Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT bàn về BỆNH KINH NGHIỆM, GIÁO điều TRONG GIẢI QUYẾT mối QUAN hệ THỰC TIỄN và lý LUẬN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.49 KB, 16 trang )

I. Quan điểm Mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn.
1/ Phạm trù thực tiễn
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong
quan điểm của các nhà triết học trước mình về thực tiễn, Mác và
Ăngghen đã đem lại mét quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và
vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người. Các ông không những trực tiếp tham gia vào hoạt
động thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản mà còn dựa trên thực tiễn
xã hội để khái quát, phát triển lý luận cách mạng. Nhờ đó, làm cho lý luận
gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức thế giới và cải
tạo thế giới. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận của mình, Mác
và Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận
nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Lênin nhận xét rằng:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ
bản của lý luận về nhận thức”.
Ở đây, cần khẳng định rằng, phạm trù thực tiễn không chỉ là phạm
trù của lý luận nhận thức Mácxít, mà còn là phạm trù xuyên suốt của triết
học Mácxít, của toàn bộ lý luận chủ nghĩa Mác nói chung.
Vậy, thực tiễn là gì?
Thực tiễn là những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có
tính lịch sử xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà
chỉ là những hoạt động vật chất để (phân biệt với hoạt động tinh thần,
hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính
của con người. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các
phương tiện, công cụ vật chất, sức mạnh vật chất của mình tác động vào
tự nhiên, xã hội để cải tạo làm biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của
mình. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản thân sự vật



trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi hình ảnh của sự vật trong
nhận thức. Do đó, hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động,
sáng tạo, là hoạt động đối tượng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần
thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể
và khách thể, trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể; trên cơ
sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở thành mắt khâu trung
gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt
động đặc trưng cho con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản
năng, nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con
người nhờ vào thực tiễn – như là hoạt động có ý thức, có mục đích của
mình mà cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một
cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người
không thể thoả mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới
dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật
chất để nuôi sống mình. Để lao động và lao động có hiệu quả, con người
phải biết chế tạo công cụ và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động
thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo nên những vật
phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt động đó, con
người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy,
có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và
xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con
người với thế giới.
Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn có thay đổi
qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn
là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Thực tiễn là
hoạt động có tính chất loài (loài người). Hoạt động đó không thể được
tiến hành chỉ bằng vài cá nhân riêng lẻ, mà phải bằng hoạt động của đông
đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Do đó, về nội dung cũng như về



phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội. Thực tiễn cũng
có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ phát triển của thực
tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của
con người.
Thực tiễn có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng
hoạt động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu
tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó
có liên hệ với nhau, quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động
thực tiễn không thể diễn ra được.
Thực tiễn gồm những dạng cơ bản và những dạng không cơ bản.
Dạng cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là
dạng hoạt động thực tiễn nguyên thuỷ nhất và cơ bản nhất vì nó quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và quyết định các dạng
khác của hoạt động thực tiễn; nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức
khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới
hạn tồn tại của động vật. Một dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động
chính trị - xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã
hội, chế độ xã hội. Ngoài ra, với sự ra đời và phát triển của khoa học, một
dạng cơ bản khác của thực tiễn cũng xuất hiện - đó là hoạt động thực
nghiệm khoa học. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng trở nên quan
trọng do sù phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật
hiện đại.
Trên cơ sở những dạng cơ bản, những dạng không cơ bản của thực
tiễn được hình thành. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong một số
lĩnh vực như đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo ... Sở dĩ gọi là
“không cơ bản” không phải vì những dạng này kém quan trọng mà chỉ vì
chúng được hình thành và phát triển từ những dạng cơ bản, chúng là dạng
thực tiễn phát sinh.



