Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.17 KB, 18 trang )

Đề bài
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và
giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bài làm
I- Hồ Chí Minh và tư tưởng cua Người
Hồ Chí Minh ( 1980-1969)
Lịch sử cách mạng của nước ta trong gần 80 năm qua gắn liền với tên
tuổi sự nghiệp,tư tưởng và đạo đức của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh,
người anh hùng dân tộc vĩ đại,nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt
Nam.Trong lịch sử dựng nước và giữ nước,dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao
tên tuổi vĩ đại nhưng không ai có sự nghiệp lấy lừng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh, không ai có được tầm vóc thời đại,được thế giới ca ngợi và thừa nhận
như Hồ Chí Minh.
Địa vị có một không hai trong lịch sử dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã được xác lập và củng cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự nghiệp vĩ
đại mà Người đã cống hiến cho cách mạng Việt Nam, cũng như cách mạng
thế giới.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế cho thấy: khi nào chúng ta xa rời hoặc
quán triệt không đầy đủ tư tưởng của Người thì sẽ không tránh khỏi vấp váp
1
và sai lầm.Có thể nói cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin dẫn đường, tư tưởng
Hồ Chí Minh quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Chính vì
vậy, tại Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “ lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng là
bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”.
Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những quan điểm về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-
Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong hệ tư tưởng đó thì nội dung
đầu tiên, cơ bản phải đề cập đến đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Dân


tộc, vấn đề giai cấp và Cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách
mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho
tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Để làm rõ mối quan hệ giữa 2 vấn đề này em xin đi vào: “ Phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và và vấn đề giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh”.
II- Vấn đề dân tộc của Người
I- Quan điểm của Mác- Lênin, Hồ Chí Minh về dân tộc
Quan điểm của Mác-Ăngghen-Lênin về vấn đề dân tộc
 Khái niệm: Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan
hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá
giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.
 Quan điểm của chủ nghĩa Mác: Dân tộc là sản phẩm của lịch sử.
Mác-Ăngghen đã đặt nền tảng lý luận cho việc giải quyết vấn đề
dân tộc một cách khoa học.
 Lênin đã phát triển quan điểm về vấn đề dân tộc thành hệ thống
lý luận toàn diện và sâu sắc
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh – là vấn đề dân tộc thuộc địa
 “Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải
phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của
nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ áp bức, bóc lột thực
2
dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân
tộc độc lập”.
II- Nguồn gốc hình thành tư tưởng về dân tộc của Hồ Chí Minh
Có thể nói, bốn nguồn gốc chính yếu :
+Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
+ Tinh hoa văn hoá nhân loại

+Chủ nghĩa Mác – Lênin
+ Nhân tố chủ quan, bản thân con người Hồ Chí Minh
4 nguồn hình thành nên tư tưởng của Hồ Chín Minh cũng chính là những
nguồn gốc hình thành nên tư tưởng của Người về vấn đề dân tộc chỉ có
sự biểu hiện của nó về các vấn đề, trong các giai đoạn là khác nhau mà
thôi.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã
đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc
và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ
khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một
hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc''
với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-
vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối
với các dân tộc bị thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc
đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa
và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo
đuổi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc
thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết,
Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một cách kiên
quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản
chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế
cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải
ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân
tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan
trọng của vấn đề thuộc địa.
III- Những quan điểm chính của Người về vấn đề dân tộc
3
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thực chất là nghiên cứu

