Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - ĐẶC TRƯNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI VIỆC KHẮC PHỤC NHỮNG SAI LẦM TRONG LỐI TƯ DUY HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.77 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1.
2.

Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật
Vai trò của phép biện chứng duy vật đối với
việc khắc phục những sai lầm trong tư duy

KẾT LUẬN

MỞ ĐẦU


Phép biện chứng duy vật trong triết học Mác-Lênin ra đời không phải là
một hiện tượng ngẫu nhiên, ý muốn chủ quan của một giai cấp trong lực
lượng xã hội, càng không phải do thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên nào
khác tạo ra, mà nó hoàn toàn mang tính tất yếu khách quan, phù hợp với quy
luật vận động phát triển của lịch sử nhân loại.
Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với quy luật phát
triển của nhận thức. Đây là một khoa học triết học toàn diện nhất, sâu sắc và
triệt để nhất của sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Với bản chất
khoa học và cách mạng, phép biện chứng duy vật đã, đang và tiếp tục cung
cấp cho chúng ta hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến, thực sự
khoa học và có hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội nói
chung. Với ý nghĩa đó, làm rõ vấn đề “Đặc trưng và vai trò của phép biện
chứng đối với việc khắc phục những sai lầm trong tư duy hiện nay” là một
việc mang tính thời sự có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà cả trong thực
tiễn, không chỉ đối với lịch sử, hiện tại mà cả tương lai để khắc phục những
sai lầm trong tư duy nhất là tư duy về công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.



NỘI DUNG


1. c trng c bn ca phộp bin chng duy vt
K tha cú chn lc nhng t tng bin chng trong lch s trit hc
nhõn loi, da trờn c s khỏi quỏt nhng thnh tu mi nht ca khoa hc
thi y v thc tin lch s loi cng nh thc tin xó hi, vo gia th k
XIX, C.Mỏc v Ph.ngghen ó sỏng lp ra phộp bin chng duy vt, v sau
c Lờnin phỏt trin vo u th k XX, em li cho phộp bin chng mt
hỡnh thc mi v cht. ú l phộp bin chng duy vt.
C.Mỏc v Ph.ngghen cho rng bn cht ca phộp bin chng duy vt l:
xem xột nhng s vt v nhng phn ỏnh ca chỳng trong t tng trong
mi liờn h qua li ln nhau gia chỳng, trong s rng buc, s vn ng, s
phỏt sinh v s tiờu vong ca chỳng1 v phộp bin chng l mụn khoa hc
v nhng quy lut ph bin ca s vn ng v s phỏt trin ca t nhiờn, ca
xó hi loi ngi v ca t duy2.
Quỏ trỡnh bo v v phỏt trin phộp bin chng duy vt ca Mỏc, từ các
gúc tiếp cận khác nhau, Lênin ó a ra một số định nghĩa về phép biện
chứng. Vi cỏch tip cn theo gúc mõu thun, Lờnin vit: Phộp bin
chng l hc thuyt v s thng nht v u tranh ca cỏc mt i lp 3. Vi
cỏch tip cn theo gúc phỏt trin, Lờnin quan nim phộp bin chng l
hc thuyt v s phỏt trin di hỡnh thc hon b nht, sõu sc nht v khụng
phin din4.
Nh vy, phộp bin chng duy vt l nh cao ca t duy nhõn loi, l
hỡnh thc phỏt trin cao nht, hon b nht ca phộp bin chng. Vi tớnh cỏch
l mt khoa hc v l hỡnh thc phỏt trin cao nht ca t duy nhõn loi, phộp
bin chng duy vt cú nhng c trng c bn sau:
Phộp bin chng duy vt l mt khoa hc mang tớnh h thng. Phộp
bin chng duy vt c xõy dng trờn c s mt h thng hon chnh ca

1

C.Mỏc v ngghen, Ton tp, Nxb CTQG, HN. 1994, tp 20, tr38
C.Mỏc v ngghen, Ton tp, Nxb CTQG, HN. 1994, tp 20, tr201
3
V.I.Lờnin, Ton tp, Nxb, Tin b, M.1981, tp 29, tr240
4
V.I.Lờnin, Ton tp, Nxb, Tin b, M.1980, tp 23, tr53
2


các yếu tố hợp thành. Hệ thống đó bao gồm hai nguyên lý, ba quy luật và sáu
cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật phản ánh đúng đắn thế giới
hiện thực.
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và
đóng vai trò xương sống trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật,
hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự
vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
khái quát bức tranh thế giới với những mối liên hệ chằng chịt, đa dạng và
phong phú cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Tính chất vô hạn của thế giới,
cũng như tính chất có hạn của mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình chỉ có thể giải
thích được trong mối liên hệ phổ biến và được quy định bởi rất nhiều loại liên
hệ có vị trí, vai trò khác nhau. Bản chất của thế giới là sự liên hệ phổ biến. Do
đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở để rút ra nguyên tắc toàn diện
chỉ đạo mọi hoạt động nhận thức và và thực tiễn của con người.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi
xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn
luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản

đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Đó chính là
đặc trưng biện chứng phổ quát nhất của thế giới. Vì vậy, nguyên lý về sự phát
triển là cơ sở để rút ra nguyên tắc phát triển chỉ đạo mọi hoạt động nhận thức
và hành động của con người.
Nội dung các quy luật và các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật
là sự cụ thể hoá nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Trong
đó, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật phản ánh sự phát triển
của thế giới hiện thực trên những phương diện cơ bản nhất. Các quy luật cơ


bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi
hoạt động của con người để thực hiện nguyên tắc lịch sử - cụ thể trên các
phương diện: nguồn gốc, động lực; cơ chế, cách thức và xu hướng phát triển
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy
luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
và là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật trong triết học
Mác - Lênin, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Quy luật này vạch ra
nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, theo đó nguồn gốc của sự
phát triển chính là mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn nội tại trong bản
thân mỗi sự vật, hiện tượng. Vì vậy, khi vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn, cần
phải xác định được mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng, phải phân tích các mâu
thuẫn và quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Theo Lênin, “Sự phát triển
là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập là cơ sở phương pháp luận chỉ đạo mọi phương pháp
đấu tranh cụ thể của con người với tự nhiên và xã hội.
Quy luật lượng - chất hay còn gọi là quy luật chuyển hóa từ những thay
đổi về sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là
một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác
- Lênin, chỉ cách thức của sự vận động, phát triển, theo đó sự phát triển được

tiến hành theo cách thức biến đổi dần dần về lượng đến giới hạn nhất định,
vượt quá điểm nút, phá vỡ độ của sự vật thực hiện bước nhảy về chất trong
mỗi sự vật dẫn đến chuyển hóa về chất của sự vật và đưa sự vật sang một
trạng thái phát triển chất lượng mới. Quy luật này là cơ sở phương pháp luận
cho mọi cơ chế của sự phát triển với các yêu cầu cơ bản là phải thường xuyên
tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sự thay đổi về chất, chống chủ quan
duy ý chí; khi lượng tích luỹ đạt đến độ, cần kiên quyết thực hiện bước nhảy,


chống bảo thủ, trì trệ và cần vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy để
đẩy nhanh quá trình phát triển.
Quy luật phủ định hay quy luật phủ định của phủ định là một trong ba
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ
ra khuynh hướng của sự phát triển, theo đó sự phát triển của sự vật, hiện
tượng có xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao
hơn, phát triển theo hình xoắn trôn ốc. Quy luật này là cơ sở phương pháp
luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp nhận
thức và hành động của con người. Phủ định biện chứng phải có tính kế thừa
nhưng là sự kế thừa chọn lọc, lọc bỏ, cải tạo và phê phán, chống kế thừa, máy
móc và phủ định sạch trơn đối với quá khứ. Nguyên tắc phủ định biện chứng
trang bị phương pháp khoa học để tiếp cận lịch sử và dự kiến được những
hình thái vận động cơ bản trong tương lai.
Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật là những khái
niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực. Vì vậy, các cặp phạm
trù và các quy luật của phép biện chứng duy vật cho ta phương pháp luận thực
hiện quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển gắn liền với quan điểm lịch
sử - cụ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Các cặp phạm trù cái riêng và cái chung, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản
chất và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận trực tiếp của các phương pháp

như phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, khái quát hoá và trừu tượng
hoá... giúp chúng ta rút ra được mối liên hệ bản chất, từ đó hiểu được toàn bộ
mối liên hệ theo hệ thống nhất định. Các cặp phạm trù nguyên nhân và kết
quả, khả năng và hiện thực lại là cơ sở phương pháp luận để chỉ rõ trình tự kế
tiếp nhau của mối liên hệ và sự phát triển là một quá trình tự nhiên. Cặp phạm
trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng hình thức


tn ti trong s ph thuc vo ni dung, phn ỏnh tớnh a dng ca cỏc
phng phỏp nhn thc v hot ng thc tin.
Quan im lch s - c th l kt qu trc tip ca vic vn dng cỏc
nguyờn lý, cỏc cp phm trự v quy lut c bn ca phộp bin chng duy vt;
l c s phng phỏp lun quan trng cho mi ngi trong hot ng nhn
thc v ci to hin thc. Phõn tớch c th mi tỡnh hỡnh c th l yờu cu bt
buc ca nguyờn tc ny, l bn cht, linh hn sng ca ch ngha Mỏc.
Chõn lý l c th, cỏch mng l sỏng to, xa ri nguyờn tc ny s dn n
ch ngha giỏo iu, kinh vin.
Phộp bin chng duy vt l mt khoa hc mang tớnh hon b.
Phộp bin chng duy vt cú s thng nht gia bin chng khỏch quan
v bin chng ch quan. Bin chng khỏch quan l bin chng ca s vt,
hin tng, quỏ trỡnh tn ti bờn ngoi v c lp vi ý thc con ngi.
Bin chng ch quan l t duy bin chng, l bin chng ca chớnh quỏ trỡnh
phn ỏnh hin thc khỏch quan vo u úc con ngi.
Bin chng khỏch quan v bin chng ch quan luụn cú mi quan h
thng nht vi nhau. Trong mi quan h ú, bin chng khỏch quan quy nh
bin chng ch quan. Tuy nhiờn, bin chng ch quan cú tớnh c lp tng
i v tỏc ng tr li bin chng khỏch quan. S thng nht gia bin chng
khỏch quan v bin chng ch quan ó quy nh tớnh khỏch quan trong nghiờn
cu khoa hc v l c s phng phỏp lun chung nht ca hot ng thc
tin ci to t nhiờn v xó hi. Trờn c s lun gii mi quan h gia bin