2/ Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và của lý luận nhận thức
mácxít nói riêng. Quán triệt mối quan hệ đó có ý nghĩa quan trọng đối với
nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn cách mạng.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con
người phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực
tiễn lịch sử - xã hội. Quá trình nhận thức diễn ra không đơn giản, thụ
động, máy móc, nhận thức không có sẵn, bất di bất dịch, mà là quá trình
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động,
sáng tạo, biện chứng. Đó là quá trình đi từ không biết đến biết, từ biết Ýt
đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ không đầy đủ và không chính xác trở
thành đầy đủ hơn và chính xác hơn.
Quá trình nhận thức của con người và loài người nói chung trải qua
hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm
tính là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, là sự phản ánh trực tiếp, cụ
thể, sinh động hiện thực khách quan vào các giác quan của con người.
Nhận thức cảm tính gồm các hình thức cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Nhận thức lý tính hay tư duy trìu tượng là giai đoạn cao của nhận thức, nó
là sự phản ánh trìu tượng, khái quát và gián tiếp hiện thực. Nhận thức lý
tính được hình thành từ những tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại và
được thể hiện dưới các hình thức là khái niệm, phán đoán và suy luận.
Nếu nhận thức cảm tính mới dừng lại ở cái bề ngoài, chưa phân biệt được
cái riêng và cái chung, bản chất và hiện tượng .., thì nhận thức lý tính có
thể giúp ta đi sâu vào những mối liên hệ bản chất, phổ biến, tất nhiên, bên
trong của sự vật, do đó nhận thức sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.
Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu dẫn đến sự xuất hiện
của lý luận. Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức,
đồng thời thể hiện như là trình độ cao của nhận thức. Theo Hồ Chí Minh:



Lý luận “là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích luỹ lại trong quá trình lịch sử”
Xét về bản chất , lý luận là một hệ thống những tri thức được khái
quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy
luật của thế giới khách quan. Lý luận được hình thành không phải ở bên
ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực
tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó
thực tiễn giữ vai trò quyết định. Lênin nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn
nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà
cả của tính hiện thực trực tiếp”.
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ
sở, mục đích và động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức nói chung
trong đó có lý luận. Ăngghen nhận xét rằng: “Từ trước tới nay khoa học
tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt
động con người đối với tư duy của họ. Hai môn Êy một mặt chỉ biết có tự
nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi
tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự
nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí
tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự
nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính tỏ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế
giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát
triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế
giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người
nhận thức nhanh chóng. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm
tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp,
khái quát hoá, trừu tượng hoá ... để phát triển thành lý tính, xây dựng

thành lý luận, khoa học phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự


vật, hiện tượng trong thế giới. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp
những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không
có nhận thức, không có lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối
với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khácm dù ở giai đoạn
cảm tính hay lý tính, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều
bắt nguồn từ thực tiễn.
Trong quá trình tồn tại, con người không được thế giới đáp ứng thoả
mãn, nên con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của
mình, và chính trong quá trình biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi
luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của
mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám
phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của
mình về thế giới. Thực tiễn cũng đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương
hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Nhu cầu, thực tiễn đòi hỏi phải
có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, thúc đẩy sù
ra đời phát triển của các ngành khoa học.
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người dược
phát triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Song bản
thân lý luận, khoa học không có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra
đời chính vì và chủ yếu vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của
con người. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức, lý
luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo
thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận,
khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chóng được vận dụng vào thực tiễn,
cải tạo thực tiễn phục vụ mục tiêu phát triển nói chung.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi lý

luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng hạn, đó


là những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên ở nước
ta, về kinh tế thị trường, về hoàn chỉnh hệ thống quan điểm đổi mới,v.v..
Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề trên, chắc chắn lý luận sẽ góp phần
đắc lực vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ
thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư
duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn
không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong
thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý...”.
Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt
được là đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc
chứng minh chân lý, bác bỏ sai lầm.
Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng,
tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối (hay tính xác định) vừa có tính tương
đối (hay tính không xác định). Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì
thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, thực
tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Nhưng tiêu
chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một
chỗ mà biến đổi và phát triển; thực tiễn là một quá trình và được thực
hiện bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiêu
chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người trở
thành những chân lý vĩnh viễn, tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát
triển của thực tiễn và nhận thức, những tin tức đạt được trước kia và hiện
nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì
vậy, những tri thức được thực tiễn chứng minh ở mét giai đoạn lịch sử
nhất định phải tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và
phát triển hoàn thiện hơn. việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn

thực tiễn giúp chúng ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa
giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.


Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý
luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này
yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực
tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận phải liên hệ với thực tiễn, “học đi đôi với hành”. Nếu xa rời thực
tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh
quan liêu, chủ nghĩa xét lại.
Tuy nhiên, việc coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ lý luận,
hạ thấp vai trò của lý luận. Không nên đề cao cái này hạ thấp cái kia, và
ngược lại. Không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận được trực
tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận. Kinh nghiệm và lý luận
là hai trình độ khác nhau của nhận thức, đồng thời lai thống nhất với
nhau; chóng bổ sung cho nhau, giả định lẫn nhau, thâm nhập và chuyển
hoá lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận cũng không
đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy chóng có quan
hệ với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Bởi vì trong nhận thức
kinh nghiệm ngoài hoạt động trực quan của cảm tính, còn có sù tham gia
của yếu tố lý tính. Do đó, có thể coi kinh nghiệm và lý luận là những bậc
thang của lý tính, những khác nhau về đối tượng, về trình độ, tính chất
phản ánh hiện thực, về chức năng cũng như về trật tự lịch sử.
Tri thức kinh nghiệm là tri thức chủ yếu thu được từ quan sát và thí
nghiệm. Tri thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn –
tõ lao động sản xuất, đến đấu tranh xã hội hoặc thí nghiệm khoa học. Có
hai loại tri thức kinh nghiệm: 1) tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền
khoa học) thu được từ những quan sát hàng ngày trong cuộc sống và lao
động sản xuất; và 2) tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ

những thí nghiệm khoa học. Trong sù phát triển của xã hội, hai loại tri
thức kinh nghiệm này ngày càng xâm nhập lẫn nhau. Tri thức kinh
nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện, miêu tả, phân loại các dữ kiện thu


nhận được tư quan sát và thí nghiệm. Tri thức kinh nghiệm đã mang tính
trừu tượng và khái quát song mới là bước đầu và còn hạn chế.
Tri thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu được trong cuộc
sống hàng ngày của con người, và có vai trò quan trọng trong đấu tranh
cách mạng, nhất là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội – mét sự
nghiệp rất mới mẻ và đầy khó khăn phức tạp. Ở đây, không thể tìm câu
câu giải đáp cho mọi vấn đề của thực tiễn cách mạng đặt ra tõ trong sách
vở hay bằng suy diễn thuần túy từ lýluận có sẵn. Chính kinh nghiệm của
đông đảo quần chúng nhân dân trong đấu tranh cách mạng sẽ đem lại cho
chúng ta những bài học quan trọng.
Kinh nghiệm là cơ sở để chúng ta kiểm tra lý luận, sửa đổi, bổ sung
lý luận đã có, tổng kết khái quát thành lý luận mới.
Nhưng, tri thức kinh nghiệm còn hạn chế bởi nó chỉ mới đem lại sự
hiểu biết về các mặt riêng rẽ, về các mối liên hệ bên ngoài của sự vật và
còn rời rạc. Ở trình độ tri thức kinh nghiệm chưa thể nắm được cái tất yếu
sâu sắc nhất, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng. Ăngghen
nhận xét: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tù nã không bao giờ có thể
chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”.
Vì vậy, không nên coi thường kinh nghiệm song còng không nên
cường điệu kinh nghiệm; không nên dừng lại ở kinh nghiệm mà cần nâng
lên trình độ lý luận.
Lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức
lý luận là tri thức khái quát tõ tri thức kinh nghiệm, nó tồn tại trong hệ
thống các khái niệm, phạm trù, quy luật của lý luận nói chung. Lý luận
được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm nhưng

