoạn trước vừa gây mầm mống
thành phần kinh tế chủ nghĩa xã hội thuộc giai đoạn sau. Phương hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội tuy là giai đoạn sau làm trong tương lai, nhưng việc tuyên truyền tư
tưởng đó có tác dụng làm tăng thêm sức mạnh cho hiện tại vì nó đáp ứng từng bước
yêu cầu của đông đảo quần chúng là kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai

cấp, mà trước hết là công nhân, nông dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ dân
tộc dân chủ được giải quyết cũng triệt để thì những điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội
càng được tạo ra đầy đủ. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta đã khắc phục được những hạn chế của nhiều nhà yêu nước trước đây là chưa
thấy rõ con đường tiến lên của dân tộc là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Chính hạn chế đó là do một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của phong trào
giải phóng dân tộc kiểu cũ ở nước ta lúc bấy giờ.
Giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc, giai cấp là vấn đề quan trọng mà được Luận
cương xác định: Cách mạng Việt Nam từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến đi lên cho
phù hợp với trào lưu tiến hoá của nhân loại, nhất thiết phải trải qua hai giai đoạn, đó là “tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Luận cương
chính trị tháng 10 năm 1930 tiếp tục khẳng định lại và chỉ rõ điều kiện khách quan, chủ
quan chuyển biến giai đoạn từ cách mạng tư sản dân quyền sang trực tiếp làm cách mạng
xã hội chủ nghĩa, Luận cương chỉ rõ “Trong lúc đầu, cách mạng Đông Dương sẽ là cuộc
cách mạng tư sản dân quyền,...tư bản dân quyền là thời kỳ dự bị để đi làm xã hội cách
mạng”, Luận cương còn chỉ rõ không qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa. khi nói về


7

7

điều kiện để chuyển giai đoạn cách mạng: “Tư sản dân quyền cách mạng được thắng lợi,
chính phủ công nông đã dựng lên rồi thì công nghiệp trong nước được phát triển, các tổ
chức vô sản được thành lập, quyền lãnh đạo của vô sản sẽ được kiên cố, sức mạnh giai cấp
tương đương sẽ nặng về phía vô sản, lúc đó nhờ sự tranh đấu sẽ thêm sâu, thêm rộng, làm
cho cách mạng tư sản dân quyền tiến lên con đường cách mạng vô sản” 5, thời kỳ này “xứ
Đông Dương sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chính các nước giúp sức cho mà phát triển bỏ
qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường chủ nghĩa xã hội”.
Những vấn đề về nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam đó là chống đế

quốc chống phong kiến thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Đây là nhiệm vụ
cơ bản của cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ đặc điểm chế độ thuộc địa nửa phong kiến,
Cương lĩnh đã phân tích mối quan hệ gắn bó của hai nhiệm vụ đó là: “Có đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa thắng lợi, mà nó
phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Sự kết hợp hai nhiệm
vụ chống đế quốc và phong kiến đã khẳng định tính toàn diện, triệt để của đường lối cách
mạng Việt Nam. Những nhiệm vụ đó biểu hiện sinh động của việc giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Đó chính là giải quyết mối
quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong đường lối của Đảng ta
và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những dự kiến của Đảng ta đã trở thành hiện thực lịch sử:
Năm 1939, sau khi Đảng đánh giá sự chuyển biến của tình hình thế giới và khu vực Châu
Á Thái Bình Dương và ở Đông Dương, chỉ ra mâu thuẫn gay gắt giữa đế quốc Pháp với
các dân tộc ở Đông Dương, khẳng định chuyển hướng chiến lược và đặt ra nhiều quyết
sách hướng tới thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Trung ương Đảng nêu rõ trách
nhiệm quan trọng nhất của toàn Đảng lúc này là phải đứng trên lập trường cách mạng giải
phóng dân tộc, đặt quyền lợi giải phóng dân tộc ở vị trí cao nhất, lấy giải phóng dân tộc
khỏi gông cùm là mục đích cấp bách, lớn lao nhất mà mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn
dân kể cả cách mạng ruộng đất đều phục vụ mục đích đó. Vì thế lúc này cách mạng ruộng
đất chỉ thực hiện trong giới hạn tịch thu ruộng đất của những địa chủ phản bội quyền lợi
ích dân tộc, chia cho dân cày. Hay nói cách khác là tạm gác khẩu hiệu “ruộng đất cho dân
cày” để tập hợp rộng rãi nhất lực lượng toàn dân, lôi kéo những địa chủ có tinh thần yêu