chng khỏch quan v bin chng ch quan, Ph.ngghen đòi hỏi t duy khoa
học vừa phải phân định rõ ràng, vừa phải thấy sự thống nhất về cơ bản giữa
biện chứng khách quan với biện chứng chủ quan để thoát ra khỏi sự cầm tù
của phơng pháp t duy siêu hình và trở về với phép biện chứng một cách tự
giác.
Phộp bin chng duy vt cú s thng nht gia tớnh khoa hc v tớnh
cỏch mng. Phộp bin chng duy vt khụng phi l mt sn phm thun tuý


của tư duy, cũng không phải được rút ra từ một lực lượng siêu nhiên thần bí
nào mà nó được rút ra từ giới tự nhiên và lịch sử. Phép biện chứng duy vật có
sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận nhận thức và lôgíc biện chứng. Nó vừa là
thế giới quan đúng đắn vừa là phương pháp luận khoa học, do đó đem lại tính
tự giác cho con người trong hoạt động, đồng thời là phương pháp nhận thức
và cải tạo thế giới một cách tích cực. Phép biện chứng duy, vật về bản chất, là
có tính phê phán và cách mạng sâu sắc. Đối với phép biện chứng duy vật,
“Không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra - trên mọi sự
vật và trong mọi sự vật - dấu ấn của sự suy tàn tất yếu, và đối với nó, không
có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự hình thành và sự tiêu vong,
của sự tiến triển vô cùng vô tận từ thấp lên cao”1.
Lênin đã khẳng định phép biện chứng duy vật là “linh hồn” của chủ
nghĩa Mác, làm cho học thuyết Mác không phải là một giáo điều mà là kim
chỉ nam cho mọi hành động. Phép biện chứng duy vật chỉ rõ nguồn gốc, động
lực của sự phát triển là quá trình giải quyết mâu thuẫn bên trong bản thân sự
vật, hiện tượng; cách thức của sự phát triển là quá trình tích luỹ về lượng đến
một giới hạn nhất định tạo nên sự nhảy vọt về chất; con đường phát triển là
quanh co, phức tạp theo đường “xoáy ốc”. Với tinh thần cách mạng và sáng
tạo, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã xây dựng phép biện
chứng duy vật trở thành một khoa học độc lập, có đối tượng nghiên cứu xác
định, có nội dung hết sức phong phú và hệ thống. Vì vậy, phép biện chứng

duy vật là một hệ thống hoàn bị và mang tính chất “mở”, nó đem lại nhận
thức chính xác về bức tranh tổng thể của thế giới khách. Phép biện chứng duy
vật không chỉ là một hệ thống lý luận phản ánh hiện thực khách quan, mà còn
là một hệ thống phương pháp luận chung nhất của con người trong nhận thức
và cải tạo thế giới.

1

C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN. 1994, tập 21, tr395


Phép biện chứng duy vật có sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng. Triết học Mác ra đời đã khắc phục được sự tách rời
thế giới quan duy vật và phép biện chứng. Song, nó không phải là sự "lắp
ghép" đơn thuần phép biện chứng với đỉnh cao là phép biện chứng của
Hêghen và chủ nghĩa duy vật với đỉnh cao là chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc.
Để xây dựng triết học duy vật biện chứng, C.Mác đã phải tiến hành phê phán
và cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật
siêu hình của Phoiơbắc, tạo ra một phương pháp tư duy biện chứng "không
những khác phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với
phương pháp ấy"1 và giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình
vốn có, tính hạn chế "đặc thù" của nó, làm cho nó trở nên "hoàn bị" và được
mở rộng "từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài
người", sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách "thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học"2.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất trên giữa phép biện chứng, lý
luận nhận thức và lôgíc biện chứng. Vấn đề thống nhất phép biện chứng,
nhận thức luận và lôgích học là vấn đề thực chất của triết học Mác. Vấn đề
này có liên quan đến triết học truyền thống trong lịch sử, lịch sử triết học đã
đặt ra vấn đề mới quan hệ giữa bản thể luận, nhận thức luận và lôgích học. Ở