lý luận không hình thành một cách tự phát. Từ kinh nghiệm nhưng không
phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát tõ kinh nghiệm. Do tính độc lập
tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dự kiện kinh nghiệm. Tuy


nhiên, điều đó vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh
nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát
cao, nhờ đó, nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên,
tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Nhận thức lý luận là
nhận thức hướng vào nắm bắt bản chất, quy luật của sự vật. Do đó, theo
Mác, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sù vận động bề ngoài
chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong của sự vật.
Như vậy, lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ
thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó, phạm vi ứng
dụng của nó cũng phổ biến hơn, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh
nghiệm.
Nhờ có những ưu điểm trên đây, lý luận có vai trò rất lớn đối với
thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông
qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động,
soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lênin viết: “Không có lý luận cách
mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh
vật chất, lý luận có thể dự kiến được sự vận động và phát triển của sự vật
trong tương lai, chỉ ra những phương hướng mới cho sù phát triển của
thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mới làm cho hoạt động của con người
trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát.
Tuy nhiên, mặt khác cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu
tượng cao trong sù phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời
thực tiễn và trở thành ảo tưởng, giáo điều. Khả năng Êy càng tăng lên nếu

lý luận đó lại bị chi phối bởi hệ tư tưởng không khoa học, phản động và
thái độ độc quyền chân lý.


Vì vậy, phải coi trọng lý luận, nhưng không cường điệu vai trò lý
luận, coi thường thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn. Điều đó cũng
có nghĩa, phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng. Hồ Chí Minh viết:
“Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
Chính chủ nghĩa Mác - Lênin là tiêu biểu cho sù gắn bó mật thiết
giữa lý luận với thực tiễn trong quá trình hình thành và phát triển của nã.
Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội,
là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh
vực cụ thể để xây dựng nên hệ thống lý luận khoa học hoàn chỉnh. Sức
mạnh của nó là ở chỗ nó gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội. Chính Lênin
đã nêu một tấm gương sáng về sự phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác
trong điều kiện thực tiễn mới.
Kinh nghiệm tiến hành chiến tranh cách mạng vào quá trình xây
dựng kinh tế trong hoà bình; áp dụng máy móc kinh nghiệm của địa
phương này vào địa phương khác ... Ở đây, bệnh giáo điều thể hiện thành
“giáo điều kinh nghiệm”.
Như vậy, bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai
trò lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan
điểm lịch sử – cụ thể, áp dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy
móc.
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hoá kinh
nghiệm, coi thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ
thấp vai trò lý luận. Người mắc bệnh kinh nghiệm thường thoả mãn với

vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học lý luận, không chịu nâng cao trình độ
lý luận, coi thường khoa học – kỹ thuật, coi thường giới tri thức, thiếu
nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ. Ở nước ta, điều kiện sản xuất nhỏ là