5 Văn

kiện Đảng, Tập 1, (1930 - 1945) Bài nghiên cứu LSĐ TW - 1977 tr. 67, 68.


8

8


nước vào mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để đánh đổ đế quốc Pháp, vua
chúa bản xứ và tất cả tay sai của đế quốc phản bội dân tộc”.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (11/1939); Hội nghị Trung ương 7 (khoá
11/1940) và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 8 (5/1941) đã kịp thời giải thích
hướng dẫn hành động cho toàn nhân dân mà từng bước hoàn chỉnh chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, đó là chủ trương: Đặt nhiệm vụ đánh đế quốc giải phóng dân
tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất; giải quyết vấn đề dân tộc
trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương; con đường giành chính quyền bằng khởi
nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Chủ trương này thể
hiện việc giải nhuần nhuyễn khéo léo và sáng tạo mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
giai cấp của Đảng, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong thời kỳ mới, là nhân tố trực tiếp
bảo đảm có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách mạng. Mặt khác chủ trương này
còn thể hiện sự trung thành với đường lối chiến lược, sách lược đề ra ngay từ ngày đầu
thành lập Đảng ngày 3 tháng 2 năm 1930 đó là: Đánh đế quốc và phong kiến là hai
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam không thể tách rời, là nguyên tắc bất di, bất dịch,
song quá trình thực hiện không phải là ngang bằng nhau mà phải căn cứ vào tình hình
cụ thể để giành được độc lập dân tộc.
Như vậy, căn cứ vào tình hình cụ thể trên Đảng ta đã thực hiện một bước chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược quan trọng, có ý nghĩa cách mạng to lớn, đó là: Xác định đúng
kẻ thù chủ yếu cần đánh lúc này là thực dân Pháp và phát xít Nhật cùng bọn phản động tay
sai bán nước; nhiệm vụ chủ yếu cần giải quyết là đánh đế quốc giải phóng dân tộc là nhiệm
vụ trước tiên nhằm thực hiện độc lập dân tộc. Đảng xác định: “Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” 6. Trong lúc này quyền lợi dân
tộc hơn hết thảy, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ trên hết là tiêu chí để thực hiện nhiệm vụ
khác (cụ thể là nhiệm vụ đánh phong kiến) đánh phong kiến phải trên cơ sở phục vụ cho
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Do vậy, trong lúc này Đảng ta xác định “tạm gác khẩu hiệu
ruộng đất, song không có nghĩa lúc này Đảng không chủ trương giải quyết vấn đề ruộng

đất, mà tập hợp lực lượng toàn dân tộc thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc kể cả những
6 Văn

kiện Đảng tập III (1930 - 1945), Ban Nghiên cứu LSĐ Trương ương 4-1977, tr. 196.