những thời kỳ khác nhau, ở những nhà triết học khác nhau, đã có những quan
điểm khác nhau và đối lập nhau. Có quan điểm cho rằng, ba bộ phận đó hoàn
toàn tách rời nhau, không có liên quan gì với nhau; có quan điểm ngược lại
cho rằng, ba bộ phận đó thống nhất với nhau, gắn bó với nhau.
Đến thời cận đại, quan điểm siêu hình chi phối, nên nhiều nhà triết học
có quan điểm cho rằng ba bộ phận đó tách rời nhau. Điển hình nhất là triết
học của Cantơ. Ba bộ phận đó trong triết học của Cantơ là hoàn toàn tách biệt.
Cantơ thừa nhận sự tồn tại của "vật tự nó", nhưng con người không thể nhận
1
2

C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN. 1994, tập 23, tr35
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 23, tr 53


thức được. Hơn thế nữa, Cantơ còn nêu ra lôgích tiên - nghiệm, những khái
niệm, phạm trù của nó là sự sáng tạo thuần tuý chủ quan trong đầu óc con
người.
Hêghen đã phê phán thuyết bất khả tri và lôgích tiên nghiệm của Cantơ.
Ông đã thống nhất ba bộ phận của triết học là bản thể luận, nhận thức luận và
lôgích học. Nhưng sự thống nhất của ba vế đó ở Hêghen đặt trên cơ sở của
chủ nghĩa duy tâm khách quan, tức là phép biện chứng của tinh thần tuyệt đối.
Mác và Ăngghen đã phê phán phép biện chứng duy tâm khách quan đó
của Hêghen và lật ngược lại đặt phép biện chứng trên cơ sở duy vật. Song,
Mác và Ăngghen chưa có điều kiện để đi sâu trình bày hệ thống vấn đề thống
nhất của ba vế này của phép biện chứng trong triết học.
Trong tác phẩm “Bút ký triết học”, Lênin đã đặc biệt quan tâm đến phép
biện chứng và sự thống nhất phép biện chứng, nhận thức luận và lôgích học.
Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng triết học của Hêghen, Lênin đã phân
tích, phê phán, nêu ra những nhận xét, đánh giá và hình thành những quan

điểm khoa học của vấn đề này và từ đó phát triển phép biện chứng duy vật
của triết học Mác.
Phép biện chứng của giới tự nhiên tồn tại một cách khách quan, con
người thông qua hoạt động thực tiễn có khả năng nhận thức được phép biện
chứng khách quan đó và bản thân của quá trình nhận thức đó cũng là một quá
trình biện chứng. Sự nhận thức đúng đắn phép biện chứng khách quan đó phải
thông qua những khái niệm, phạm trù, quy luật của tư duy con người mới có
thể tiếp cận tới chân lý. Có thể nói, Lênin là người đầu tiên đã trình bày một
cách có hệ thống vấn đề thống nhất của ba vế này của phép biện chứng. Cơ sở
của sự thống nhất đó là phép biện chứng khách quan, con đường phản ánh
phép biện chứng khách quan đó là quá trình nhận thức của con người và kết
quả đạt tới đó là chân lý, đó là phép biện chứng trong những khái niệm phạm
trù của tư duy biện chứng.


Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là quá
trình phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người. Vì vậy,
quá trình nhận thức phải liên hệ hữu cơ với các sự vật của thế giới vật chất
với sự vận động và phát triển của chúng. Mặt khác, do tiến trình lôgíc của
nhận thức về căn bản phù hợp với tiến trình phát triển lịch sử của thế giới vật
chất, nên lý luận nhận thức và lôgíc học cũng phù hợp với nhau. Cơ sở của sự
phù hợp đó chính là thực tiễn lịch sử nhận thức của con người về thế giới.
Sự thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học (biện
chứng) được thể hiện là sự đồng nhất trên tính phổ biến của các quy luật của
phép biện chứng. Tư duy và nhận thức có những đặc điểm không giống nhau
trong quá trình phát sinh và phát triển của chúng mà có thể có những quy luật
vận động riêng, thể hiện tính độc lập tương đối của chúng không chỉ so với
phép biện chứng mà còn so giữa chúng với nhau. Tư duy và nhận thức không
thể tách rời hiện thực khách quan và không thể tách rời những quy luật của
hiện thực là cội nguồn làm nên sự đồng nhất giữa phép biện chứng, lý luận

nhận thức và lôgíc học.
Sự thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học là
sự thống nhất về thực chất (và là sự thống nhất trên cơ sở thực chất của phép
biện chứng), chúng đều là những học thuyết về sự phát triển được xây dựng
trên quan niệm duy vật về bản chất của nhận thức.
Sự thống nhất trên cơ sở lấy phép biện chứng duy vật làm nền tảng làm
cho phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học gắn bó mật thiết với
nhau và phép biện chứng có một vai trò đặc biệt đối với khoa học về tư duy
(tức lôgíc học) và khoa học về sự phát triển nhận thức (tức lý luận nhận thức).
Sự thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học như vậy
mới cho phép giải thích được tại sao những yêu cầu cơ bản của phép biện
chứng lại trở thành những nguyên tắc của lôgíc biện chứng.