phổ biến, trình độ dân trí còn thấp, khoa học – kỹ thuật chưa phát triển, tư
tưởng Nho giáo phong kiến còn ảnh hưởng nhiều trong nhân dân là mảnh
đất lợi cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy sinh.
Như vậy, sự yếu kém về lý luận là một nguyên nhân trực tiếp và rất
quan trọng của bệnh kinh nghiệm. Tuy nhiên, sự yếu kém về lý luận
không chỉ dẫn đến bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn đến bệnh giáo điều. Bởi
vì, chính sự yếu kém về lý luận làm cho chúng ta dễ tiếp thu lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin một cách đơn giản, phiến diện, cắt xén, sơ lược,
không đến nơi đến chốn. Việc tiếp thu lý luận từ trình độ tư duy kinh
nghiệm dễ dẫn đến làm méo mó lý luận. Trước đây, khi nói về Đảng ta,
Hồ Chí Minh cho rằng Đảng ta còn có nhiều nhược điểm, mà mét trong
những nhược điểm lớn là trình độ lý luận còn thấp kém. Có thể nói, nhận
định đó ngày nay vẫn đúng. Vì vậy, nâng cao một cách căn bản trình độ
lý luận, trình độ trí tuệ của Đảng, là một phương hướng quan trọng và cấp
bách để khắc phục cả bệnh kinh nghiệm, và cả bệnh giáo điều trong cán
bộ ta.
Ý thức được tình trạng thiếu tri thức khoa học và yếu kém về lý luận,
Đảng ta đã vạch ra phương hướng và đề ra biện pháp khắc phục hạn chế
đó. Tuy nhiên, đây là một hạn chế lịch sử không tránh khỏi đối với giai
cấp vô sản trong buổi đầu cách mạng, một tình trạng hoàn toàn tự nhiên.
đối với giai cấp vô sản và cán bộ, đảng viên ở nước ta, hạn chế đó càng
không tránh khỏi, bởi vì trong xã hội cũ nhân dân ta không có điều kiện
học tập văn hoá, khoa học, hơn nữa trong mét thời gian dài, Đảng ta và
nhân dân ta phải tập trung mọi sức lực và trí tuệ cho cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Nhưng vấn đề quan

trọng là không nên để kéo dài nhược điểm trên đây, mà phải tìm mọi cách
khắc phục nã một cách nhanh chóng.


Để khắc phục sự yếu kém về lý luận, trước hết, phải coi trọng lý luận
và công tác lý luận, phải đổi mới công tác lý luận của Đảng trên nền tảng
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phải quán triệt nhiệm
vụ và hướng nghiên cứu chủ yếu cũng như những phương châm lớn chỉ
đạo hoạt động lý luận đã được nêu ra trong Nghị quyết của Bộ Chính trị
Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay.
Phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý
luận, thu hẹp tối đa khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn. Phải đổi mới
việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn; tõ bá lối nghiên cứu kinh viện, tư
biện; thường xuyên đối chiếu lý luân với cuộc sống, kết hợp lý luận với
thực tiễn, vận dụng lý luận vào hoàn cảnh thực tế cách mạng nước ta một
cách sáng tạo.
Coi trọng tổng kết thực tiễn là một phương pháp căn bản trong hoạt
động lý luận. Đó cũng là phương pháp cơ bản để khắc phục bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều, thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn. Qua tổng kết thực tiễn mà sửa đổi, phát triển lý luận đã có, bổ sung
hoàn chỉnh đường lối, chính sách, hình thành lý luận mới, quan điểm mới
để chỉ đạo sự nghiệp đổi mới xã hội nước ta.
III- Vai trò của lý luận trong thời đại ngày nay
Lịch sử phát triển của khoa học chỉ ra rằng, vai trò của lý luận khoa
học ngày càng tăng lên. đối với sự phát triển xã hội, xu hướng đó thể hiện
trong quá trình phát triển tõ tri thức tiền khoa học đến tri thức khoa học;
tõ tri thức kinh nghiệm đến tri thức lý luận; tõ khoa học thực nghiệm đến
khoa học lý thuyết; tõ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội.
Đặc biệt, trong giai đoạn mới của thời đại ngày nay, tõ thập kỷ 80
với những biến đổi sâu sắc làm thay đổi bộ mặt của thế giới, với cuộc đấu

tranh giai cấp và dân tộc đang diễn ra gay go, phức tạp, với sự phát triển
mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, vai trò lý luận khoa học càng trở nên quan trọng. Chỉ có bằng tư duy