9

9

người “còn ít nhiều tinh thần chống đế quốc” trong giai cấp địa chủ và tư bản dân tộc.
Đảng đề ra chính sách ruộng đất đó là: Tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội
quyền lợi của dân tộc và ruộng đất công chia cho dân nghèo, chống tô cao, lặng lãi...Mặt
khác đề ra những chính sách trên, Đảng ta còn dựa trên cơ sở phân tích thái độ và tinh thần
cách mạng của các giai cấp trong xã hội, trước hết là giai cấp nông dân, cũng như mọi
người Việt Nam luôn mang trong mình truyền thống của một dân tộc yêu nước luôn đấu
tranh cho lý tưởng độc lập tự do cho dân tộc. Vì vậy, Đảng ta khẳng định lúc này vấn đề
ruộng đất - vấn đề người cày có ruộng chỉ là phương hướng cần đạt tới, không phải là mục
tiêu trực tiếp của nông dân Việt Nam. Động cơ chủ yếu thôi thúc họ đấu tranh trước hết là
lý tưởng độc lập dân tộc, là: truyền thống yêu nước của mỗi con người Việt Nam. Hơn nữa
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, hơn ai hết quần chúng nhân dân Việt Nam là
người được trực tiếp hưởng nhiều quyền lợi to tát nhất và trong đó có quyền lợi thiết thân
của họ như: giải phóng họ khỏi áp bức bóc lột nặng nề nhất, thủ tiêu mọi thứ thuế vô lý,
được chia lại công điền một cách công bằng.
Mặc dù vậy, chủ trương của Đảng còn ý thức tôn trọng quyền tự quyết của các dân
tộc. Xuất phát từ luận điểm: Mỗi dân tộc dù lớn hay nhỏ, dù trình độ phát triển đến đâu thì
đều có quyền tự do lựa chọn con đường phát triển, chế độ chính trị cũng như quyền quyết
định vận mệnh dân tộc mình mà không chịu sự áp đặt, can thiệp bất kỳ một thế lực nào từ
bên ngoài. Đồng thời tự nhận thức cuả Đảng về vị trí của vấn đề dân tộc được xác định
trong Hội nghị Trung ương 6 (11/1939): Cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương nói

chung, cũng như cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam nói riêng, muốn thắng lợi phải
đoàn kết và liên lạc với phong trào cách mạng thế giới mà trước hết phong trào giải phóng
dân tộc ở Đông Dương. Hội nghị Ban chấp hành TW8 (5/1941) Đảng ta xác định: “Sau khi
đánh đuổi Pháp - Nhật phải thi hành chính sách: Dân tộc tự quyết, cho các dân tộc ở Đông
Dương”, riêng đối với dân tộc Việt Nam, Đảng ta xác định: Sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật
thắng lợi sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chính quyền Nhà nước là của
chung toàn dân tộc (trừ bọn việt gian tay sai bán nước). Mọi công dân Việt Nam yêu nước
đều có tránh nhiệm bảo vệ và tham gia xây dựng chính quyền. Đảng nhấn mạnh quyền tự
quyết của các dân tộc, song Đảng không quên vai trò và trách nhiệm, nghĩa vụ quốc tế của
mình, ngược lại Đảng luôn luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản - thực hiện nghĩa vụ quốc
tế trước hết đối với cách mạng Lào và Căm - Pu - Chia.


10

10

Nhận thức sự thống nhất giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng
vô sản coi trọng độc lập dân tộc trong từng quốc gia, giải quyết vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thể hiện tinh thần quốc tế vô sản trong sáng của
Đảng ta. Từ đây đã bác bỏ nhận thức giản đơn không ít người về mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc, giai cấp ở Đông Dương, tự cho rằng ba nước Đông Dương có quan hệ gắn
bó lâu đời về nhiều mặt và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Do vậy, vấn đề dân
tộc ở đây phải xem xét trong khuôn khổ trên toàn Đông Dương trong đó bao gồm dân
tộc đa số là Việt Nam, sau đến Lào, Căm - Pu - Chia và nhiều dân tộc thiểu số khác.
Ngay trong quốc tế cộng sản cũng có một thời gian dài coi Đông Dương là một xứ.
Như vậy, với chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông
Dương chỉ có tác dụng động viên tinh thần dân tộc ở mỗi nước. Chống mọi âm mưu xuyên
tạc của các thế lực thù địch, đặt nền móng cho đoàn kết đặc biệt liên minh chiến đấu giữa
ba nước Đông Dương trong lịch sử; mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng Nhà nước ta