quan điểm của Bác về các dân tộc thuộc địa, nghiên cứu về quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp trên pham vi quốc tế cũng như trong quốc gia dân tộc Việt
Nam, và nghiên cứu về quan hệ giữa Dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác
trên Thế giới. Đó là những vấn đề liên quan đến chiến lược giải phóng dân
tộc bị áp bức. Bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1- Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của tất cả dân tộc.
Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
Kẻ xâm lược thường tự cho dân tộc mình là siêu đẳng, có nghĩa vụ đi
khai hoá dân tộc khác, chúng tự cho mình cái quyền chém giết những dân
tộc yếu hơn để đàn áp, bóc lột, thoả mãn dã tâm của riêng chúng. Chúng coi
mình đứng trên tất cả, cho sự bóc lột của mình là một sự ban phát ân huệ, và
đi rêu rao rằng dân tộc mình đang làm nghĩa vụ khai hoá cho một Dân tộc
khác hèn yếu hơn.(Những tư tưởng và hành động ấy thật là vô sỉ).
Chính vì vậy, độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát
vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống
trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược
và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến
quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do
cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính
vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng
lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của
dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri.
Theo Bác, tất cả các đân tộc phải được độc lập, tự do. Đây là độc lập
hoàn toàn, độc lập thực sự trên tất cả các mật kinh tế, chính trị, quân sự,
ngoại giao và toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề thuộc về chủ quyền dân tộc phải
do chính Dân tộc đó giải quyết, không cá sự can thiệp của nước ngoài. Dân
tộc độc lập trong tư tưởng của Bác còn phải được thể hiện bằng sự ấm no, tự
do, hạnh phúc của nhân dân.
Độc lập thật sự phải gắn với hoà bình thật sự. “Nhân dân chúng tôi

thành thật mong muốn hoà bình…kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ
những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho
đất nước”.
4
Khi đã giành được độc lập tự do thì phải bằng mọi giá để giành và bảo vệ
quyền ấy.
 Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã dc
các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ 1 thừa
nhận, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Người đã gửi tới
Hội nghi Vec- xay bản yêu sách gồm 8 điểm đòi quyền tự do, dân chủ
cho nhân dân Việt Nam. Trong đó nổi lên hai nội dung cơ bản:
+ Cho nhân dân Việt Nam được hưởng chế độ tự trị thuộc Pháp.
+ Cho nhân dân Việt Nam được hưởng các quyền tự do dân chủ, như
những người Pháp và người nước ngoài được hưởng trên lãnh thổ Việt Nam.
 Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rôdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18
của Đảng Xã hội Pháp, họp ngày 29 tháng 12 năm 1920:Tại sao đồng
chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí Minh trả lời: “Rất giản đơn.
Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và
nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý
đến vấn đề thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc
tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi
hiểu.”
 Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ
trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với
ông ta mong muốn của mình và của nhân dân Việt Nam rằng: “Cái
mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được
độc lập…”
 Cách mạng tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính phủ lâm
thời đọc Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế
giới: “Nước VN có quyền hưởng tự do va độc lập. Toàn thể dân tộc VN

quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng va của cải để giữ
vững quyền tự do
độc lập ấy”.
 Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói
chuyện với đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải cương quyết giành cho được độc lập.”
5
 Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc
bằng không quân và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có
thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do.”
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của
đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền
con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi
người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để
dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế
giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình
đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
2- Ở các nước đấu tranh giải phóng dân tộc, chủ nghĩa dân
tộc chân chính là một động lực lớn
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự áp
bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng
nề, thì phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần
chúng lao động (công nhân va nông dân), mà cả các giai cấp và tầng lớp trên
trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản va địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của người
dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập, tự do.
Xuất phát từ phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, chứng
kiên tinh thần đấu tranh quyết liệt của nhân dân các nước thuộc địa, chống

lại tư bản thực dân phương Tây, nhận thức sâu sắc sức mạnh của chủ nghĩa
dân tộc chân chính trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận ở các nước đấu tranh giải phóng dân
tộc, chủ nghĩa dân tộc chân chính là một động lực lớn.
Vi thế, “Người ta sẽ không làm gì được cho người An Nam nếu không dựa
trên các lực lượng vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của nhân dân An
Nam”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính “là một
bộ phận của tinh thần quốc tế”- là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc
chân chính . Nó khác hẳn bản chất với chủ nghĩa dân tộc so vanh, của giai
cấp tư sản, “khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động”
đã bị lịch sử lên án.
6

×