lý luận khoa học mới có thể lý giải được tính chất hết sức đa dạng, phức
tạp và đầy mâu thuẫn với những biến động to lớn thời đại ngày nay.
Chủ nghĩa tư bản thích nghi được với thời đại, tiếp tục duy trì sự tồn
tại của mình và phát triển nhờ sử dụng những thành tựu mới của khoa học
và công nghệ, sử dụng kết quả của các học thuyết xã hội và những biện
pháp khác. trong các nước xã hội chủ nghĩa, trong mét thời gian dài lý
luận cách mạng bị lạc hậu, giáo điều, do không được bổ sung, phát triển,
không theo kịp yêu cầu của thực tiễn nên đã dẫn đến sự khủng hoảng về
lý luận của chủ nghĩa xã hội. Sự khủng hoảng về lý luận là mét trong
những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nói
chung. Vừa qua do quá trình cải cách, cải tổ ở mét sè nước xã hội chủ
nghĩa không được soi sáng bởi lý luận đúng đắn, nên đã đưa lại những
hậu quả hết sức nặng nề. Chế độ xã hội chủ nghĩa không những không
được tăng cường, mà trái lại, còn bị suy yếu thêm, và đi đến bị sụp đổ
trong mét loạt nước.
Ở nước ta, công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội do Đảng ta khởi
xướng đã thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tuy nhiên,
tính chất khó khăn và phức tạp của sự nghiệp đổi mới cũng như chiều sâu
và tầm cỡ của nó đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận lớn lao và gay cấn, đòi
hỏi phải được giải quyết. Cho nên, có thể nói rằng, chưa bao giờ lý luận
lại cần thiết và có.
Tầm quan trọng lớn như hiện nay. Lý luận trở thành hiện thân đối
với sự nghiệp đổi mới nói riêng, đối với toàn bộ vận mệnh của chủ nghĩa
xã hội nói chung.
Muốn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đi đến thành công, Đảng ta cần

phải tự đổi mới và tự chỉnh đốn, trước hết phải nâng cao trình độ trí tuệ,
trình độ lý luận của Đảng. Theo Lênin: Chỉ Đảng nào được một lý luận
tiền phong hướng dẫn, thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên
phong.


Lý luận phải trở thành cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường
lối, chính sách của Đảng, phải cung cấp nội dung khoa học cho đổi mới,
phải góp phần vào công tác tư tưởng của Đảng. Đó là trách nhiệm nặng
nề và vẻ vang của lý luận trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta.
IV- Kết luận
Lý luận đóng vai trò kim chỉ nam soi đường dẫn dắt chỉ đạo hoạt
động thực tiễn; lý luận góp phần giáo dục thuyết phục động viên tập hợp
quần chúng để tạo thành mét phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội; lý luận có thể dự báo được tương lai do
đó nó định hướng, dự báo hoạt động thực tiễn của con người, giúp con
người hoạt động một cách chủ động và hiệu quả.
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng: thực tiễn quy định
lý luận, lý luận phụ thuộc vào thực tiễn; mặc dù lý luận bị quy định bởi
thực tiễn nhưng lý luận có thể tác động trở lại thực tiễn, sự tác động trở
lại của lý luận với thực tiễn đa dạng, phức tạp nhưng tựu chung lại có 2
hướng cơ bản: Hướng tính cực nghĩa là thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Hướng tiêu cực thì kĩm hãm kinh tế xã hội phát triển. Tuy nhiên mức độ
và phạm vi tác động của lý luận đối với thực tiễn phụ thuộc vào tính đúng
đắn khoa học của lý luận, phụ thuộc sự xâm nhập của lý luận vào quần
chúng nhân dân, phụ thuộc vào chủ thể lãnh đạo quản lý phải biết vận
dụng sáng tạo, đúng đắn.
Trong mối quan hệ đó, thực tiễn giữ vai trò cơ sở, nó là động lực, là
mục đích của lý luận, là tiêu chuẩn của chân lý. Mặt khác, lý luận không
phản ánh một cách thụ động, mà có vai trò như kim chỉ nam vạch phương

hướng cho thực tiễn, nó chỉ rõ những phương pháp hành động có hiệu
quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Vì vậy, muốn lãnh đạo sự nghiệp


đổi mới đi đến thành công chúng ta khẳng định: phải đổi mới tư duy lý
luận trước khi đổi mới thực tiễn là luận điểm đúng đắn, phù hợp với quy
luật phát triển của xã hội.



×