giải quyết mối quan hệ ba nước trong giai đoạn lịch sử tiếp theo, nhằm giữ vững củng cố
mối quan hệ truyền thống giữa ba nước.
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng là một quyết định sáng suốt,
phản ánh một nội dung giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ đánh đế quốc và đánh phong
kiến của cách mạng Việt Nam; thể hiện sự trưởng thành vượt bậc mà Đảng ta về lãnh đạo
chính trị, mà cụ thể là năng lực xác định chính xác: Mục tiêu, nhiệm vụ, kẻ thù chủ yếu của
cách mạng, thể hiện tài nghệ của Đảng trong: Tập hợp lực lượng, giải quyết mối quan hệ
giữa thực hiện mục tiêu chủ yếu trước mắt với mục tiêu cơ bản lâu dài, giữa thực hiện
nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu với nhiệm vụ mục tiêu thứ yếu trong từng thời kỳ cách mạng.
Mặt khác, chủ trương còn phản ánh sự vận dụng trung thành và phát triển sáng tạo lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta mà cơ sở nền tảng là Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng, về việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và vấn đề giai
cấp trong cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Vượt qua những sai lầm
ẫu trĩ “tả” khuynh hướng giáo điều trong những năm đầu thành lập của Đảng ta.
Tuy nhiên, có đường lối đúng chưa hẳn đã có thắng lợi của cách mạng, mà muốn đưa
cách mạng đến hoàn toàn thắng lợi hoàn toàn đòi hỏi Đảng phải có tài nghệ, sáng tạo trong
tổ chức thực hiện cách mạng phù hợp với từng giai đoạn nhiệm vụ cách mạng cụ thể.


11

11

Từ khi Đảng ra đời, lãnh đạo nhân dân ta giành chính quyền cho đến nay, không còn
như trước nữa, lịch sử lại đặt ra trước Đảng và dân tộc ta nhiều nhiệm vụ và thách thức
mới trên con đường phát triển của dân tộc. Năm xưa đánh đuổi ngoại xâm giành độc lập
dân tộc là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn. Ngày nay chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi
mới đất nước phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thu được nhiều
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, chúng ta đang
đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp,

không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Trong khi đó chủ nghĩa đế quốca và các thế
lực thù địch, phản động, đặc biệt từ khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chúng lợi dụng sự
sụp đổ ấy tiến công phong trào giải phóng dân tộc và các nước xã hội chủ nghĩa còn lại
trong đó có Việt Nam. Các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm mưu “Diễn biến hoà
bình” gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn
giáo” hòng phá vỡ nền đọc lập dân tộc thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, phá vỡ hệ thống chính
trị ở nước ta, tiến tới xoá bỏ xã hội chủ nghĩa, một số phần tử cơ hội nhân danh cho “dân
chủ”, cho “lý luận” đã ra sức tuyên truyền coi Việt Nam đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là sự “không tưởng” là đãi ngược lại xu hướng tiến bộ, là sự áp đặt miễn cưỡng
của Đảng Cộng sản lên dân tộc. Hơn lúc nào hết, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải sáng
tạo trên mọi lĩnh vực trước hết là yêu cầu việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và giai cấp; giữa vấn đề dân tộc và sự phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua nghiên cứu vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm có giá trị hiện thực đối
với sự nghiệp đổi mới hiện nay của Đảng.
Một là, đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa vấn đề dân tộc
và phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đây là kinh nghiệm có ý nghĩa bao trùm được tổng kết từ thực tiễn lịch sử cách mạng
Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, là vấn đề chiến lược xuyên suốt chỉ đạo toàn bộ quá
trình hoạt động của Đảng ta, mà trước hết là thời kỳ đấu tranh giành chính quyền.
Trong giai đoạn lịch sử của cách mạng, đứng vững trên lập trường giai cấp công
nhân, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, còn là vấn đề số một đặc biệt quan trọng bảo


12

12

đảm cho sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tránh được mọi sự lệch lạc,