Sự thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học là
sự thống nhất trên cơ sở thực tiễn. Toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của
phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học đã chứng minh điều đó.
Phép biện chứng duy vật là một khoa học mang tính tự giác. Trên cơ
sở khái quát những thành quả mới nhất của khoa học đương thời và xác
định đúng đắn những quy luật vận động và phát triển chung nhất của thế
giới, đồng thời phân định rõ và tìm ra sự thống nhất về cơ bản giữa biện
chứng khách quan và biện chứng chủ quan, C.Mác không chỉ cải tạo triệt để
phép biện chứng duy tâm khách quan mà đỉnh cao là ở Hêghen, mà còn
khắc phục được những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ
đại mà Hêraclít là người sáng lập, làm cho phép biện chứng duy vật trở
thành một khoa học. Khoa học đó, như Ph.Ăngghen đã khẳng định, là
"khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của
tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy".
Khoa học triết học này không chỉ là thế giới quan khoa học của giai
cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại ngày nay, mà còn trở

thành một sự cần thiết tuyệt đối, thành "hình thức tư duy quan trọng nhất",
cao nhất, thích hợp nhất đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Nó
đem lại cho các khoa học hiện đại những chức năng có ý nghĩa phương
pháp luận trong việc xem xét, lý giải bản thân sự phát triển của mình. Không
chỉ thế, với bản chất cách mạng và khoa học, nó còn đem lại một cơ sở đúng
đắn cho việc luận chứng và giải thích những hiện tượng của đời sống xã hội,
nhất là cho việc "cải tạo thế giới" hiện thực. Nó cũng đem lại cho chúng ta
không chỉ quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển trong nhận thức, trong
hoạt động thực tiễn, mà cả quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, giải quyết
mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Phép biện chứng duy vật là một khoa học mang tính chất “mở”. Với
tính cách là một môn khoa học, phép biện chứng duy vật là hình thức phát


triển cao nhất của phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật đã kế thừa
những giá trị tư tưởng của lịch sử hơn 2000 năm của phép biện chứng, đã dựa
chắc vào những thành tựu khoa học nên có tính khoa học sâu sắc. Nó khắc
phục được tính tự phát của phép biện chứng cổ đại, đẩy lùi được phép siêu
hình, vạch trần quan điểm duy tâm trong phép biện chứng của triết học cổ
điển Đức. Đồng thời, chống lại các quan điểm chủ quan, duy ý chí trong nhận
thức và thực tiễn.
Phép biện chứng duy vật không phải là một giáo điều, một lý luận nhất
thành bất biến, một công thức cứng nhắc, máy móc, hay một lý thuyết kinh
viện, một tín điều tôn giáo. Là một học thuyết khoa học và cách mạng, tự bản
thân nó luôn mở ra khả năng và yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển cùng với
sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa học. Lênin nhấn mạnh: “Lý luận
của chúng tôi không phải là một giáo điều mà là một kim chỉ nam cho hành
động”1.
Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, phép biện chứng duy vật là hình
thức phát triển cao nhất của phép biện chứng và là đỉnh cao của tư duy nhân

loại. Phép biện chứng duy vật với những đặc trưng khác hẳn về chất với các
loại hình phép biện chứng đã có trong lịch sử ở tính hệ thống, tính hoàn bị,
tính tự giác và tính chất mở của nó.
2. Vai trò của phép biện chứng duy vật đối với việc khắc phục những
sai lầm trong tư duy
Phép biện chứng duy vật là lý luận khoa học phản ánh khái quát sự vận
động và phát triển của hiện thực. Do đó, nó không chỉ là lý luận về phương
pháp mà còn là sự diễn tả quan niệm về thế giới, là lý luận về thế giới quan.
Hệ thống các quan điểm của phép biện chứng duy vật, do tính đúng đắn và
triệt để của nó đem lại đã trở thành nhân tố định hướng cho quá trình nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người đạt dược nhiều hiệu quả tích cực.
1

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 41, tr 69


Với bản chất khoa học và cách mạng, phép biện chứng duy vật không chỉ
đối lập với phép biện chứng duy tâm, mà nó còn là phương tiện chủ yếu để
khắc phục, ngăn ngừa các khuynh hướng tư duy dẫn đến nhận thức sai lầm
các quy luật khách quan chi phối sự biến đổi của đời sống xã hội.
Những khuynh hướng sai lầm này biểu hiện ra bên ngoài thông qua hoạt
động thực tiễn của con người và làm cản trở, thậm chí triệt tiêu sự phát triển,
do đó, chúng được coi là những căn bệnh. Với ý nghĩa đặc biệt như vậy của
phép biện chứng duy vật, việc đề cao vai trò của nó đối với việc khắc phục
những sai lầm trong tư duy càng trở nên có ý nghĩa hết sức to lớn.
Thứ nhất, trong tư duy chúng ta thường mắc phải bệnh chủ quan duy ý
chí. “Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm kép, trong đó chủ thể tư duy vừa
mắc phải chủ nghĩa chủ quan, lại vừa rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Chủ nghĩa
chủ quan chỉ thể hiện khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của chủ thể trong
quan niệm và hành động, phủ nhận hoàn toàn hay phần nào bản chất và tính