đổ vỡ.
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho công cuộc đổi mới đúng
hướng, phải tăng cường nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm bổ sung hoàn chỉnh
lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Coi đây là mục tiêu số một trong công tác lý
luận của Đảng hiện nay, tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối chỉ đạo sự
nghiệp đổi mới đi đúng hướng. Thực hiện những yêu cầu trên còn là sự phản ánh yêu cầu
thực hiện nguyên tắc, kinh nghiệm chỉ đạo công cuộc đổi mới và những kinh nghiệm lớn
mà Đại hội X của Đảng đã tổng kết qua 20 năm đổi mới. Đồng thời trong giai đoạn hiện
nay, đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân còn phải nêu cao tính Đảng, tính chiến
đấu, làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc. Đặc biệt trước những luận điệu: “Để khắc phục mà trước hết là
nguy cơ tham nhũng của một số cán bộ đảng viên có chức, có quyền của Đảng, Đảng phải
trả lại quyền lãnh đạo Nhà nước cho nhân dân” hoặc “để phát triển cách mạng xã hội chủ
nghĩa phải từ bỏ con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Thực chất đây là những quan
điểm phản động muốn tách vấn đề dân tộc ra khỏi giai cấp, tách rời sự lãnh đạo của Đảng
với toàn dân tộc nhằm đi đến thủ tiêu chủ nghĩa xã hội, ca ngợi chủ nghĩa tư bản một chiều
chỉ thấy hình thức bên ngoài, không thấy hết được khả năng thắng lợi to lớn của toàn
Đảng, toàn quân ta trong sự nghiệp đổi mới, bản chất ưu việt của chế độ mới, chế độ xã hội
chủ nghĩa. Cố tình xuyên tạc phủ nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân của Đảng,
cũng như bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mặt khác phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thực hiện hợp tác và đấu tranh để hội nhập với
thế giới ngày nay nhằm phát triển đất nước, còn đòi hỏi phải trên cơ sở giữ vững mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mỗi tổ chức, mỗi cá nhân trong xã hội khi tham gia
hoạt động đối ngoại trên mọi lĩnh vực. Cần phải hiểu đúng tính chất của nội dung vấn đề
dân tộc, từ đó làm cơ sở cho việc dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ mới. Nội dung cần quán triệt là:


13


13

+ Phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để giải quyết mọi
vấn đề thực hiện đặt ra của cách mạng đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ mới.
+ Độc lập dân tộc thực sự là phải bảo đảm cho dân tộc quỳen tự quyết, quyền
lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển. Độc lập dân
tộc đối với mỗi quốc gia không chỉ là độc lập toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chế độ
chính trị, kinh tế mà còn phải biết giữ gìn và phát triển giá trị văn hoá của dân tộc
và tiếp thu những giá trị văn hoá nhân loại phù hợp với quy luật phát triển là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
+ Độc lập dân tộc là không có tình trạng dân tộc này áp bức bóc lột dân tộc khác về
mọi mặt, độc lập phải gắn liền với tự do, bình đẳng, độc lập phải bảo đảm chủ quyền của
dân tộc trong các quan hệ quốc tế, được pháp luật quốc tế thừa nhận và khẳng định trên
thực tế. Đó là chủ quyền của một quốc gia dộc lập dựa trên sự thống nhất trên mọi lĩnh
vực, không có sự ngăn cách khác biệt nào trên toàn lãnh thổ, không có sự can thiệp từ bên
ngoài vào công việc nội bộ của quốc gia dân tộc.
+ Sự trao đổi hợp tác trên tất cả các lĩnh vực giữa các nước phải dựa trên nguyên tắc
bình đẳng càng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau vì hoà bình hữu nghị, hợp tác
- cùng phát triển.
Hai là, phải luôn đổi mới, sáng tạo các hình thức tổ chức phù hợp với từng đối tượng
và yêu cầu nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn.
Cách mạng là sự nghiệp quần chúng, sức mạnh của quần chúng là vô địch, song nó
chỉ trở thành hiện thực thông qua hành động cách mạng của quần chúng, khi họ được giác
ngộ và tổ chức chặt chẽ. Trong cách mạng, quần chúng và sức mạnh quần chúng không
phải chỉ riêng của giai cấp cách mạng và đội tiên phong, mà còn bao gồm tất yếu các giai
tầng và cá nhân trong xã hội. Mặt khác, trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn của cách mạng
đều có nhiệm vụ chủ yếu và yêu cầu thực hiện khác nhau. Do vậy, để tạo sức mạnh tổng
hợp của toàn xã hội và phát huy sức mạnh đó có hiệu quả “Giai cấp lãnh đạo cách mạng