quy luật của thế giới vật chất, của hiện thực khách quan".
Thực chất của căn bệnh này là, trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn, người ta tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan, xa rời hiện thực khách
quan, coi thường các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh chủ quan duy ý chí. Nếu vận dụng nguyên
lý về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để xem xét
thì rõ ràng, bệnh chủ quan duy ý chí là kết quả nếu không nói là tất cả của
những điều kiện sinh hoạt vật chất - xã hội, cụ thể là của trình độ phát triển
thấp kém về kinh tế.
Bệnh chủ quan duy ý chí là sự thể hiện về trình độ văn hoá, khoa học của
chủ thể nhận thức. Có thể khẳng định rằng, ở một mức độ nào đó, người ta
không thể có được tư duy biện chứng khoa học khi trình độ văn hoá, khoa học
chưa đạt đến một chuẩn mực cần có. Vì vậy, sự yếu kém về trình độ văn hoá,


khoa học sẽ tất yếu dẫn đến tư duy kinh nghiệm và phạm phải sai lầm chủ
quan duy ý chí.
Do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận mà dẫn đến lãng quên việc
thường xuyên chủ động nâng cao năng lực tư duy lý luận (trong đó bao gồm
cả quá trình học tập lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn). Về điểm này,
Ăngghen đã từng khẳng định: "Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh
dưới dạng năng lực của người ta. Năng lực ấy cần phái được phát triển hoàn
thiện...”. Vì vậy, để khắc phục tình trạng yếu kém đó, cách trước tiên và chủ
yếu là phải học tập, rèn luyện lý luận. của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Như vậy, bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận
thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói
riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai
lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý
luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm
mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song là một loại bệnh "ấu trĩ

tả khuynh" nên nó vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
Thực tiễn cho thấy, quá trình hoạch định đường lối chiến lược, sách lược
cách mạng và sự cụ thể hoá đường lối đó bằng các chủ trương, chính sách và
pháp luật, nếu bị sự can thiệp, áp đặt của ý muốn chủ quan tự phát sẽ làm
nguy hại nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước mà trước mắt cũng như
lâu dài, hậu quả của nó khó có thể lường trước được. Về vấn đề này,
V.I.Lênin đã cảnh báo: "Đối với một chính Đảng vô sản, không sai lầm nào
nguy là nguy hiểm hơn là định ra sách lược của mình theo ý muốn chủ quan.
Định ra một sách lược vô sản nói trên cơ sở đó có nghĩa là làm cho sách lược
đó bị thất bại".
Có thể sau khi chủ trương, đường lối bị thất bại do bệnh chủ quan gây
nên, những người hoạch định chúng sớm nhận ra sai lầm, do đó chúng có thể
được khắc phục, sửa chữa cho phù hợp với quy luật khách quan và yêu cầu


của thực tiễn. Nhưng cũng có thể xảy ra các tình trạng: không nhận thức được
nguồn gốc sai lầm về mặt tư duy, nhận thức; nhận thức được nguồn gốc sai
lầm đó nhưng chậm được sửa chữa, khắc phục.
Trong trường hợp thứ hai, ngoài nguyên nhân hạn chế về trình độ nhận
thức, trình độ lý luận dẫn đến lúng túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa, sai
lầm, còn có nguyên nhân chủ quan khác. Đó là, do tính bảo thủ hoặc vì lợi ích
cá nhân nên chủ thể tìm cách che giấu khuyết điểm, sai lầm chủ quan, tìm
cách thuyết minh cho "sự sáng tạo hợp quy luật" hoặc tìm cách đổ lỗi cho
người khác, hoặc cho nguyên nhân khách quan... Trong tình hình đó, thay cho
việc tìm cách khắc phục sai lầm thì có thể là thái độ thời ơ, chờ đợi sự may
rủi... và do đó, sai lầm càng trở nên nghiêm trọng.
Bệnh chủ quan duy ý chí còn dẫn đến tệ mệnh lệnh hành chính, hình thức
chủ nghĩa, bệnh gia trưởng độc đoán chuyên quyền, ban phát đặc ân, tệ sùng
bái cá nhân, tham ô, lãng phí, coi thường người lao động...Ở Việt Nam, trong
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, chúng ta cũng đã mắc phải căn

bệnh này. Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong việc đánh
giá những khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải
tạo, phát triển kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao
trong xây dựng cơ bản và phát triền sản xuất. Trong cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không có được một đường lối, chính
sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai lầm chủ quan
duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với
tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Là căn bệnh không chỉ do yếu kém về trình độ nhận thức, trình độ lý luận
mà còn là sản phẩm của một nền sản xuất nhỏ lạc hậu kéo dài, đến lượt nó,
bệnh chủ quan duy ý chí trở thành một trong những nguyên nhân làm cho nền
kinh tế bị đình đốn, sa sút. Do vậy, quá trình khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí phải là sự kết hợp giữa việc nâng cao trình độ nhận thức, trình độ lý luận,


trong đó bao hàm cả việc nắm vững phép biện chứng duy vật với việc đẩy
mạnh đổi mới và phát triển kinh tế. Chừng nào căn bệnh này chưa được khắc
phục triệt để thì nó sẽ còn gắn kết chặt chẽ với bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều làm cản trở sự phát triển đất nước.
Thứ hai, trong tư duy chúng ta thường mắc phải bệnh kinh nghiệm chủ
nghĩa. Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa được đề cập ở đây là muốn nói đến
những sai lầm trong phương pháp tư duy cũng như trong cải tạo thực tiễn.
Thực chất của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là sự cường điệu hoặc tuyệt đối
hoá kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là "chìa khoá vạn năng" trong việc giải
quyết những vấn đề của cuộc sống đặt ra. Biểu hiện của những người mắc
bệnh kinh nghiệm là đề cao kinh nghiệm cảm tính, coi thường tri thức lý luận,
tri thức khoa học, vận dụng kinh nghiệm để giải mã những vấn đề thực tiễn
một cách máy móc, dẫn đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vậy, họ lấy những kinh nghiệm đó ở đâu?
Về đại thể, đó là sự từng trải của bản thân, kinh nghiệm của người khác, kinh

nghiệm của địa phương này hay địa phương nọ, kinh nghiệm của nước này
hay nước khác, kinh nghiệm của các thế hệ trước… Tuy nhiên, trong số
nguồn kinh nghiệm đó thì xu hướng chủ yếu là tuyệt đối hoá kinh nghiệm bản
thân. Những người mắc bệnh kinh nghiệm không hiểu được rằng:
Một là, những kinh nghiệm của bản thân họ chỉ mang tính chất cục bộ,
chứ không phải là cái phổ biến và càng không phải là tri thức kinh nghiệm
phổ biến theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hai là, những kinh nghiệm này họ vay mượn của người khác, hoặc của
quá khứ chưa hẳn đã là những kinh nghiệm được bảo tồn và phát triển theo
"quan điểm chọn lọc". Hơn nữa, những tri thức kinh nghiệm mới chỉ là sự
khái quát từ một thực tiễn, một hoàn cảnh cục bộ, riêng biệt, và trong nhiều
trường hợp, chúng chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài ngẫu nhiên, nhưng
trong thực tế cụ thể, sự việc đã diễn ra một cách khác mà chúng ta đã không


thể (và bất cứ ai cũng không có thể) dự đoán được, nó đã diễn ra một cách
độc đáo hơn và phức tạp hơn nhiều.
Ba là, sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể
chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. Con người Việt Nam vốn mang đậm nét
"tư duy kinh nghiệm". Vì vậy, mặc dù đã được trang bị chủ nghĩa Mác
-Lênin, đặc biệt là phép biện chứng duy vật, nhưng ở một số nhà quản lý của
chúng ta ít nhiều vẫn mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Với căn bệnh này,
trong hoạt động thực tiễn, họ đã rơi vào tình trạng mò mẫm, sự vụ, tuỳ tiện, tự
ti, không nhất quán trong việc thi hành các chủ trương, chính sách của Nhà
nước, làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, và bản thân họ
cũng trở nên bảo thủ, lạc hậu và trì trệ bởi phương pháp hành động cũ kỹ. Hậu
quả đó sẽ trở lên nghiêm trọng hơn khi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa đan kết
chặt chẽ với bệnh chủ quan duy ý chí.
Phải bám sát thực tiễn, khái quát thực tiễn, khái quát lý luận, xây dựng
được chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ lịch sử. Vê

bệnh giáo điều bệnh giáo điều là trạng thái sai lầm trong quá trình tư duy của
chủ thể ( tính máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo), mang lại hiệu
quả xấu cho hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn. Thực chất của bệnh
giáo điều là sự tuyệt đối hoá tri thức lý luận, tri thức khoa học, coi tri thức đã
là chân lý tuyệt đối và vận dụng một cách máy móc những tri thức đó vào
hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không tính đến
tính lịch sử - cụ thể của những hoạt động đó.
Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ
sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, do đó, dẫn đến hạn chế khả năng áp dụng tri thức một cách linh hoạt,
sáng tạo vào cuộc sống và không hiểu được tính biện chứng của quá trình
nhận thức cũng như biện chứng của lịch sử xã hội.