mà trực tiếp là đội tiền phong phải có các hành thức tổ chức vận động quần chúng trên cơ
sở căn cứ vào đặc điểm của từng đối tượng và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ. Chủ yếu của
các mạng trong từng thời kỳ đó”.


14

14

Lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay cho thấy: khi nào có
tổ chức hình thức tập hợp quần chúng phù hợp, thì khi đó Đảng không chỉ tập hợp được
đông đảo quần chúng cho cách mạng mà còn thực hiện thắng lợi một cách nhanh chóng
mọi nhiệm vụ cách mạng đề ra.
Ba là, luôn chăm xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị
trong từng thời kỳ cách mạng.
Luôn chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, là một trong những vấn đề cơ bản mang
tính nguyên tắc của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.
Hiện nay cách mạng nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới công tác xây dựng Đảng phải
đặc biệt coi trọng, coi đó là nhiệm vụ then chốt và cấp bách có ý nghĩa quyết định đối
với vận mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Bởi lẽ, Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Đòi hỏi Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn làm cho Đảng trong sạch đáp ứng
yêu cầu lãnh đạo nhiệm vụ mới. Trước hết Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, Đảng lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta thực hiện sự nghiệp đổi
mới với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đồng thời
lãnh đạo toàn dân, toàn quân đoàn kết đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn chống
phá của các thế lực thù địch, phản động, mà cụ thể là âm mưu “Diễn biến hoà bình” bảo
vệ vững chắc độc lập dân tộc và thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Mối quan hệ dân tộc, giai cấp; là tất yếu khách quan trong cách mạng vô sản. Giải
quyết nó là một đòi hỏi khách quan mang tính nguyên tắc đối với mọi Đảng Cộng sản

trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mục
tiêu trong từng giai đoạn cách mạng, làm cơ sở để tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Song giải quyết mối quan hệ đó như thế nào, kết quả
đến đâu là hoàn toàn phụ thuộc vào tài nghệ, tính đúng đắn sáng tạo của mỗi Đảng Cộng
sản.
Với cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo việc giải quyết mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp mà thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững độc lập dân tộc và phát triển đã trở thành tư tưởng cơ
bản sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng cũng như toàn bộ sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử thời kỳ 1939 - 1945 do Đảng ta đề ra và tổ


15

15

chức thực hiện đường lối giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đã
đưa cách mạng nước ta tiến lên giành thắng lợi hết sức to lớn và thực tiễn đó còn để lại cho
Đảng và cách mạng nhiều kinh nghiệm không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn có giá trị hiện
thực hết sức to lớn đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay. Tạo cơ sở củng cố niềm tin cho
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trong giai đoạn cách
mạng mới, giúp cho Đảng và nhân dân ta giải quyết thoả đáng mối quan hệ biện chứng:
Lịch sử với hiện tại và định hướng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa giữa quốc
gia với quốc tế.
Nghiên cứu lịch sử một cách khoa học còn cho mỗi chúng ta thấy rõ hơn vai trò quan
trọng - nhân tố kiên quyết bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong lịch sử
cũng như trong hiện tại và tương lai, đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đồng thời còn cho chúng ta thấy rõ hơn sự non yếu phiếu diện trong nhận thức và
bản chất phản động của những người phủ nhận lịch sử vẻ vang của Đảng, của dân tộc.




×