Trong thực tiễn, đôi khi bệnh giáo điều biểu hiện ở việc áp dụng cái
chung vào cái riêng một cách đơn giản, lấy cái phổ biến áp đặt cho cái riêng,
cái đặc thù, hoặc áp. dụng một lý thuyết, một mô hình chưa được kiểm
nghiệm thực sự bởi thực tiễn. Sai lấm đó chính là ở chỗ, như Lênin nói: "Nếu
chỉ biết bắt chước, không có tinh thần phê phán mà đem rập khuôn kinh
nghiệm đó một cách mù quáng vào những điều kiện khác, như thế là sai lầm
nghiêm trọng".
Ở nước ta, ngay sau khi tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân
tộc mình, trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em là sai lầm
nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”. Lời căn dặn đó đến nay vẫn giữ
nguyên giá trị trong việc học tập kinh nghiệm phát triển kinh tế và quản lý
kinh tế của các nước phát triển trên thế giới.
Trước đây chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình chủ nghĩa xã hội của
Liên Xô, bởi coi đó là kiểu mẫu duy nhất mà không tính đến điều kiện đặc thù
của Việt Nam. Rất tiếc, khi phát hiện ra sai lầm, chúng ta đã chậm khắc phục,

sửa chữa, nên căn bệnh này vẫn còn tác động tiêu cực đến sự phát triển của
đất nước. Để căn bản khắc phục căn bệnh này theo tinh thần của phép biện
chứng duy vật, chúng ta phải triệt để phân tích mọi vấn đề trong tính lịch sử cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những giải pháp phù hợp, tránh rập khuôn,
máy móc, tránh tuyệt đối hoá các tri thức đã có.
Những căn bệnh trên đây thường gắn bó chặt chẽ với nhau. Chúng là một
trong những nguyên nhân đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng nghiêm
trọng về kinh tế, xã hội những năm 80. Với tinh thần cách mạng khoa học,
Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi
mới tư duy lý luận được xem là cơ sở. Từ đó đến nay, chúng ta đã có những
bước tiến quan trọng trong việc khắc phục các khuynh hướng tư duy sai lầm,


vận dụng một cách khoa học tư duy biện chứng duy vật trong việc giải quyết
những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Tuy nhiên, vốn là những bệnh đã tồn tại khá lâu dài và những cơ sở nảy
sinh ra chúng chưa hoàn toàn mất đi, nên chúng chưa hoàn toàn bị loại trừ. Ở
mức độ nào đó, những căn bệnh này vẫn còn ảnh hưởng tiêu cực đến công
cuộc đổi mới của chúng ta.
Việc ngăn ngừa, khắc phục các căn bệnh nói trên về thực chất phải là quá
trình xoá bỏ những nguồn gốc đã sinh ra chúng. Điều đó có nghĩa là phải xoá
bỏ tình trạng yếu kém về tư duy lý luận, phát triển tư duy lý luận lên trình độ
cao. Muốn vậy, trước hết phải nắm vững phương pháp luận biện chứng duy
vật và thông qua đó, không ngừng nâng cao trình độ lý luận, năng lực vận
dụng lý luận vào thực tiễn.
Như vậy, nắm vững phép biện chứng duy vật sẽ giúp cho chủ thể vừa
ngăn ngừa, khắc phục những khuynh hướng tư duy sai lầm, vừa nâng cao
năng lực tư duy, tạo khả năng giải quyết đúng đắn những vấn đề do thực tiễn
đặt ra.



KẾT LUẬN
Triết học Mác – Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng ra
đời đã đánh dấu một bước ngoặt cách mạng vĩ đại trong lịch sử tư tưởng, tạo
ra một hệ thống triết học khác về chất so với tất cả các hệ thống triết học
trong lịch sử, hệ thống triết học đó không chỉ giải thích mà còn cải tạo thế
giới. Hệ thống triết học đó giải thích và cải tạo thế giới thông qua tính cách
mạng và khoa học của phép biện chứng duy vật – “linh hồn” sống của chủ
nghĩa Mác – Lênin.
Phép biện chứng duy vật với tính hệ thống, hoàn bị, tự giác và tính chất
“mở” đã cung cấp cho con người những nguyên tắc phương pháp luận trong
chỉ đạo các hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả
tích cực. Đặc biệt, phép biện chứng có vai trò là cơ sở phương pháp luận cho
chúng ta khắc phục những sai lầm trong tư duy, nhất là trong công cuộc đổi
mới, xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Phép biện chứng
duy vật là cơ sở để chúng ta khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh kinh
nghiệm giáo điều trong xác định mô hình, mục tiêu và cách thức xây dựng
chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm lịch sử của Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 20
2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 21
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 23
4. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 23
5. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tập 29
6. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 41
7. Giáo trình Triết học Mác – Lênin lý luận và vận dụng (Dùng cho đào
tạo chức danh cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch), Nxb TCCT,
H.2008.
8. Giáo trình triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh

không thuộc chuyên ngành triết học), Nxb Lý Luận Chính Trị, HN. 2006
9. Giới thiệu những vấn đề triết học trong một số tác phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Nxb QĐND năm 2008



×